Bài văn Phân tích đôi khổ thơ cuối bài Tràng Giang sẽ đi sâu vào tìm hiểu về bức tranh thiên nhiên sông nước, cảm nhận sự đơn độc, huyền bí và nỗi buồn thầm kín trong tâm hồn của nhà thơ trước cuộc sống lớn lao.
1. Dàn ý
2. Mẫu số 1
3. Mẫu số 2
Đánh giá chi tiết hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang
I. Bài văn Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang (Tiêu chuẩn)
1. Giới thiệu:
- Tổng quan về tác giả, tác phẩm.
- Hướng dẫn chi tiết vào hai khổ thơ 3, 4 của bài thơ.
2. Phần thân bài:
a. Đánh giá khổ 3:
- Hình ảnh của 'cánh lá bèo':
+ Những chiếc lá bèo nổi trôi không hướng, biểu tượng cho những cuộc sống nhỏ bé, bơ vơ, không biết điều hướng, lạc lõng giữa dòng đời.
+ 'Hàng nối hàng': những số phận 'hàng nối hàng' lạc lõng trước cuộc đời, đối mặt với những thách thức của cuộc sống...(Còn tiếp)
>> Chi tiết về Dàn ý
II. Bài mẫu Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang (Chuẩn)
1. Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang, mẫu 1 (Chuẩn)
Khi nhắc đến Huy Cận, ta khắc sâu hình ảnh của một thi sĩ u sầu, thể hiện trong những bài thơ của ông. Trong tác phẩm 'Tràng giang' viết vào mùa thu năm 1939, hai khổ thơ cuối cùng là điểm đặc biệt, chứa đựng nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp của thi nhân.
“Bèo trôi về đâu, hàng liên kết;”
Không phải là không gian rộng lớn, hùng vĩ, mở ra với nhiều chiều sâu như khổ thơ trước. Trên khổ thơ thứ ba, tác giả đưa tầm mắt đến hình ảnh bèo trôi trên sóng nước. Những cánh bèo nổi trôi không hướng, không rõ đích đến. Những cánh bèo nhỏ bé giữa dòng nước bao la có thể là biểu tượng cho những người nhỏ bé, bơ vơ, bất lực giữa dòng đời. Đọc câu thơ, ta như cảm nhận được sự bất lực, nỗi bế tắc của thi nhân. Những cánh bèo liên kết trôi đi như những người 'liên kết' đang lạc lõng trước cuộc đời. Họ không biết họ sẽ đi về đâu, cánh bèo mặc kệ dòng nước cuốn trôi như cuộc đời mặc kệ dòng đời xô đẩy.
“Vô biên không một chuyến đò qua.
Không mong chút gì thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Từ 'không' được sử dụng tinh tế để mô phỏng một không gian vắng lặng, hoang hoải. Dòng sông mênh mông sóng nước, rộng lớn nhưng không có chuyến đò, không có hình bóng của ai đó, không có cây cầu nối giữa dòng người. Tất cả đều chênh vênh, con người và sông như hai thế giới với một nỗi niềm chung, khát khao tìm kiếm người tri kỷ mà không thấy, mà càng hy vọng lại càng xa xôi. Thiên nhiên tuyệt vời nhưng vắng bóng con người, tạo ra một miền đất vắng lặng, hẻo lánh. Nỗi cô đơn tự nhiên trỗi dậy khắp không gian, chiếm giữ tâm hồn của thi nhân.
“Lặng lẽ bờ xanh nối tiếp bãi cát vàng”
Trong không gian cô đơn đó, những gam màu bắt đầu hiện hữu: “bờ xanh” gặp gỡ “bãi vàng”. Dù màu xanh tươi mát hay sắc vàng ấm áp của bờ bãi, cồn cát, nhưng chúng không làm tươi mới bức tranh thiên nhiên, ngược lại, chúng làm nổi bật thêm vẻ u tịch của miền hoang hoải. Ta tự hỏi liệu cảnh đẹp hay trái tim buồn bã của thi nhân đang làm nên những lời thơ u sầu?
“Không có cảnh đẹp nào mà bản thân nó mang lại niềm vui,
Người buồn thì ở bất kỳ cảnh đẹp nào cũng chẳng vui”
(Theo Nguyễn Du)
Nhìn lên, hướng tới bầu trời cao rộng:
“Bồng bềnh mây cao kề núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều dịu.”
Hình ảnh “mây” cùng “cánh chim” trong bài thơ là biểu tượng của sức sống và hùng vĩ. Mây lớp lớp chồng lên nhau tạo nên những dãy núi bạc lạ mắt, lơ lửng trên bầu trời xanh. Cảnh tượng này thật hùng vĩ và sống động. Tuy nhiên, bên trong vẻ đẹp ấy, tâm hồn thi nhân lại trải qua nỗi cô đơn và buồn bã khi ngắm nhìn “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều dịu”. Cánh chim mảnh mai giữa mây cao, núi bạc, tạo nên hình ảnh cô đơn giữa không gian rộng lớn, như là biểu hiện của tâm hồn thi nhân chìm đắm trong sự lạc lõng và chán nản giữa cuộc đời.
Khám phá tâm trạng thi sĩ qua hai khổ thơ cuối của bài Tràng Giang
Tình yêu quê hương, đất nước là một trải nghiệm quý báu của các nhà thơ. Thôi Hiệu, khi nhìn thấy sóng nước trên sông, lại bắt gặp hình ảnh quê hương:
“Nguyệt nằm yên trên nơi thấp thoáng quê nhà
Cảnh đẹp dừng lại trên đỉnh núi xa.”
Lí Bạch, nhìn thấy ánh trăng, lại hoài niệm về quê hương mình với sự da diết:
“Nghiêng đầu nhìn ánh sáng trắng minh của trăng
Khao khát quê hương ở xa.”
Huy Cận, đứng trên quê hương, lại cảm nhận mùi hương quê nhà mình một cách da diết:
“Tim đất hứng nước, hồn quê gọi mời,
Chập chùng hoàng hôn, hương nhớ quê nhà.”
Lay động bởi từ “dợn dợn”, tâm hồn nhà thơ lưu luyến với sự chuyển động không ngừng, niềm nhớ mãi không dứt. Đó như là khắc sâu trong trí tưởng tượng của người sáng tác, một niềm nhớ vô tận, mãnh liệt. Ngay cả khi hoàng hôn buông lạc, không khói bên bờ, lòng vẫn hướng về quê nhà.
Hai khổ cuối bài thơ, như một bức tranh đẹp nhưng u buồn. Trong từng chữ viết, tâm trạng thi sĩ hiện hữu, cô đơn nhưng chất chứa tình cảm sâu sắc, thương thủy với quê hương, đất nước.
2. Bài viết Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang, mẫu số 2 (Chuẩn)
Huy Cận là biểu tượng của phong trào Thơ mới Việt Nam. Trước thời cách mạng, thơ ông nền nang nỗi buồn trí thức trước thế giới hỗn loạn. 'Tràng giang' là tác phẩm đặc trưng, vinh danh tài năng và phong cách sáng tác của ông. Hai khổ thơ cuối chứa đựng đau đớn, buồn bã của người đơn côi giữa cuộc sống.
Trong những khổ thơ đầu, Huy Cận miêu tả sông nước, mây trời rộng lớn. Ở hai khổ thơ cuối, nhà thơ thể hiện tâm trạng và suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, kiếp người.
'Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.'
Hình ảnh 'bèo dạt' không chỉ mô tả cảnh vật trên sông mà còn nói lên sự nhỏ bé, lênh đênh của kiếp người giữa cuộc đời lớn. Sông rộng lớn nhưng cô đơn đến tận cùng: 'Mênh mông không một chuyến đò ngang'. Nhà thơ tìm kiếm nhưng không gặp thêm 'niềm thân mật'. Câu thơ 'Không cầu gợi chút niềm thân mật' là tiếng thở dài bất lực khi không tìm thấy hơi ấm con người. 'Không' phủ nhận mọi gắn kết giữa con người và thiên nhiên, tạo ra không gian vô tận, hoang vắng.
Bài văn Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang ấn tượng nhất
Dùng từ 'lặng lẽ' để mô tả vắng lặng, làm nổi bật sự nhạt nhòa, không đậm nét của 'bờ xanh', 'bãi vàng'. Cảnh vật xuất hiện nhưng không đủ để xóa đi cảm giác trống vắng, hiu quạnh, vì nó không tạo ra 'thân mật', sự kết nối. Với tâm hồn đang gặp nỗi buồn, cảnh đẹp cũng trở nên u tịch như Nguyễn Du đã diễn đạt:
'Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'
Trong vô vàn trời đất, Huy Cận không tìm thấy người đồng cảm, không ai hiểu được nỗi buồn sâu sắc. Nỗi u sầu không lời để nói, chỉ tự giữ lại, khiến nó trở nên càng đau đớn, khắc sâu trong tâm hồn.
Mây dày đặc bao phủ núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều xa.
Lòng quê xao xuyến với dòng nước,
Không khói hoàng hôn cũng đọng mãi nhớ nhà.
Nhà thơ Huy Cận không cảm nhận được sự giao cảm từ sông nước, mà thay vào đó, ông chú ý đến không gian rộng lớn, hùng vĩ của hoàng hôn. 'Lớp lớp' mây tạo nên khung cảnh đẹp mê hồn, nhưng cũng làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống trải. Mây cao đùn núi bạc đong đưa, đẹp đến nao lòng. Từ 'đùn' như là lời thách thức cuộc sống ngày càng mạnh mẽ. Như thơ Nguyễn Trãi đã viết:
'Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giường'
Câu thơ 'Lớp lớp mây cao đùn núi bạc' đẹp, nhưng cũng đau lòng, làm nổi bật nỗi trống trải, hư không. Hình ảnh mây lớp lớp gợi lên những cảm xúc phức tạp, xếp chồng lên nhau. Sự xuất hiện của cánh chim giữa 'bóng chiều xa' làm đậm thêm nét cô đơn, lạc lõng trong tâm hồn nhà thơ. Trong khung cảnh hùng vĩ của đám mây bạc, cánh chim nhỏ bé như tâm trạng lạc lõng giữa cuộc đời rộng lớn.
'Trái tim quê hương dịu dàng, hòa mình giữa dòng nước trôi,
Không khói chiều tà cũng là lúc trái tim nhớ nhà'
Nguyên bản từ từ 'dợn dợn' của nhà thơ Huy Cận, khi gặp gỡ với 'vời con nước', đã tô điểm cho nỗi buồn lẻ loi, cô đơn của một tâm hồn trải lòng về quê hương. Khác biệt với hình ảnh khói hoàng hôn trong thơ cổ điển, Thôi Hiệu đã viết: 'Hương của quê hương hiện về từ mộ nhật/Trên triền núi Giang Đông, lòng người sầu muộn'. Nhưng với Huy Cận, khói hoàng hôn không chỉ là ký hiệu, mà còn là niềm nhớ quê hương sâu sắc, ngay cả khi không có khói, những tâm hồn vẫn nhớ nhà. Có thể vì niềm nhớ luôn hiện hữu trong trái tim nhà thơ, nên dù không có 'catalyst', nhà thơ vẫn giữ nguyên tấm lòng quê.
Những dòng thơ cuối cùng của bài Tràng Giang không chỉ làm mở ra khung cảnh sông nước bao la, hùng vĩ trước mắt, mà còn thể hiện rõ nỗi lòng đau buồn của một tâm hồn sáng tác. Hai khổ thơ đặt vào trái tim người đọc một nỗi buồn sâu thẳm, tuy buồn nhưng đẹp đẽ, vì đó là những cảm xúc quen thuộc, mơ hồ mà chúng ta thường trải qua. Nhưng qua ngòi bút của Huy Cận, nỗi buồn trở nên thơ mộng, da diết. Như nhà phê bình Hoài Thanh đã mô tả: 'Huy Cận nhặt nhạnh từng hạt buồn để rồi sáng tạo ra những dòng thơ tinh tế. Người đọc sẽ ngạc nhiên, không ngờ từ những phần bụi bặm hàng ngày, ông có thể tạo nên những viên ngọc quý'.
""""---END"""""-
Tràng Giang, một tác phẩm đặc sắc của nhà thơ Huy Cận trong thời kỳ trước khi xã hội chuyển mình vào tháng Tám. Để hiểu rõ hơn về bài thơ này, ngoài việc đọc Phân tích hai khổ cuối bài Tràng Giang, bạn cũng có thể tham khảo thêm: Phân tích hai khổ đầu bài Tràng Giang, Phân tích khổ thứ 3 của bài thơ Tràng Giang của Huy Cận, Phân tích yếu tố cá nhân trong bài Tràng Giang, hoặc đọc nhận xét tổng quan về bài thơ Tràng Giang.