Đề bài: Đánh giá Đoạn trích Nỗi oan hại chồng
I. Phân tích chi tiết
II. Bài văn mẫu
Phát ngôn về Đoạn trích Nỗi oan hại chồng
I. Kết cấu Phát ngôn về Đoạn trích Nỗi oan hại chồng
1. Khai mạc
Giới thiệu Đoạn trích 'Nỗi oan hại chồng' và tóm tắt nội dung
2. Phần chính
a. Tổng quan về đoạn trích 'Nỗi oan hại chồng'
- Nằm ở đoạn mở đầu của vở chèo
- Có sự tham gia của 5 nhân vật quan trọng
b. Cảnh khởi đầu đoạn trích
- Mở đầu bằng một tình huống mâu thuẫn
+ Thị Kính, khi đang quạt cho chồng ngủ, phát hiện sợi râu mọc ngược và quyết định cắt bỏ
+ Thiện Sĩ tỉnh giấc, gọi mẹ với tâm trạng lo lắng
+ Sùng bà xuất hiện, đổ tội giết chồng cho Thị Kính
- Thái độ của Sùng bà
+ Không lắng nghe giải thích, nhanh chóng kết tội mà không nghe lời biện hộ
+ Liên tục sử dụng ngôn từ cay đắng, đầy thù hằn, thể hiện sự phân biệt đẳng cấp
+ Hành động tàn bạo, dã man khi đuổi Thị Kính đi
- Tư duy của Thị Kính
+ Kêu oan 5 lần, than phiền 4 lần với Sùng bà và chồng nhưng không hề đạt được sự thông cảm nào.
+ Mỗi lần kêu oan là mỗi lần bị đổ thêm tội
+ Chỉ có Mãng ông là đồng cảm với Thị Kính
c. Sự quyết định của Thị Kính
- Thị Kính lựa chọn rời xa, tìm đến cửa Phật, giữ vững niềm tin và chịu đựng, mặc dù chưa dám đối đầu trực tiếp với tình huống
3. Kết luận
Tổng hợp lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
II. Mẫu bài văn Phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích Nỗi oan hại chồng
Chèo, một biểu tượng của văn hóa nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt là vở chèo 'Quan âm Thị Kính'. Trong đó, đoạn trích 'Nỗi oan hại chồng' là điểm đặc sắc nhất, tả độ chết chóc, bế tắc của Thị Kính và cũng là hình ảnh của phụ nữ trong xã hội phong kiến.
'Nỗi oan hại chồng' nằm ở phần mở đầu của 'Quan âm Thị Kính', là bi kịch đầu tiên của Thị Kính - nàng dâu hiền lành, thùy mị. Trong đoạn trích, xuất hiện 5 nhân vật quan trọng: Thị Kính, Thiện Sĩ - chồng nàng, Sùng ông, Sùng bà là cha mẹ chồng và Mãng ông - cha ruột của Thị Kính.
Mô tả khung cảnh ấm cúng của gia đình Thị Kính, người vợ tận tâm. Sau khi làm xong việc nhà, quạt cho chồng ngủ. Phát hiện sợi râu ngược dưới cằm chồng, nàng quyết định cắt bỏ. Nhưng hành động thiết thực của vợ lại là nguồn gốc của những bi kịch đau lòng trong cuộc sống của Thị Kính.
Nghe tiếng chạy lên, Sùng ông và Sùng bà bất ngờ. Không cần biết rõ nguyên nhân, Sùng bà đã la lớn, quyết đoán tuyên án cho Thị Kính về tội giết chồng: 'Cái khuôn mặt sứa đầy gan này! Mày có ý giết chết mụ tao à?' Những lời lẽ gắt gỏng, mạnh mẽ như đợt sóng dồn đẩy vào Thị Kính. Bà ta ném về phía nàng những lời buộc tội đầy nặng nề như 'Chìm đắm trong hoa đào', 'Gái rượu trai tinh khiết giết chồng', đánh rơi vào Thị Kính những hạt gai của nỗi oan.
Bất chấp tiếng kêu oan của Thị Kính, bà ta không lượng thứ, thực hiện hành động tàn bạo, thô bạo bằng cách 'ép đầu Thị Kính xuống' sau đó 'bắt Thị Kính nghiêng đầu lên'.
Thị Kính kêu lớn hơn, nhưng mụ vẫn không mở lòng, không để cơ hội cho Thị Kính giải thích. Mụ nhẫn tâm đuổi con dâu ra khỏi nhà mà không nghe nàng nói lên lẽ phải. Lý do không chỉ là do nghi án Thị Kính giết chồng mà còn vì Sùng bà coi Thị Kính như một người phụ nữ hư hỏng, xấu xa, không xứng với con trai mình:
'Gia tộc tôi hiên ngang và uy quyền
Mày chỉ là con nhà nghèo khó
Truyền thống gia đình tôi là rồng
Còn mày, chỉ là con nhà ốc ốc
Tình yêu của mày giống như con rắn lừa
Kéo người xuống đến đâu cũng để lại nỗi đau
Nhà mày thì về Cầu Nôm mà ở
Con gái lời nói như chùm rối, về ở với cha đi...'
Trong lời của Sùng bà, những tác giả dân gian đã khéo léo sử dụng nghệ thuật ẩn dụ đầy màu sắc, tạo nên một loạt hình ảnh đối lập, nhấn mạnh sự xung đột của câu chuyện. Sùng bà không chỉ chửi rủa mà còn phân biệt giai cấp, đặt ra những đối lập như 'cao - thấp', 'giàu - nghèo'. Lời nói của Sùng bà không chỉ lạnh lùng mà còn mang đặc tính kiêu căng, tàn độc của tầng lớp địa chủ, tạo ra sự căng thẳng không giải quyết được trong mối quan hệ mẹ chồng - nàng dâu. Thị Kính, dù có đức hạnh, nhưng vì là con nhà nghèo, không được Sùng bà chấp nhận.
Mâu thuẫn giữa Sùng bà và Thị Kính, cũng như giữa gia đình Sùng bà và Thị Kính với cha nàng không chỉ là mâu thuẫn hôn nhân, gia đình mà còn là phản ánh của mâu thuẫn giai cấp nặng nề trong xã hội phong kiến. Sùng bà là biểu tượng của giai cấp địa chủ tàn ác, hợm của, độc đoán và tàn nhẫn. Không chỉ vậy, bà còn là kẻ thiết lập 'luật lệ' trong gia đình, thậm chí ép buộc cả chồng và con phải phục tùng, nể sợ bà. Hình tượng của Sùng bà hiện lên vô cùng sống động, tạo ra cảm giác kinh tởm và căm thù sâu sắc cho độc giả.
Hoàn toàn đối lập với nhân vật Sùng bà là Thị Kính, người phụ nữ nông dân, bình thường, lương thiện. Dù có đức độ nhưng số phận của nàng lại là bi kịch và không hạnh phúc.
Trước sự oan trái từ mẹ chồng, Thị Kính kêu oan năm lần. Bốn lần, nàng kêu oan về phía mẹ chồng và chồng: 'Ôi trời ơi! Mẹ ơi, oan của con quá lớn mẹ ơi', 'Oan thiếp lắm mẹ ơi'... 'Oan thiếp lắm chàng ơi'... 'Mẹ hãy xem xét cho con, oan của con quá lớn mẹ ơi!'. Nhưng tất cả đều vô ích. Mỗi lần kêu oan lại là một lần gia tăng tội lỗi. Đối với Sùng bà, những lời này chỉ khiến tình cảm khinh ghét càng gia tăng. Thiện Sĩ chỉ là một người chồng yếu đuối, bất lực. Hắn không quan tâm đến người vợ yêu thương, kết nghĩa, lạc quan, bất chấp mẹ hắn đổ lỗi và khiến nàng phải gánh chịu mọi oan trái. Khi Thị Kính van xin 'Oan thiếp lắm chàng ơi', Thiện Sĩ giữ im lặng, không có chút tình cảm nào. Đây là lúc mọi người không kiềm chế được sự tức giận và lòng thương cảm dành cho Thị Kính. Một người vợ hiền lành, chăm chỉ, yêu thương chồng lại bị mẹ chồng và chồng ruồng bỏ chỉ vì vài câu nói không có nghĩa.
Mãi đến lần thứ năm kêu oan với Mãng ông, cha của mình, người phụ nữ đáng thương ấy mới đón nhận được sự cảm thông. Tuy chỉ là sự cảm thông giữa đau đớn và sự bất lực. Càng về sau, cảnh trạng của Thị Kính trở nên thê thảm hơn. Hạnh phúc vụng trộm. Thị Kính than thở và hờn trách:
'Trách lòng ai nỡ phụ lòng
Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi...'
Trước tình trạng ấy, nàng quyết định rời gia đình, đổi trang phục giả trai để nhập môn tu, tới nơi cửa Phật. Mặc dù không từ bỏ, Thị Kính vẫn giữ sự cam chịu, nhẫn nhục trước số phận. Nàng không chấp nhận mà cũng không đấu tranh. Thị Kính thiếu đủ can đảm và bản lĩnh để đối mặt với những oan trái bất công mà nàng phải gánh chịu.
Có thể nói, qua đoạn trích 'Nỗi oan hại chồng' và cả vở chèo 'Quan âm Thị Kính', người đọc, người xem có cơ hội chiêm nghiệm cuộc sống của Thị Kính. Nhìn thấy phẩm chất tốt đẹp và nỗi bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời lên án tầng lớp địa chủ độc ác và tàn tệ, qua nét nghệ thuật chèo tuyệt vời của dân tộc.
Quan Âm Thị Kính, một tác phẩm chèo tuyệt vời trong nghệ thuật dân gian Việt Nam, là một hành trình đầy cảm xúc. Khám phá chi tiết về vở chèo này và đặc biệt, đọc trích đoạn Nỗi oan hại chồng. Bạn cũng có thể đọc thêm về Phát ngôn về đoạn trích Nỗi oan hại chồng, hoặc đàm luận về Phân tích đoạn trích Nỗi oan hại chồng. Tóm tắt Nỗi oan hại chồng, khám phá Xung đột trong đoạn trích Nỗi oan hại chồng (trích từ Quan Âm Thị Kính). Có lẽ con đường duy nhất sau Nỗi oan hại chồng của Thị Kính là hành trình kiếp tu.