Bài viết về Đời thừa sẽ tận hưởng cái nhìn sâu sắc vào bi kịch của người trí thức trong xã hội quá khứ. Đồng thời, bạn sẽ thấu hiểu quan điểm về nghệ thuật và trách nhiệm của nghệ sĩ theo góc nhìn của nhà văn Nam Cao. Hãy đọc để bổ sung kiến thức và hiểu biết của bạn!
Bài làm: Đánh giá tác phẩm Đời thừa
Bài viết:
Mẫu số 1:
Nếu nói đến văn học hiện thực Việt Nam, không thể không nhắc đến Nam Cao - một tâm hồn luôn đắm chìm trong nghệ thuật và cuộc sống con người. Các tác phẩm ngắn của ông nắm bắt hai đề tài chính: cuộc sống của người nông dân và những người trí thức tư sản. Hình ảnh Chí Phèo, bị tước đoạt cả về hình thể lẫn tính cách, hay Lão Hạc, đau đáu vì con cái, trở nên không thể quên khi nói về người nông dân. Đối với những trí thức nghèo, Đời thừa là biểu tượng cho những trăn trở ấy.
Tác phẩm kể về Hộ, một trí thức đầy bi kịch. Nhà văn chân chính, ước mơ cao quý về văn chương, Hộ hiểu rằng nghệ thuật là thiên chức thực sự của mình. Hộ muốn viết những tác phẩm lớn, được thế giới công nhận, thậm chí đạt giải Nobel. 'Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Nghệ thuật là tất cả đối với hắn; ngoài nghệ thuật, không còn gì đáng quan tâm. Hắn mơ về một tác phẩm có thể làm mờ hết các tác phẩm khác ra đời cùng một thời...'. Những người có ý chí mạnh mẽ, đủ bản lĩnh mới dám nảy mình vươn lên những giá trị cao quý của nghệ thuật.
Nhưng đời sống khắc nghiệt, đói nghèo, làm cuộc đời Hộ trở thành bi kịch. Ước mơ lớn lao bị đè nén bởi sự thiếu thốn về vật chất, đói kém, đau đớn hàng ngày. Người trí thức phải đối mặt với áp lực của miếng cơm manh áo, nuôi sống lũ con thơ, đặt lên đôi vai gầy của mình. Cuộc sống mưu sinh đè nén những ước mơ, khiến hắn phải bán rẻ ngòi bút, bán rẻ cả lương tâm nghệ viết của mình để kiếm miếng cơm. 'Văn chương phải khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có', nhưng giờ đây, những bài viết vội vã, cẩu thả là thành quả mà hắn tạo ra.
"Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Hộ thấy mình khốn nạn biết bao", sự cẩu thả và chính cái đói, cái nghèo của một xã hội bất công đã bóp nghẹt bao ước mơ hoài bão của những người như Hộ nói riêng và bao kẻ trí thức nghèo nói chung.
Hộ còn lâm vào một bị kịch khác nữa, đó là bị kịch của tình thương. Hắn vốn là một người giàu lòng yêu thương, một người sẵn sàng cưu mang những kẻ nghèo khó hơn mình, bởi vậy hắn yêu Từ và lấy Từ làm vợ. Hộ sống rất có trách nhiệm, luôn cố gắng làm việc để nuôi sống gia đình. Là người cha tốt, người chồng có trách nhiêm, một người đàn ông biết lo lắng cho gia đình. Hộ không muốn nhìn thấy cảnh vợ con khổ sở, cảnh Từ lam lũ, vất vả nên hắn đã từ bỏ ước mơ để kiếm tiền, hắn dành tình yêu thương toàn bộ cho gia đình, xây đắp yêu thương cho ngôi nhà nhỏ. "... Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: "Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hy sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: Hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Và lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?..". Nhưng bao nhiêu thứ phải lo toan khiến hắn bực bội, bí bức, khó chịu, đói khổ vật chất đã đành, tinh thần cũng không thoải mái khiến hắn phải tìm đến men rượu rồi trút hết mọi giận dỗi lên đầu vợ con - những người mà hắn yêu thương hết mực, từng hi sinh tất cả để bảo vệ. Hắn thấy mình thật tệ, dù nhận được sự thấu hiểu của Từ nhưng Hộ vẫn khóc cho lương tâm, cho nỗi đau đớn dày vò trong tâm hồn của mình.
Đời thừa được Nam Cao viết nên không chỉ là tiếng nói thương cảm cho những phần đời đau khổ, kiếp sống nghèo nàn mà qua đó còn lên tiếng tố cáo xã hội đầy bất công, ngang trái, trớ trêu. Xã hội mà ở đó những người trí thức bị bóp nghẹt tài năng, khốn đốn đến cùng cực.
Mẫu số 2:
Nam Cao, người đã góp phần làm phong phú thế giới văn học Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực truyện ngắn và tiểu thuyết. Ông không ngần ngại đối mặt với hiện thực, khám phá những khía cạnh bi kịch, những thăng trầm trong cuộc sống của mỗi con người trong xã hội loạn lạc. Câu nói đặc trưng của Nam Cao: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng mơ hồ, không nên trở thành ánh trăng mơ hồ! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau đớn, thoát ra từ những kiếp người lạc lõng”. Cuộc đời ông dành để tìm kiếm những khía cạnh đau đớn, những mảng tối trong số phận người nông dân hay những tâm hồn nghèo khó vấp ngã. Đời thừa, tác phẩm mang đậm dấu ấn của Nam Cao, là một bi kịch ông tìm thấy để làm sáng tỏ, để chuyển hóa thành nghệ thuật - một nghệ thuật đong đầy hiện thực!
Viết Đời thừa, Nam Cao có lẽ trải qua quá trình sáng tác mượt mà hơn so với những tác phẩm khác, vì ông là một trí thức nghèo, cảm xúc của ông và nhân vật chính gần như là đồng điệu. Nam Cao không cần phải cố gắng nhiều để tưởng tượng và khám phá nhân vật của mình như khi ông viết về người nông dân. Đời thừa của Nam Cao là một kiệt tác, không chỉ làm sáng tỏ hiện thực theo cách mà Nam Cao mong muốn, mà còn mang lại nhiều suy nghĩ, triết lý sâu sắc về nghệ thuật. Tác phẩm đã tạo ra một thế giới nội tâm phong phú cho nhân vật chính, khiến người đọc cảm thấy như đó chính là Nam Cao.
Tiêu đề Đời thừa chắc chắn đã nói lên toàn bộ nội dung của tác phẩm và cuộc đời của nhân vật Hộ. Hộ, một chàng trai trẻ đầy ước mơ, bước vào một giai đoạn mới khi gặp Từ - người phụ nữ gặp nhiều khổ cực, bị đánh bại bởi số phận, bị người tình lừa dối và bỏ rơi khi mang thai. Hộ không hề nghĩ về tương lai, chỉ muốn cứu giúp Từ, đảm bảo trách nhiệm, và kết quả là Hộ chấp nhận Từ làm vợ, nhận trách nhiệm làm cha. Những ngày đầu hạnh phúc với đôi vợ chồng, vì Từ hiền lành và tận tâm, khiến Hộ cảm thấy đây là đủ, là tốt. Nhưng cuộc sống khó khăn dần biến Hộ không còn là chính mình. Ông từng tự hào về tâm hồn đẹp của mình: “Đói rét không có ý nghĩa gì với chàng trai trẻ đam mê lý tưởng. Tâm hồn anh đẹp. Trí óc anh đầy ước mơ lớn. Anh khinh bỉ những lo âu về vật chất”. Nhưng giờ đây, anh có thể chấp nhận đói, nhưng với vợ và con cái, có thể chấp nhận như thế nào? Với vai trò là chồng và cha, Hộ không thể tự do như trước. Những lý tưởng cao quý ngày trước, những lo lắng về tác phẩm nghệ thuật giá trị, những suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống, đều dần bị Hộ đẩy ra xa.
Hộ chỉ còn biết suy nghĩ về cách kiếm thật nhiều tiền, để vợ con không phải đối mặt với đói đến chết. Hộ bắt đầu viết những tác phẩm văn chương tồi tệ, những tác phẩm thịnh hành mà theo Hộ, chỉ là những câu chuyện nhạt nhòa, gợi cảm xúc nhẹ nhàng, diễn đạt một số ý thông thường trong một bối cảnh phẳng lặng và quá nhẹ nhàng. Hộ cảm thấy xấu hổ, đau đớn vì phải tiếp tục viết ngược lại lý tưởng mà anh luôn theo đuổi, vì sự thiếu trách nhiệm và không công bằng trong nghệ thuật của mình. Hộ tự làm đau lòng mình với suy nghĩ đau đớn đó, và rồi Hộ nhận ra mình là người thừa, một cuộc đời thừa thãi trong thế giới văn chương tinh tế, nơi “Văn chương không cần những người thợ làm theo khuôn mẫu. Văn chương chỉ chứa đựng những người biết đào sâu, tìm kiếm những nguồn chưa được khám phá và sáng tạo những điều mới...”. Hộ trở nên chán chường, bất mãn với cả Từ, người vợ luôn “ngoan, phục tùng và tận tâm”. Dù đã có những suy nghĩ lệch lạc như: “Phải biết độc ác, tàn bạo để sống mạnh mẽ”, nhưng tâm hồn nhân đạo và tình yêu thương gia đình không cho phép anh làm điều tồi tệ. Anh không thể bỏ rơi vợ con để theo đuổi nghệ thuật chân chính của mình. Cuộc sống buộc anh thỏa hiệp, nhưng tiền vẫn mãi chưa đủ, khiến Hộ cảm thấy tức giận, ganh ghét cuộc sống đang ép buộc một người đàn ông đầy khổ cực như anh. Hộ tìm đến những cuộc vui, những buổi nhậu để quên đi nỗi đau trong tâm trí.
Hộ, dần mất đi bản ngã của mình, đang bước chân vào con đường u mê của ma túy. Nhưng may mắn thay, tình yêu của Từ và sự kiên nhẫn của cô đã giúp Hộ tránh khỏi bước ngoặt đen tối trước khi anh ta đi quá xa. Hộ chỉ thức tỉnh khi nhận ra sắp mất Từ, nhưng cuộc sống của Hộ vẫn không thoát khỏi bi kịch do chính bản thân anh tạo ra.
Trong câu chuyện, Từ - người vợ của Hộ, là một nhân vật không kém phần quan trọng. Cuộc sống của người phụ nữ này chứa đựng nhiều khổ đau, từ lúc gặp Hộ, cô nghĩ rằng sẽ có hạnh phúc, nhưng cuối cùng lại rơi vào bi kịch. Từ rất nhân hậu, luôn yêu thương chồng con, không bao giờ làm tổn thương Hộ. Bởi vì Hộ đã cứu cô và con trai, bảo toàn danh dự cho Từ. Từ cũng yêu Hộ, cố gắng làm người vợ mẫu mực để giữ gìn tổ ấm khó khăn. Dù thấy Hộ đau khổ và căng thẳng, Từ vẫn kiên nhẫn nhịn, nhưng cuộc sống khó khăn khiến cô phải hy sinh nhiều hơn. Trong tâm trí cô, bản thân là nguyên nhân của bi kịch trong cuộc sống của Hộ. Nhiều lúc, Từ nghĩ đến việc rời đi để giảm đi khổ đau cho Hộ. Nhưng tình cảm yếu đuối của người vợ và người mẹ không cho phép cô làm điều đó. Từ quyết tâm chịu đựng cùng Hộ, thậm chí hy sinh hơn nữa. Cả câu chuyện là một tấm gương đau lòng cho Từ, đặc biệt là hình ảnh cô nằm ôm con trên chiếc võng, cánh tay mảnh mai, gân xanh bóng. Một người phụ nữ yếu đuối mang nhiều bi kịch.
Lời ru cuối cùng của Từ mở ra nhiều suy ngẫm về hiện thực xã hội những năm trước Cách mạng Tháng Tám.
“Ai làm cho gió nổi lên trời,
Mưa rơi ướt đẫm đất, lòng người chia ly;
Ai tạo nên sự phân khí Nam, Bắc;
Đôi hàng nước mắt lăn dài trên cơ thể…
Vẻ đẹp rối bời của đất nước làm cho những con người trí thức phải chôn chân sâu vào lòng đất, từ bỏ những lý tưởng cao quý về nghệ thuật. Họ phải bóp méo đạo đức để kiếm sống từ những tác phẩm văn chương hạ đẳng.
Đời thừa của Nam Cao là một tác phẩm xuất sắc, vẽ lên những bi kịch của tầng lớp trí thức trước Cách mạng tháng Tám. Tác giả đi sâu vào tâm hồn nhân vật, khai thác những tinh túy của nghệ thuật và ý nghĩa sâu sắc. Tác phẩm đồng thời mang đến giá trị nhân đạo cao cả, nổi bật tình yêu thương và lòng trung kiên trong gia đình, đồng thời tôn vinh những giá trị con người ẩn sau bi kịch.
Đời thừa, tác phẩm nổi tiếng của Nam Cao, là tuyên ngôn nghệ thuật. Phân tích sâu sắc giá trị nhân đạo trong tác phẩm, nhấn mạnh vai trò của nhân vật Từ, và tìm hiểu thêm về nghệ thuật đặc sắc của tác giả. Một bức tranh văn hóa độc đáo được tạo nên trong Đời thừa, điểm nhấn về tình cảm và giá trị con người.