Đánh giá hình ảnh người mẹ trong bài thơ Bếp lửa tuyển chọn 15 bài văn tốt nhất của các bạn học sinh xuất sắc trong cả nước, kèm theo 2 dàn ý chi tiết, giúp các em hiểu rõ hơn về hình ảnh người mẹ nhân hậu, kiên nhẫn, giàu lòng nhân ái và đức hi sinh.
Hình ảnh người mẹ đồng thời là biểu tượng của phụ nữ trong xã hội xưa, vừa mạnh mẽ, kiên cường, vừa tràn đầy lòng yêu thương và sự hi sinh. Hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây của Mytour để hiểu rõ hơn về bài thơ Bếp lửa được học trong chương trình Văn 9, Bài 6 sách Ngữ văn 8 Kết nối tri thức Tập 2.
Đánh giá hình ảnh người mẹ trong bài thơ Bếp lửa
- Sơ đồ tư duy Phân tích hình ảnh người mẹ trong Bếp lửa
- Dàn ý phân tích hình ảnh người mẹ trong bài thơ Bếp lửa (2 mẫu)
- Phân tích hình tượng người mẹ trong Bếp lửa
- Phân tích hình ảnh người mẹ trong bài thơ Bếp lửa (10 mẫu)
- Phân tích hình ảnh người mẹ và ngọn lửa trong bài Bếp lửa
- Cảm nhận hình ảnh người mẹ trong bài thơ Bếp lửa
- Cảm nhận người mẹ trong bài thơ Bếp lửa
- Cảm nhận về hình ảnh người mẹ trong bài thơ Bếp lửa
Sơ đồ tư duy Phân tích hình ảnh người mẹ trong Bếp lửa
Dàn ý phân tích hình ảnh người mẹ trong bài thơ Bếp lửa
Dàn ý 1
1. Giới thiệu:
- Đưa ra tổng quan về tác giả và tác phẩm.
- Phác thảo về hình tượng người mẹ.
2. Nội dung chính:
a) Hình ảnh người mẹ hiền hậu, lòng nhân ái:
- 'Trong ánh sáng mặt trời ấm áp/Chị mỉm cười, chăm sóc từng bước con': Đoạn văn tả người mẹ hiền lành, luôn dành sự quan tâm và yêu thương vô điều kiện cho con cái.
- 'Cháu yêu bà biết bao nhiêu nắng mưa':
- 'yêu': thể hiện tình cảm sâu nặng của người cháu dành cho bà.
- 'nắng mưa': biểu tượng cho những khó khăn, gian truân mà bà đã trải qua.
- Cuộc sống đầy gian truân, vất vả nhưng bà vẫn luôn sưởi ấm những bếp lửa yêu thương cho cháu: 'Bà vẫn giữ cho con dậy sớm/Nhóm bếp lửa ấp ủ yêu thương/Nhóm niềm ân cần, gia vị đầy hương/Nhóm nồi cơm nức nở hương cơm mới/Nhóm chia sẻ những niềm vui thơ ngây'.
=> Cuộc đời bà là hành trình đầy gian khổ, khó khăn nhưng bà vẫn luôn là biểu tượng của sự hi sinh và tình yêu thương vô điều kiện của phụ nữ Việt Nam trong quá khứ.
b) Bà là nguồn lực tinh thần cho con cháu:
- Trong những khó khăn, bà vẫn kiên cường nhắc nhở cháu: 'Con viết thư, đừng nói về những điều phiền muộn/ Bảo cháu ở nhà, có được sự yên bình'.
=> Bà không muốn con phải lo lắng khi ở chiến trường, bà luôn là điểm tựa vững chắc cho con giữa cuộc sống đầy gian nan.
- Bà luôn quan tâm, chăm sóc từng khúc mắc nhỏ của cháu: 'Suốt tám năm, bên bà, cháu và bà bên lửa', 'Bên bà, bảo cháu, cháu nghe', 'Bà dạy cháu làm việc, chăm sóc cháu học'.
- Trái tim bà luôn bừng lên ngọn lửa yêu thương: 'Sớm chiều, lửa bếp nhen nhóm/ Ngọn lửa ấy, lòng bà chứa trọn ước mơ/ Ngọn lửa ấy, niềm tin không phai mờ'.
=> Bà đã truyền cho cháu ngọn lửa của tình thương, của ý chí sống, một ngọn lửa mãnh liệt để chiếu sáng con đường tương lai của cháu.
3. Phần kết:
- Xác nhận lại ý nghĩa về nội dung và giá trị nghệ thuật:
- Giá trị nội dung: Bức tranh về người bà kiên trì, cống hiến cho con cháu trong cuộc sống đầy gian nan.
- Giá trị nghệ thuật: Sử dụng ngôn từ tu từ, hình ảnh thơ phong phú, giọng thơ chân thành và sâu lắng.
- Mở rộng góc nhìn.
Dàn ý 2
I. Khởi đầu
- Giới thiệu về tác giả Bằng Việt và tác phẩm thơ Bếp lửa
- Tóm tắt ngắn gọn về nội dung và phẩm chất nghệ thuật của bài thơ: gợi lại những kí ức đậm sâu về tuổi thơ, tình cảm đầy yêu thương giữa bà và cháu, đầy cảm động
- Hình ảnh của người bà hiền hậu, đầy tình thương, hi sinh vì con cháu được tả một cách gần gũi, dễ thân thuộc và ấm áp
II. Thân bài
- Hình ảnh bếp lửa ở xứ người đánh thức nỗi nhớ về bà, về quê hương
- Những kí ức về bà, về tuổi thơ hiện về qua hình ảnh thân thương của bếp lửa
+ Hình ảnh của bếp lửa “chờn vờn sương sớm” và “ấp iu nồng đượm” hiện về trong tâm trí người cháu, nhấn mạnh tính nhân hậu của người bà với tấm lòng hiền lành khi nhóm lửa
- Khi ở xa quê nhà, hình ảnh của bếp lửa tự nhiên đánh thức dòng cảm xúc, nỗi nhớ về bà luôn sống mãi trong lòng người cháu: tình yêu thương của cháu dành cho bà luôn sâu sắc và không lời
- Bài thơ làm tái hiện lại những kỷ niệm ấm áp, yên bình của tuổi thơ khi bên cạnh người bà
- Thời thơ ấu của đứa cháu là những ngày tháng khó khăn, thiếu thốn “đói mòn đói mỏi” luôn làm đau lòng mỗi khi nhớ về
- Nhưng có bà, cuộc sống của đứa cháu luôn được che chở, ấm áp bởi tình yêu thương của bà
- Âm thanh của tiếng tu hú kết hợp với hình ảnh bên cạnh bếp lửa tạo nên bức tranh hòa quyện, thể hiện tình cảm đậm sâu giữa hai bà cháu, sẻ chia những khoảnh khắc đầy ấm áp suốt 8 năm qua
- Bà luôn đảm nhận nhiều trách nhiệm trong việc chăm sóc cháu: việc bà dạy bảo, chăm sóc và dạy dỗ cháu diễn tả sâu sắc và cảm động tình yêu thương của bà dành cho cháu, cùng với sự quan tâm nhỏ nhặt của bà
+ Bà là nơi chắc chắn mà cháu luôn có thể dựa vào, điền vào những khoảng trống về cả vật chất và tinh thần trong cuộc sống của mình
- Trong thời kỳ chiến tranh hỗn loạn, bà giữ vững lòng mạnh mẽ, tạo niềm tin cho con cháu
+ Hình ảnh của bếp lửa, ngọn lửa ấm áp bởi tình yêu thương và sự hy sinh của bà đặt ngược với ngọn lửa hung bạo, hủy diệt sự sống của kẻ thù (khi quân địch tàn phá làng, đốt cháy tất cả)
→ Sự kết hợp giữa mạch cảm xúc và lời kể, cùng với hình ảnh thơ lan tỏa, thể hiện rõ ràng dấu ấn sâu sắc về người bà. Những suy ngẫm về cuộc đời bà và hình ảnh của bếp lửa để lại những dấu ấn sâu sắc
- Từ những kỷ niệm về bà, người cháu suy tư, suy ngẫm về cuộc đời của bà
- Hình ảnh của bà luôn liên kết chặt chẽ với hình ảnh của bếp lửa ấm áp, thân thuộc
- Trong tâm trí bà luôn tồn tại một 'ngọn lửa' sẵn sàng, đó là ngọn lửa của niềm tin, ý chí, lòng quyết tâm và khao khát sống
- Điều này nhấn mạnh vào tình yêu thương và lòng nhân ái của bà dành cho cháu
- Ngọn lửa ấy là nguồn động viên, tình yêu và ý chí sống, mang lại niềm tin vào ngày mai cho đứa cháu
- Hình ảnh của người bà, là người khép kín từ sáng đến tối, là người thắp lửa, truyền lửa cho thế hệ trẻ
- Mặc dù cuộc sống của bà trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng bà luôn lạc quan, tin tưởng và dành những điều tốt đẹp nhất cho con cháu
- Động từ 'nhóm' được lặp lại nhằm nhấn mạnh: bà là người khơi dậy những giá trị sống tốt đẹp trong mỗi con người. Bà đã truyền đạt tình yêu thương, khơi dậy trong tâm hồn của cháu lòng nhân ái, sự thông cảm và chia sẻ
- Qua đó, nhà thơ khám phá ra điều kỳ diệu trong cuộc sống bình dị 'Ôi kỳ diệu và thiêng liêng - bếp lửa'
- Khổ thơ cuối cùng là lời bày tỏ của người cháu khi trưởng thành, rời xa quê hương
+ Dù ở xa quê hương, cách xa bà, nhưng người cháu vẫn luôn nhớ và hướng về bà với tình yêu thương sâu đậm, lòng biết ơn không ngừng
III. Tổng kết:
- Tác giả đã thành công trong việc xây dựng hình tượng bếp lửa để tôn vinh những phẩm chất cao quý của bà. Qua đó, thể hiện tình cảm yêu quý, tôn trọng đối với bà từ phía người cháu ở xa quê, nhưng luôn ghi nhớ và biết ơn những hy sinh, chăm sóc, dạy bảo của bà.
Phân tích hình tượng người bà trong Bếp lửa
Bằng Việt được biết đến là một nhà thơ tài năng của văn học Việt Nam. Với lối thơ trong trẻo, chân thành, ông đã sáng tác nhiều tác phẩm ý nghĩa. Trong số đó, không thể không kể đến bài thơ 'Bếp lửa'. Tác phẩm này đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về hình ảnh người bà đầy lòng từ bi, kiên nhẫn, yêu thương và luôn dành cho gia đình sự quan tâm chu đáo.
Bắt đầu bài thơ, người đọc được ngắm nhìn hình ảnh của bếp lửa kết nối với những kỷ niệm bên người bà yêu quý:
'Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa'.
Câu thơ đầu tiên vẽ lên bức tranh bếp lửa thân thương, quen thuộc trong buổi sớm mai. Đôi bàn tay khéo léo của bà vẫn hàng ngày đốt lên bếp lửa ấm áp để chăm sóc cháu. Những câu thơ này không chỉ thể hiện lòng biết ơn chân thành của người cháu dành cho bà mà còn 'nắng mưa' cũng là biểu tượng cho những gian khó, nỗi vất vả mà bà đã phải trải qua.
Dù có vất vả đến đâu, bà vẫn không bao giờ than trách mà vẫn luôn đốt lên bếp lửa yêu thương để nuôi dưỡng cháu:
'Đã mấy chục năm rồi, cho đến tận bây giờ'
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Đốt lên bếp lửa ấm áp
Chứa đựng niềm yêu thương, đồ ăn ngọt bùi
Chia sẻ niềm vui qua nồi xôi gạo mới
Đồng thời chia sẻ những tâm tình của tuổi thơ'
Từ 'mấy chục năm' đã giúp người đọc hiểu được quãng thời gian dài, vất vả mà bà đã trải qua. Dường như, bà đã dành cả cuộc đời để chăm sóc gia đình. Bà kính yêu luôn thức dậy sớm, nhóm lên bếp lửa để nuôi nấng cháu con. Bằng cách sử dụng từ 'nhóm' được lặp lại ở đầu mỗi câu thơ, tác giả đã nhấn mạnh hành động đốt lửa quen thuộc hàng ngày của bà. Bà không chỉ chăm sóc gia đình mà còn dành sự quan tâm tới những người hàng xóm xung quanh. Chi tiết 'Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui' thể hiện tình làng nghĩa xóm thân thiết, sẵn sàng chia sẻ cho nhau những điều tưởng như nhỏ bé nhất. Vậy chỉ với vài câu thơ, người đọc có thể cảm nhận được cuộc đời bà phải trải qua bao khó khăn nhưng bà vẫn luôn cố gắng dành tất cả những điều tốt nhất cho con cháu. Qua đây, nhà thơ như muốn gửi gắm rất nhiều yêu thương dành cho người bà kính yêu.
Bà không chỉ chịu thương, chịu khó mà còn là điểm tựa vững chắc tinh thần cho con cháu:
'Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên'.
Và:
'Tám năm qua, cháu cùng bà nhóm lửa',
Cháu ở cùng bà, bà dặn cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa vẫn nhớ bà khó nhọc'.
Bà là điểm tựa vững chắc cho con cháu yên tâm chiến đấu. Trong những thời điểm khó khăn, bà luôn nỗ lực lo lắng mọi việc. Người phụ nữ đó không muốn con cháu ở chiến trường phải lo lắng về nhà nên đã bảo cháu đừng kể cho cha mẹ nghe chuyện giặc đốt làng. Không chỉ thế, bà còn luôn chăm sóc từng chi tiết cho con cháu, từ bữa ăn, giấc ngủ đến việc học. Chính bà đã truyền cho con cháu ngọn lửa của tình thương, của ý chí sống. Một ngọn lửa mãnh liệt để thắp sáng hy vọng cho con cháu về một tương lai tươi sáng.
Bằng cách sử dụng những từ ngữ tinh tế kết hợp với giọng thơ chân thành, tha thiết, nhà thơ Bằng Việt đã làm nổi bật hình ảnh người bà tận tình, chịu khó. Qua đó, tác giả muốn ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội thời kỳ chiến tranh. Họ không chỉ chịu khó, chăm sóc gia đình mà còn là điểm tựa vững chắc cho người lính trên chiến trường.
Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 1
Ai cũng có quá khứ bên gia đình, một tuổi thơ hạnh phúc hoặc đau khổ, nhưng trong lòng mỗi người, những kí ức về tuổi thơ luôn sâu sắc và lớn lao nhất. Chúng mãi mãi là những điều không thể nào quên được.
Hình ảnh đó sẽ đi theo ta suốt cuộc hành trình đầy những gian nan và thăng trầm của cuộc đời, chiếm lĩnh tâm trí và sinh sống mãi mãi trong lòng ta... Dù tuổi thơ của ta trải qua những khoảnh khắc ngọt ngào hay đắng cay, vẫn có một hoặc nhiều người đã đồng hành, chăm sóc ta,... và để lại dấu ấn lưu lại theo thời gian, điều đó sống mãi trong ký ức, năm tháng...
Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như thế... Một tuổi thơ cảm xúc, cô đơn nhưng đầy đủ, ấm áp và hạnh phúc không giới hạn! Đầy đủ, tràn ngập tình yêu thương của bà, ấm áp bởi sự chăm sóc, quan tâm, bảo bọc của bà trong những ngày chúng ta ở xa bố mẹ và hạnh phúc bởi... có bà ở bên!
Ông đã viết bài thơ “Bếp lửa” khi đang học tập ở Liên Xô, nhớ về những kỷ niệm thời thơ ấu bên bà trong một ngày đông giá rét, với những cảm xúc sâu sắc và tình yêu thương từ trái tim, theo dòng ký ức của những ngày bên bếp lửa rực cháy, tình thương ấm áp, theo nhịp đập của một trái tim đầy nhớ nhung...
“Bếp lửa” không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn làm ấm cả cuộc đời... “Bếp lửa” chính là bà ở bên cháu, hình ảnh của bà hiện hữu trong ánh lửa “chờn vờn”, “chờn vờn”, đúng không bà ơi...? Bà đang nhóm lửa trong những dòng thơ đầu của cháu...
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ngay từ ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa” đã gắn liền với các từ láy... tạo nên cảm giác ấm áp và đậm chất gia đình. Trong câu thơ đầu, bếp lửa với những ngọn lửa ấm áp như “chờn vờn” sưởi ấm toàn bộ căn nhà trong những buổi sáng tinh mơ, khi sương mù buổi sớm làm se lạnh mùa đông khi hai bà cháu sống cạnh nhau. Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên khi cháu hồi tưởng về quá khứ.
Với hình bóng bà luôn gắn với bếp lửa “rồi sớm rồi chiều”, bếp lửa cũng ấm như tình yêu thương của bà, ấm như tình cảm gia đình. Hơi ấm từ bếp lửa chính là lòng của bà, sưởi ấm trái tim cháu, lan tỏa khắp căn nhà chỉ có hai người, nơi trước đó trống vắng, lạnh lẽo, xua đi nỗi cô đơn, buồn tẻ của hai bà cháu hoặc làm ấm cả mùa đông lạnh giá bên ngoài...?
“Ấp iu” - gợi lên hình ảnh một bàn tay nhẹ nhàng đang nhóm lửa một cách khéo léo, ân cần. Mặc dù không trực tiếp xuất hiện, hình ảnh bà hiện lên rất rõ. Bà ngồi bên bếp lửa, nhóm lửa “chờn vờn”, “ấp iu nồng đượm” tình thương vô bờ bến mà bà dành cho cháu.
Tới câu thứ hai, cháu thốt lên theo dòng cảm xúc “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” trong trái tim nhớ về người bà gian nan, vất vả và từng trải! Một từ “thương” đã đủ đọng lại ý thơ cho cả đoạn. Cháu hiểu và thương bà lắm những nỗ lực, gian khó, khó khăn, đau thương của bà!
Cháu hiểu và cảm nhận lắm những hy sinh im lặng của cuộc đời bà! Tình thương là gia vị muối mặn của tình người, là liên kết của mối quan hệ. Chữ “thương” thường xuất hiện trong thơ ca trữ tình và đặc biệt nhiều trong những tác phẩm nói về tình yêu thương con người.
Tình thương chứa đựng trong lòng cháu, từ “thương” đã thể hiện được biết bao cảm xúc, niềm nhớ thương sâu sắc, da diết và mãnh liệt, mong ước được trở về tuổi thơ bên bà, ngồi bên dưới ánh lửa ấm của bếp lửa và ngập tràn tình yêu thương... Hình ảnh bà “biết mấy nắng mưa” dần hiện rõ, tỏ ra với những hy sinh im lặng, lặng lẽ. Hồi ức trỗi dậy dưới những dòng thơ của tác giả, hiện ra qua ánh lửa ký ức, tràn về quá khứ...:
Nhớ lại ký ức năm cháu bốn tuổi, những gì ám ảnh nhất là mùi khói và cảm giác nghèo đói. Những năm tháng đói khổ, từ khi lên bốn, cháu đã cảm nhận được mùi khói, đó là năm nạn đói 1945, một thời kỳ đói khát khủng khiếp, kinh hoàng và kéo dài, “đói mòn đói mỏi”. Từ “đói mòn” như chia cắt thành hai tiếng đau đớn, làm xé lòng, ăn sâu vào tâm trí cháu, một ẩn ức không thể nào quên - cảm giác đói kéo dài làm con người mệt mỏi, suy sụp dần, như từ từ hủy hoại con người!
Bao phủ xã hội lúc bấy giờ là cái đói kinh hoàng, cái đói lịch sử của dân tộc ta đã cướp đi hơn hai triệu sinh mạng! Trong kí ức của cháu, đến bây giờ nó vẫn làm ám ảnh dai dẳng, khủng khiếp! Hơn hai mươi năm sau, mùi khói vẫn khiến cho tác giả đau đớn, như thể chỉ mới “hun nhèm” thôi! Ký ức ùa về tràn ngập trong tim, trong tâm trí, và lưu lại ở khóe mắt cay cay với mùi khói của quá khứ.
Đau vì mùi khói, vì cái đói làm những giọt nước mắt của đứa trẻ thơ cay đắng chảy xuống, trong cảm giác “đói mòn đói mỏi” đang xâm nhập từng tế bào, bức xúc trong cổ họng và dường như là cả cơ thể, nỗi khao khát ấy của ăn, khoai, sắn, hay là những giọt nước mắt sung sướng, hạnh phúc tột cùng khi chuẩn bị được ăn no, bù đắp một phần nào đó cho cái đói kéo dài, lúc bà lặng lẽ nhóm bếp lửa, tức là cháu sắp được ăn rồi đấy! Trong tâm trí non nớt của đứa trẻ lên bốn, dù đồ ăn không ngon, nhưng lúc ấy là một thứ “sơn hào hải vị” không gì sánh bằng, một điều lớn lao, vĩ đại!
Tình thương chứa đựng trong lòng cháu, từ “thương” đã thể hiện được biết bao cảm xúc, niềm nhớ thương sâu sắc, da diết và mãnh liệt, mong ước được trở về tuổi thơ bên bà, ngồi bên dưới ánh lửa ấm của bếp lửa và ngập tràn tình yêu thương... Hình ảnh bà “biết mấy nắng mưa” dần hiện rõ, tỏ ra với những hy sinh im lặng, lặng lẽ. Hồi ức trỗi dậy dưới những dòng thơ của tác giả, hiện ra qua ánh lửa ký ức, tràn về quá khứ...:
“...Năm ấy, nỗi đói bao trùm, mùi củ rong rềng tràn ngập không gian
Mỗi lần nghe, hương vị huệ trắng, mùi trầm tỏa khắp”
(Đò Lèn-Nguyễn Duy)
Chỉ những điều như vậy đã đủ làm ấm lòng và trở thành một kỷ niệm không thể phai nhạt trong cuộc đời! Cảm giác đắng cay đó còn là nỗi đau của những ngày đói khổ không chỉ của hai bà cháu tác giả mà còn của nhiều người khác! Người ta không có đủ ăn, chưa nói đến những người “khô rạc” đói khát! Theo chia sẻ của tác giả, vào thời điểm đó, để kiếm thêm thu nhập nuôi gia đình, bố tác giả phải đi đánh xe từ Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) về Hà Nội.
Đó vẫn là một kỷ niệm đọng lại sâu trong tâm trí, trở thành một trong những nỗi ám ảnh không thể nào quên mãi mãi! Thơ không nhắc đến bà, nhưng sao bà vẫn đẹp và ân cần như thế! Bà chăm sóc cháu và cả gia đình, là ngọn lửa sưởi ấm suốt những ngày khó khăn, những cơn bão giông dữ dội và dai dẳng... Bà nhỏ bé nhưng vĩ đại, lớn lao như thế đấy... Trong tâm hồn cháu...!
Ở đây, cảm xúc hòa quyện vào dòng thơ tự sự, làm tươi đẹp thêm cho hình ảnh bà trong bài thơ, góp phần tạo nên một hình ảnh rõ ràng và đẹp đẽ hơn bao giờ hết:
“Tám năm dài cháu cùng bà nhóm lửa
Khi tiếng hú vang lên, bà còn nhớ không, bà?
Bà thường kể chuyện về những ngày ở Huế
Tiếng hú sao mà đầy ắp mối quan tâm thế”
“Tám năm dài” chỉ cần nghe thôi đã hiểu được khổ đau, vất vả và nỗi sợ hãi của hai bà cháu! Nhưng trong suốt thời gian đó, “cháu cùng bà nhóm lửa”, vẫn luôn nhen nhóm ngọn lửa của hy vọng, của tình yêu cháy bỏng trong trái tim một đứa trẻ hồn nhiên, trong sáng lên tám tuổi.
Hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình thân đã đem lại một hồi ức khác trong tâm trí của thi sĩ khi còn nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Âm thanh đó tạo nên cảm giác da diết, cảm xúc sâu lắng trong lòng người cháu. Những ký ức đắng ngắt và ngọt ngào về tiếng chim tu hú cứ sống mãi trong tâm hồn, làm cho cảm xúc trở nên bồi hồi, tha thiết, như tiếng tu hú vang vọng trong tiềm thức của tác giả.
Tiếng “tu hú” mơ hồ, xa xôi từ những cánh đồng, lưng chừng trong trái tim người cháu xa quê. Trong văn học nghệ thuật, tiếng chim tu hú trở thành biểu tượng của sự nhớ nhung không nguôi. Thực tế, chim tu hú là một loài chim bất hạnh, không biết ấp trứng và làm tổ.
Hạnh phúc có vẻ nhỏ bé nhưng lại là tối thượng và lớn lao nhất trong cuộc sống của mỗi người, là hạnh phúc của gia đình, là niềm vui tột cùng khi thấy đứa con yêu dấu - món quà quý giá mà cuộc sống tặng cho ta - mở mắt chào đời, là niềm hạnh phúc tột cùng khi có một mái ấm, một nơi che chở vững chãi nhất trong những lúc khó khăn, yếu lòng, sau mỗi trở ngại trong cuộc sống - con người tìm về đó để được an ủi, chia sẻ một cách chân thành!
Nhưng loài chim tu hú không thể tận hưởng hạnh phúc lớn lao, thiêng liêng như thế! Tiếng kêu của chúng trở nên đắng cay, mong chờ một điều gì đó thiêng liêng hơn... Chúng ta đã từng nghe tiếng kêu đó trong bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu, làm lay động trái tim, khao khát tự do mãnh liệt, bùng cháy mạnh mẽ trong lòng người tù cách mạng, khiến họ phải thốt lên:
“Ta nghe hè về trong lòng
Mà chân muốn bước ra khỏi phòng, hè ơi!
Khó chịu thế, chết uất thôi!
Con chim tu hú ngoài kia vẫn kêu”
Âm thanh khát khao và khắc khoải của tiếng chim tu hú cũng gợi nhớ về quê hương và hình bóng của người cha già đơn độc, cô đơn trong lòng cô con gái thanh xuân, như trong bài thơ “Tiếng chim tu hú” của nữ thi sĩ Anh Thơ:
“Rồi tiếng chim tu hú
Vang mãi trong những mùa hè
Con đi mãi trong nỗi nhớ
Mười năm không về quê!”
Trong “Bếp lửa”, tiếng chim tu hú đầy khắc khoải mở rộng dòng ký ức của cháu, làm sâu hơn trong không gian vắng vẻ của nỗi nhớ thương... Và khi chim tu hú kêu, cũng là lúc “Bà kể chuyện hồi còn ở Huế”. Những câu chuyện dài, thấm thía được kể qua giọng điệu ấm áp, chậm rãi, tràn đầy cảm xúc và tình yêu thương của bà.
Có thể đó là những khoảnh khắc hạnh phúc khi gia đình ở Huế, và cũng là những kí ức sâu sắc và đầy ý nghĩa... Có lẽ đó cũng là thời gian của nhiều câu chuyện, như những câu chuyện mà bà thường kể “hồi còn ở Huế”! Chắc chắn là rất nhiều! Trong các câu chuyện ấy, tuổi thơ cháu đã chứa đựng vị ngọt của những câu chuyện cổ tích! Cháu đã được đắm mình trong thế giới của cô Tấm hiền lành, của Thạch Sanh dũng cảm, của mẹ con nhà Cám độc ác, của mẹ con Lí Thông ranh mãnh,... của cái thiện và cái ác.
Và trên hết, cái thiện luôn chiến thắng cái ác! Khi nhắc đến tuổi thơ, người ta thường nghĩ ngay đến những câu chuyện cổ tích mà bà và mẹ thường kể cho con trẻ nghe, từ đó truyền đạt những bài học, lẽ phải từ những câu chuyện ấy! Chuyện cổ tích mà bà kể cho cháu cũng vậy! Đơn giản, dễ hiểu, nhưng chứa đựng sâu sắc và tình cảm...
Bà đã trồng và chăm sóc trong tâm trí và tình cảm của cháu từ khi còn bé một ước mơ tươi sáng, đẹp đẽ, làm cho nó trở thành mầm non để phát triển thành những cành, lá, hoa sau này!
“Mẹ cùng cha phải đi làm xa
Cháu ở với bà, bà dạy cháu nghe
Bà dạy cháu học, chăm sóc cháu
Bên lửa ấm, bà vẫn thương cháu
Chim hót xa, chẳng đến với bà
Ngân nga trong cánh đồng xa!”
Câu thơ tiếp theo vẽ lên một bức tranh của một ngôi nhà cô đơn, lạnh lẽo giữa cánh đồng, chỉ có một bà cùng một cháu. Đứa trẻ thì “chưa đủ ăn, chưa lo nghĩ”, trong khi bà thì yếu đuối. Bà phải làm mọi cách để nuôi sống cả hai. Tuy nhiên, hình ảnh của bếp lửa ở đây không còn ám ảnh, mà thay vào đó là hình ảnh của một tổ ấm ấm cúng, nơi mà hai bà cháu có thể sống.
Trong khoảng thời gian đó, khi đất nước đang trong thời kỳ chiến tranh, hai bà cháu phải rời bỏ làng quê để tìm nơi trú ẩn, trong khi đó bố mẹ phải đi làm xa. Cháu phải ở lại với bà trong thời gian đó, nhưng đối với cháu, đó lại là một niềm hạnh phúc không gì sánh được! Mỗi ngày, cháu đều được ở cùng bà. Trong cái khói lửa bếp ấm áp, mờ mịt ấy, người bà trở thành như một bà tiên hiện ra trong những câu chuyện thần thoại của cháu.
Nếu với mỗi người, cha là đôi cánh đưa ước mơ con vươn xa, mẹ là cành hoa tươi sáng nhất trên áo con, thì với cháu, người bà không chỉ là cha mẹ, mà còn là cánh chim, là bông hoa riêng của cháu. Tình bà cháu là điều vô cùng thiêng liêng và quý giá. Trải qua những năm tháng bên nhau, bà đã không chỉ chăm sóc cho cháu từng bữa ăn, giấc ngủ, mà còn là người thầy đầu tiên của cháu.
Bà đã dạy cháu những chữ cái đầu tiên, những phép tính đầu tiên. Không chỉ vậy, bà còn truyền cho cháu những bài học quý giá về đạo sống, làm người. Những bài học ấy sẽ là hành trang dẫn dắt cháu suốt cuộc đời. Tình yêu và sự quan tâm của người bà thực sự là điểm tựa vững chắc về cả vật chất và tinh thần cho đứa cháu nhỏ. Vậy nên khi nhớ về bà, nhà thơ càng trân trọng bởi cháu đã rời xa, không còn bên cạnh bà, cháu tự hỏi bây giờ bà sẽ ở với ai, ai sẽ là người đồng hành cùng bà, ai sẽ chia sẻ những ký ức về Huế...
Nhà thơ bỗng cảm thấy lòng trống rỗng: “Tu hú ơi, tại sao không về ở với bà?/Kêu chi mãi trên những cánh đồng xa!”. Một lời than thở bày tỏ sâu thẳm lòng nhớ bà của đứa cháu trong xứ lạ, nhớ những ngày tháng xa xưa... Kết hợp với đó là tự hào về việc có bà, điều mà đứa cháu cảm thấy tự hào khi so với con chim tu hú lang thang ngoài kia, “kêu chi mãi trên những cánh đồng xa”!
Cháu yêu bà và cũng yêu con chim tu hú! Vì tình cảnh của bà và cháu giống như con chim tu hú vậy! Cả hai đều cô đơn, cha mẹ “bận việc không về”! “Tu hú ơi, hãy trở về ở bên bà đi, bà sẽ chăm sóc cho tu hú, như bà đã chăm sóc cho cháu, và tu hú sẽ không còn cô đơn nữa! Tu hú trở về với bà, thì cả hai sẽ ở bên nhau, không ai cô đơn!”
Chỉ trong một bài thơ, hai từ “bà”, “cháu” đã lặp đi lặp lại nhiều lần, tạo nên hình ảnh một cặp đôi bà cháu thân thương, gắn bó, không rời. Tình thương của bà dành cho cháu, của cháu dành cho bà đã để lại trong lòng cháu những kỷ niệm vĩnh cửu và mãi mãi sống với âm thanh của tiếng chim tu hú đầy xúc động, như là tiếng trái tim cháu vẫn nhớ về bà...
Trong gian bếp, lửa tỏa ánh sáng, là nơi tập trung nỗi đau riêng tư của mỗi người, kết hợp với nỗi đau chung của cả một cộng đồng, tương phản với tình trạng khó khăn của đất nước:
“Bốn phía lửa thiêu, làng tan hoang
Hàng xóm trở về, đau khổ trong lòng
Bà cố gắng, xây dựng lại từng góc nhỏ
Trong lòng vẫn còn niềm tin, bảo cháu nhỏ:
“Bố ở chiến trường, sẽ lo được cho bố
Mày viết thư đừng kể, đừng nói gì thêm
Chỉ cần nhà yên lành!”
Dù cuộc sống gian khó, cảnh đời khắc nghiệt, lòng kiên trì của bà vẫn không phai mờ, lòng nhân ái của bà vẫn sáng ngời. Từ đó, ta thấy một hình ảnh rõ nét của một bà già kiên trì, kiên nhẫn, và hy sinh bản thân. Dù căn nhà, nơi ẩn náu của hai bà cháu đã bị lửa thiêu rụi, nơi mà họ đã gắn bó không còn nữa, tất cả đã bị 'cháy sạch, tan hoang'- không còn gì cả, bà vẫn không dám phàn nàn, vì lo lắng làm cho đứa cháu của mình buồn lòng.
Bà mạnh mẽ, dẫn dắt cháu qua mọi khó khăn, không muốn đứa con lo lắng về những gì đang diễn ra. Điều này được thể hiện qua lời dặn của bà: “Mày viết thư đừng kể chiện này chiện nọ/Chỉ cần nhà yên lành!”. Tuy đơn giản, nhưng lời dặn của bà chứa đựng rất nhiều tình cảm, ý chí mạnh mẽ, niềm tin kiên định, trong khi “hàng xóm trở về, đau khổ trong lòng” - cảm giác như có một lực lượng vô hình nào đó khiến con người cảm thấy khuất phục, gục ngã vì nỗi đau không thể tả!
Gian truân, cảm giác thiếu thốn, lòng nhớ thương con bà phải giữ cho riêng mình, để an ủi những người thấp thỏm ở mặt trận. Hình ảnh của người bà không chỉ là người mẹ của cháu, mà còn là biểu tượng rõ ràng của những phụ nữ Việt Nam hy sinh, yêu thương con cái, luôn tin tưởng vào cuộc chiến, vào cách mạng khi nhắc nhở cháu viết thư, luôn bảo nhà yên lành để cha mẹ không lo lắng về mặt trận chiến. Kết thúc bài thơ, Bằng Việt đã đưa hình ảnh của gian bếp trở thành biểu tượng, một ngọn lửa:
“Rồi từ sáng đến tối, lửa trong bếp bà vẫn sáng tỏa
Một ngọn lửa ấm áp luôn sẵn sàng trong lòng bà,
Một ngọn lửa mang niềm tin bền vững...”.
Bà lại khởi đầu từ đầu, từ chữ “lại” trong bài thơ thể hiện sự kiên trì, sự bắt đầu lại sau những khó khăn, vất vả! Dù bước vào buổi sáng hay chiều tối, lửa trong bếp vẫn tỏa sáng, dù “tỏa sáng” khó hơn là “nhóm”! Trên nền đất đã từng bị đốt cháy, bà làm sáng lên một cuộc sống mới, mạnh mẽ hơn, kiên cường hơn, bởi trong lòng bà “một ngọn lửa luôn sẵn sàng”, “một ngọn lửa mang niềm tin bền vững”!
Đó chính là ngọn lửa mà bà truyền cho cháu - sức mạnh và niềm tin, để cháu vượt qua những khó khăn, thách thức như bà đã làm! Kẻ thù có thể phá làng, đốt nhà, nhưng không thể tắt được ngọn lửa, đốt sáng trong lòng bà! Ngọn lửa “mang niềm tin bền vững”, ngọn lửa gói gọn tình yêu thương của bà, ngọn lửa ấm áp như tình thương bà dành cho cháu, ngọn lửa sáng tỏa cho con đường cháu đi, ngọn lửa hy vọng vào một tương lai tươi sáng cho đất nước, cho lẽ sống cao quý, đẹp đẽ của dân tộc!
Hình ảnh ngọn lửa sáng trong bài thơ truyền đạt một cách mạnh mẽ. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi có lửa, có bà, bà sẽ ở bên cháu. Bà - một con người nhỏ bé nhưng vĩ đại! Bằng ngọn lửa “trong lòng bà luôn sẵn sàng”, bà gửi gắm tình thương trong lòng cháu suốt những năm tháng qua, bằng ngọn lửa yêu thương vô biên!
Bà dẫn dắt cháu đi trên con đường đời bằng ngọn lửa niềm tin vô tận ấy, bà truyền cho cháu tình thương và ánh sáng mãi mãi...Không bao giờ tắt...! Cháu nhận ra điều đó khi mới bốn tuổi, hiểu rõ khi tám, và từ đó biết về cuộc sống đau khổ, gian lao của đất nước, và bắt đầu được truyền niềm tin từ bà...Và bây giờ, cháu hiểu rồi...:
“Nắng mưa đời bà biết bao điều
Mấy chục năm trôi qua vẫn còn đây
Bà vẫn thức dậy sớm như xưa”
Nếu ở câu thơ đầu chỉ là “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, sau một dòng thơ dài thể hiện biển cảm xúc, hồi ức thơ ấu, thì giờ đây câu thơ đã kết lại bằng một sự suy ngẫm sâu xa: “Nắng mưa đời bà biết bao điều”! Cả câu thơ đặt vào hai từ “nắng mưa” - biểu tượng cho những khó khăn, gian truân, vất vả của cuộc sống!
Đó phải là một thời gian dài, một hành trình chập chùng để hiểu biết, nhận thức sâu sắc, trưởng thành và trải nghiệm, chỉ khi đó mới thấu hiểu sâu sắc về cuộc đời bà. Câu thơ không phô diễn cảm xúc như câu thơ trước, nhưng chứa đựng ý nghĩa sâu xa hơn! Tình thương thấm vào trái tim, sâu trong tâm hồn của cháu, khắc sâu vào tâm trí cháu.
Đó là một suy ngẫm “chín muồi” qua góc nhìn trưởng thành của cháu về bà, về những thăng trầm, những khó khăn, những “nắng mưa”, những “gian khó” mà đời bà đã trải qua! Và rồi, bà vẫn kiên trì, âm thầm, nhưng mạnh mẽ, “Mấy chục năm trôi qua vẫn còn đây / Bà vẫn thức dậy sớm như xưa”. Một thói quen, một nét đặc trưng của cuộc sống đầy gian khổ, thử thách ấy! Bà vẫn im lặng, im lặng như thế, để rồi:
“Bếp lửa ấm áp, nồng nàn
Yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nồi xôi gạo mới chia sẻ vui buồn
Và dậy sớm cho những tâm tư nhỏ bé”.
Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa “ấm áp”, “nồng nàn” lại được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Nhóm lên bếp lửa đó, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương với gia đình và nhắc nhở cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng đầy ý nghĩa, những năm tháng gian khổ mà hai bà cháu đã trải qua cùng nhau, những năm tháng mà hai bà cháu đã chia sẻ từng củ sắn, từng củ mì.
“Nồi xôi gạo mới chia sẻ vui” của bà không chỉ là lời răn dạy cháu phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải kết nối với xóm làng, không được sống ích kỉ. Bà không chỉ là người lo lắng cho cháu đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu trở nên đẹp hơn, thêm phần mê hoặc như trong truyện cổ tích, bà tô màu hồng lên màu xám trong tuổi thơ của cháu, “đánh thức cả những tâm tư tuổi thơ”!
Người bà có trái tim nhân từ, người bà kỳ diệu đã đánh thức, dạy dỗ và làm cho tâm hồn đứa cháu tỉnh thức để trong tương lai cháu trưởng thành, bà chăm sóc tâm hồn của cháu từ những ngày thơ ấu để tạo nền móng cho một sự phát triển tốt đẹp mãi mãi! Người bà kỳ diệu như vậy, rất giản dị nhưng mang trong mình một sức mạnh kỳ diệu từ trái tim.
Bà đã làm cho những kỷ niệm của những năm tháng đó trở thành những kí ức vĩnh cửu đi cùng cuộc đời cháu, khiến cho cháu thốt lên trong những cảm xúc nghẹn ngào: “Ôi kì diệu và thiêng liêng - bếp lửa!” Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người luôn ấm áp, kiên trì tỏa sáng mãi mãi. Suốt câu thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhớ lại bà. Nhịp điệu của những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào, lớp lớp sóng vỗ vào bờ biển xanh thẳm trong lòng cháu.
Bà đã, đang và sẽ luôn là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kỳ nơi đâu. Bà đã trở thành ngọn lửa luôn bùng cháy mạnh mẽ và sưởi ấm trái tim của cháu! Giờ đây, khi bà đang ở xa nửa vòng trái đất, nhà thơ Bằng Việt vẫn luôn hướng tâm trí về bà, cảm nhận nỗi nhớ da diết cồn cào những kỷ niệm quá đẹp, ấm áp bên bà và hình ảnh của bà luôn hiện diện trong tâm trí của người cháu:
“Giờ cháu đã xa. Trăm ngọn khói bay
Trăm lửa sáng, trăm niềm vui đầy
Nhưng lòng cháu không quên đâu
Sớm mai bà còn nhen lửa chưa?”
Bài thơ kết thúc bằng một câu hỏi sâu lắng, thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn đối với bà! Nhà phê bình Văn Giá đã nhận xét:”Dưới mái ấm gia đình, người phụ nữ thường liên kết với những thứ gần gũi, quen thuộc nhất. Họ là điểm tựa cho ta sau mỗi thăng trầm, mọi biến cố, thành bại trong cuộc sống.
Dưới vẻ ngoài bình dị, khiêm nhường, chứa đựng một trái tim rộng lớn, đầy lòng nhân ái và khoan dung. Câu thơ như những tia sáng từ ngọn lửa ấm, gợi lên kí ức, lan tỏa sâu vào lòng người đọc.” Rời xa vòng tay ân cần của bà để bước vào thế giới mới, tình cảm của hai bà cháu vẫn ấm áp trong lòng tác giả dù ở nơi xa xôi như nước Nga lạnh giá.
Đứa cháu của bà dù đã trưởng thành nhưng vẫn luôn ghi nhớ về góc bếp, nơi mà hai bà cháu cùng trải qua nhiều niềm vui và nỗi buồn. Cháu sẽ mãi nhớ và không bao giờ quên được bởi đó là nguồn cảm hứng, là nơi cháu được nuôi dưỡng, trong vòng tay yêu thương của bà và trong trái tim cháy bỏng một ngọn lửa đong đầy niềm tin, tình yêu thương của bà...
“Tôi giữa đôi bờ giữa hư vô
giữa bà tôi và thế giới tinh thần”
(Đò Lèn-Nguyễn Duy)
Hãy nhắm mắt một lúc, chúng ta sẽ thấy ngay hình ảnh bếp lửa ấm áp và người bà ngồi bên... Bài thơ “Bếp lửa” sẽ luôn sống mãi trong lòng người đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã thức tỉnh trong chúng ta tình cảm cao quý dành cho gia đình, cho những người đã làm cho tuổi thơ của chúng ta trở nên rực rỡ. Những kỷ niệm ấm áp nhất của tuổi thơ luôn giữ lại sức ấm, là nguồn động viên suốt cuộc hành trình dài của cuộc đời!
Bà hiện về trong mỗi câu thơ, trái tim bà mang ngọn lửa ấm áp sưởi ấm cuộc đời cháu.... Trong tim cháu... Thời thơ ấu... Bây giờ... Và mãi mãi...
Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 2
Khi người cháu lính trở về quê ngoại, hồi tưởng về bà làm việc vất vả trong bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy:
“Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao đêm hàn lạnh leo”
Nhắc nhở về tình cảm sâu nặng giữa bà và cháu trong bài thơ “Bếp lửa”. Tác giả mô tả người bà với vẻ đẹp bình dị, lòng hi sinh và niềm tin mãnh liệt, thể hiện lòng kính trọng sâu sắc dành cho bà. Kí ức về bà hiện về trong trí nhớ của người cháu khi anh ta bắt gặp hình ảnh quen thuộc:
“Một bếp lửa soi sáng sương sớm
Một bếp lửa ấm áp nồng nàn
Cháu luôn nhớ bà dù có bao nắng mưa”
Hình ảnh của người bà hiện lên với sự chăm chỉ, ân cần nhóm lửa mỗi buổi sớm trước mắt người cháu. Bàn tay mẫn cần của bà dành cho ngọn lửa sáng rực, bập bùng mỗi sớm mai. Cuộc đời bà với những nỗ lực, cống hiến được ghi sâu, hình ảnh “biết mấy nắng mưa” là biểu tượng cho những khó khăn mà bà đã trải qua. Hình ảnh này gợi lên lòng thương yêu, đau buồn của người cháu, khiến ký ức về bà trở nên rõ ràng, chân thực hơn:
“Bà thường kể chuyện về những ngày ở Huế
...Cháu ngồi cùng bà, bà kể cháu nghe
Bà dạy cháu học, bà chăm sóc cháu.
Ngọn lửa trong bếp luôn nhớ bà là người khó nhọc,”
Khi cháu lên bốn, lên tám, đó là những thời kỳ khó khăn nhất của cuộc chiến tranh: đói kém, hậu quả của sự tàn phá. Bà che chở đứa cháu nhỏ suốt tám năm “cháu cùng bà nhóm lửa”. Có lẽ bà luôn kiên trì gửi đi hơi ấm của sự sống?
Bà không chỉ là người cha, người mẹ thay thế khi cha mẹ phải đi công tác ở tiền tuyến, mà bà còn là người thầy dạy dỗ cháu. Từ “bà” liên tục được kể lại cùng với những hành động “kể chuyện, dạy bảo, chăm cháu học” giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tình yêu thương và sự hi sinh của bà trong lòng cháu thông qua những câu chuyện và lời dạy bảo.
Cuộc đời của bà càng trở nên gian nan khi bà phải nuôi dưỡng cháu trong hoàn cảnh khốn khổ, thiếu thốn về vật chất. Nhà thơ vẽ nên hình ảnh của người bà với tình thương vô bờ bến dành cho cháu, có lẽ bà muốn bù đắp cho những gì cháu đã trải qua trong tuổi thơ. Bà không chỉ đầy tình yêu thương với cháu mà còn đầy lòng hy sinh và lòng nhân từ:
“Bà luôn nhắc nhở cháu đừng buồn
“Cha đi chiến trường, còn việc chi cho mẹ
Viết thư về nhà chớ kể chuyện này, chuyện kia,
Hãy nói rằng nhà vẫn bình yên!”
Bà gắng gượng chịu đựng mọi khó khăn một mình nên bà luôn khuyến khích cháu “đừng kể này, kể kia” về những gian khó tại quê nhà: “kẻ thù đốt làng, phá rụi tất cả”, vì bà muốn làm cho mọi người tại hỏa lính yên lòng để họ hoàn thành nhiệm vụ. Lòng nhân từ giúp bà và dân làng tạo ra một hậu phương vững chắc cho tiền tuyến chiến đấu. Bà luôn ấp ủ, nuôi dưỡng niềm tin không bao giờ tắt, niềm tin nhỏ bé nhưng kiên trì, được thắp lên bằng cả tấm lòng và trái tim nhân hậu:
“Trong lòng bà luôn cháy sáng ngọn lửa
Ngọn lửa chứa niềm tin không bao giờ tắt...”
Từ “một ngọn lửa” ấm áp, bà đã biến hình ảnh của bếp lửa thành một biểu tượng giàu ý nghĩa:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm tình yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ”
Hành động “nhóm” bếp lửa được nhắc lại bốn lần để nêu bật thói quen hàng ngày làm nên cuộc sống dày đặc “lận đận” của bà. Mặc dù đơn giản nhưng nó mang lại sức mạnh kỳ diệu. Nó củng cố tình đoàn kết trong xóm làng thông qua những bữa ăn được nấu từ bếp lửa của bà. Những kí ức thơ ấu của cháu, từng bị lãng quên, bây giờ được hồi sinh khi được ấm áp bởi tình thương của bà. Vậy bà không chỉ là người giữ lửa, mà còn là người truyền lửa.
Thông qua kí ức tuổi thơ của cháu, bài thơ “Bếp lửa” biểu đạt lòng biết ơn sâu sắc đến bà. Nhà thơ Bằng Việt thông minh trong việc kết hợp hình ảnh của bếp lửa với hình tượng của người bà, vừa làm nổi bật vẻ đẹp cao quý vừa tạo ra một biểu tượng sâu sắc cho bài thơ.
Phân tích về hình ảnh người bà trong Bếp lửa - Mẫu 3
Bạn đã từng ngâm ngấm trong những hồi ức tuổi thơ với một hình ảnh quen thuộc chưa? Có lẽ hình ảnh ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn bạn. Đối với Bằng Việt, hình bóng đáng yêu của người bà bên bếp lửa đã chiếm trọn trang kí ức tuổi thơ.
Những kí ức đó đã được Bằng Việt tái hiện chân thực trong bài thơ “Bếp lửa”. Hình ảnh người bà hiện lên qua những dòng thơ đó thể hiện sâu sắc như thế nào? Điều đó thể hiện tư tưởng của tác phẩm như thế nào? Hãy đắm chìm trong không khí ấm áp của tình thương bà từ những câu thơ đầu tiên:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Dòng cảm xúc trong trẻo, giản dị đó chảy ra từ hình ảnh của bếp lửa “chờn vờn sương sớm”, “ấp iu nồng đượm”, là sự tưởng nhớ về bàn tay nhóm lửa khéo léo, ân cần của người bà. Sự hy sinh im lặng, cần cù của bà đã làm ấm lòng đứa cháu nhỏ, ấm lòng trong những năm tháng thơ ấu của cháu. Thực sự, tuổi thơ bên cạnh bà không hề bình yên, mà nó chứa đựng nhiều gian khổ, thiếu thốn và gian truân:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Những câu thơ chân thật đầy cảm xúc, xót xa. Lên bốn tuổi, cháu phải đối diện với nạn đói năm 1945, và trong những kí ức mơ hồ đó vẫn còn mùi khói bếp của bà – mùi khói đã làm cay mắt cháu, đến bây giờ nghĩ lại vẫn “sống mũi còn cay”.
Cay vì khói bếp, cay vì cảm xúc gợi lên những mùi khói của hàng chục năm qua. Không thể không cảm nhận được sức ảnh hưởng, rung động trong lòng cháu khi dù kí ức đã phai nhạt, nhưng mùi khói bếp vẫn còn lại dư vị đắng trong ký ức. Bà vẫn yên lặng, vẫn âm thầm góp phần ấm áp cháu trong những năm tháng đó, suốt “tám năm ròng”. Càng lớn lên trong vòng tay của bà, những ký ức về bà càng thêm sâu sắc trong lòng cháu:
“Mẹ cùng cha bận không về
Cháu ở với bà, bà dạy cháu học.”
Trong bóng khói mù mịt của chiến tranh, cháu không được sống cùng bố mẹ, nhưng lại được yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ lòng bao dung của bà. Bên bếp lửa ấm, bà kể chuyện, chuyện đời thường ngày, cũng như chuyện cổ tích xưa. Từng việc nhỏ, từng việc nhẹ nhàng, hai bà cháu từng ngày, từng tháng và “tám năm ròng” cùng nhau “nhóm bếp lửa” để nấu nướng, sưởi ấm, và hơn thế, để soi sáng tinh thần và trí tuệ.
Bà đã đóng vai trò thay thế người mẹ, người cha, người thầy để dạy dỗ, yêu thương cháu một cách vô điều kiện. Do đó, tình yêu và tôn trọng dành cho bà được thể hiện sâu sắc qua hình ảnh: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là nơi cháu tìm đến để được an ủi, được chăm sóc, được che chở.
Hơi ấm từ bếp lửa đọng lại gợi lên những kí ức về quãng thời gian đầy khó khăn, đau thương. Hình ảnh của bà già nua, bé nhỏ ở trong làng quê hoang tàn dưới khói lửa chiến tranh vẫn mãi im lặng, không than trách, khiến con tim chúng ta kính phục. Đặc biệt, những lời dặn dò của bà đã làm lung linh vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh, dành trọn đời cho con cháu:
“Năm kẻ địch thiêu rụi làng quê
Hàm xóm bốn phía trở về đầy lầm lỡ
Bà giữ vững lòng, dặn dò cháu định ninh:
‘Bố ở chiến trường, bố còn việc phải lo
Còn viết thư, đừng kể chuyện này, chuyện kia
Luôn nói nhà vẫn bình an!”
Bằng Việt đã khắc họa trong những dòng thơ sức mạnh của lòng yêu nước, can đảm và hy sinh của người mẹ. Thật vậy! Người mẹ ấy gồng mình vượt qua mọi gian khó để các con an tâm đi công tác, với trái tim của một người phụ nữ luôn hướng về tiền tuyến, với ý chí và nghị lực vững vàng. Bà mang vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để đặt lợi ích chung lên hàng đầu.
Đó không phải là biểu hiện cao cả nhất của tình yêu Tổ quốc, tình yêu chiến đấu và cách mạng sao? Bằng Việt đã thổi vào những dòng thơ sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hy sinh lớn lao qua hình tượng người mẹ. Ngày càng gần cuối, cảm xúc bùng nổ mạnh mẽ, nồng nàn, làm cho hình ảnh của người mẹ trở nên sống động và chân thực hơn bao giờ hết, tạo điểm nhấn cho toàn bộ bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt vời:
“Sáng mai, chiều mai, bếp lửa vẫn sáng
Một ngọn lửa, lòng bà vẫn sẵn sàng
Một ngọn lửa chứa niềm tin vững vàng…
Quãng đời đầy vất vả, biết bao nắng mưa
Quãng thời gian đã qua, đến tận bây giờ
Bà vẫn dậy sớm, bếp lửa vẫn ấm
Nhóm bếp lửa ấm áp, niềm yêu thương vô bờ
Nhóm niềm vui chia sẻ, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới, đem lại niềm vui
Nhóm cảm xúc tuổi thơ dịu dàng
Ôi kì diệu và thiêng liêng – bếp lửa!”
Bếp lửa không chỉ được khơi lên bằng củi rơm mà còn được thổi bùng từ ngọn lửa của tình yêu, lòng trung thành “luôn ở đó” trong bà, của niềm tin vững vàng “kiên cường”, bền vững và không phai mờ… Tiếng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào đã xác nhận ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng như của người phụ nữ Việt Nam thời chiến. Bà là người truyền lửa, lan tỏa lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa ấm áp, sáng tỏ trong gia đình.
Trong suy nghĩ của Bằng Việt, bếp lửa và bà dù đơn giản, nhưng lại ẩn chứa nhiều điều quý giá và thiêng liêng: “Ôi kỳ diệu và thiêng liêng – bếp lửa!”. Mỗi câu, mỗi từ như đỏ lửa, ấm áp đầy tình cảm nhớ nhung, biết ơn. Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đã trưởng thành, đã tiến xa trong cuộc đời, hạnh phúc. Nhưng dù bước ra xa bếp lửa của bà, cháu vẫn mãi nhớ về ngọn lửa từng làm ướt mắt cháu từ khi còn nhỏ, vẫn mãi nhớ hình ảnh của góc bếp nơi bà:
“Bây giờ cháu đã đi rất xa. Có khói bốn phía
Có lửa nơi trăm nhà, niềm vui khắp nơi
Nhưng không bao giờ quên nhắc nhở:
Sáng mai bà đã nấu chưa?”
Đứng giữa những thứ mới mẻ của thế giới rộng lớn, tuổi thơ đã qua đi, đứa cháu nhỏ giờ đã bay cao nhưng không thể quên bà và bếp lửa quê nhà, nơi mà nắng mưa đã kề vai bà và cháu nhờ bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là nơi chắc chắn trong tâm hồn cho cháu trên con đường phía trước. Hình ảnh bàn tay khéo léo, nhóm lửa vẫn lan tỏa hơi ấm trong tâm hồn người cháu.
Bạch Cư Dị đã từng nói: “Điều gây xúc động nhất trong con người không gì khác ngoài tình cảm và tình cảm là nguồn gốc của văn chương”. Thật vậy! Bài thơ “Bếp lửa” chính là một ví dụ. Đọc những dòng thơ đầy cảm xúc của Bằng Việt, mỗi người đều cảm nhận được những tình cảm đẹp, những kỷ niệm đẹp. Đối với mỗi người, đó có thể là tình cảm với gia đình, người thân. Đối với mỗi người, đó có thể là tình cảm với bạn bè, thầy cô.
Bằng Việt cũng trải qua những cảm xúc đó, nhưng ông có khả năng truyền đạt chúng qua những dòng thơ sâu lắng, khiến lòng người đọc xúc động không tả. Dòng cảm xúc trong trẻo ấy đã để lại trong ta nhiều ấn tượng, đặc biệt là hình ảnh đáng yêu của người bà.
....
Phân tích hình ảnh người bà và ngọn lửa trong bài thơ Bếp lửa
Tuổi thơ của mỗi con người đều chứa đựng những hình ảnh rất quý giá trong ký ức, có thể là bóng dáng của người mẹ với những lời ru ngọt ngào, người cha với những lời dạy sâu sắc,... Và với tác giả Bằng Việt, đó là hình ảnh người bà và bếp lửa, đã ghi sâu trong ký ức tuổi thơ, với những tình cảm kính yêu, đậm đà của người cháu dành cho bà trong bài thơ Bếp lửa.
Tác giả Bằng Việt, tên thật là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, quê ở Hà Nội, ông là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Phong cách thơ của Bằng Việt phản ánh những suy tư sâu sắc, giọng thơ trầm bổng, tâm trạng, thủ thỉ. Bài thơ Bếp lửa được sáng tác vào năm 1963, khi tác giả đang du học ở nước ngoài, xa quê hương. Tác phẩm được in trong tập Hương cây - Bếp lửa (1968) của tác giả Lưu Quang Vũ và Bằng Việt.
Suốt bài thơ dài, hình ảnh người bà và bếp lửa rõ nét và thiêng liêng nhất, gợi lại nhiều suy ngẫm của tác giả:
'Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!'
3 câu thơ đầu, hình ảnh người bà qua việc nhóm lên bếp lửa hồng với niềm tin kỳ lạ. Bếp lửa bà nhen là nguồn ánh sáng, là hơi ấm gia đình và tượng trưng cho niềm tin lạc quan của bà, sáng như ngọn lửa nơi góc bếp, nơi bà luôn ủ sẵn. Bếp của bà không bao giờ nguội lạnh, luôn có ngọn lửa đỏ rực, tựa tấm lòng của bà dành cho cháu, mong cháu sớm trở về trong bình yên.
Trong câu thơ tiếp, người cháu suy ngẫm về cuộc đời của bà, hiện thân của người phụ nữ chịu khó, nuôi dưỡng cháu từ năm lên 4, 'Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa', nhưng bà không bao giờ than khó. Bà thức khuya dậy sớm, nhóm lửa mỗi sớm chiều, nấu bữa ăn đơn giản nhưng đầy tình yêu thương. Bếp lửa là nơi thể hiện tình cảm của bà dành cho cháu, là sự đoàn kết trong gia đình và cũng là khởi nguồn của giấc mơ trong tâm hồn của người cháu.
Hình ảnh người bà và bếp lửa hiện lên với tình cảm ấm áp, trân trọng. Đó cũng là biểu tượng cho niềm tin, tình yêu của người bà dành cho đứa cháu ở xa xôi, là những tình cảm cao đẹp và trân quý nhất.
Tận hưởng hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa
Hình ảnh người bà trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một trong những hình tượng đẹp, đầy cảm hứng về người bà hiền lành, có phẩm chất tốt đẹp.
Trong bài thơ, hình ảnh của “bếp lửa” xuất hiện liên tục, gợi lại cảm xúc của việc nhớ nhung, hồi tưởng về người bà yêu thương. Dù ở xa nhà, nhưng trong tâm trí, người cháu luôn ôm ấp kỷ niệm tuổi thơ, nhớ về quê hương, gia đình, và người bà:
Một bếp lửa tỏa ánh sáng sớm mai
Một bếp lửa ấm áp tràn đầy tình thương
Con nhớ bà biết bao nắng mưa.
Hình ảnh bếp lửa 'tỏa ánh sáng sớm mai' là biểu tượng của sự thật, gợi lên hình ảnh một bếp lửa sáng rực trong sương sớm. Bếp lửa luôn rực rỡ nhờ vào bàn tay khéo léo của người bà và tình thương ấm áp từ lòng bà. Hình ảnh này không chỉ gợi lên kí ức về những buổi sáng sớm ấm áp mà còn là biểu tượng của tình thương và sự quan tâm của người bà. Người bà hiện lên với hình ảnh quan tâm và chu đáo, luôn ở bên cạnh cháu dù trong những thời kỳ khó khăn nhất. Bà âm thầm góp lửa vào bếp, nhưng mắt cháu sẽ luôn nhớ về tình thương mà bà trao cho mình. Đến những khổ thơ sau, người bà được tái hiện qua kí ức của đứa cháu về những khoảnh khắc đẹp của tuổi thơ.
Bố mẹ đi làm, cháu ở với bà
Bà dạy cháu biết, bảo cháu nghe
Bà dạy cháu học, chăm sóc cháu từng ngày
Nghĩ đến bà trong bếp lửa, lòng cháu thấu hiểu khó khăn của bà...
Con ơi! không được gặp bà mỗi ngày...
Bà giống như một người mẹ hiền lành, đảm nhận vai trò của mẹ để nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ cháu từng ngày. Có lẽ nỗi nhớ mong và cảm giác thiếu thốn của bố mẹ khi vắng nhà đã nhẹ đi một chút khi có sự che chở, yêu thương từ người bà. Bà là nơi chốn an lành, ấm áp, là nơi mà cháu luôn cảm thấy được yên bình, bình an, và được che chở. Vì thế, bà trở thành nguồn động viên, nuôi dưỡng, che chở, và giữ gìn tổ ấm gia đình, và bà cũng là sự kết hợp thiêng liêng và cao quý của cha mẹ. Do đó, cháu luôn ghi nhớ tình cảm thiêng liêng của bà: 'Nghĩ đến bà trong bếp lửa, lòng cháu thấu hiểu khó khăn của bà...'. Từ 'thấu hiểu' chứa đựng tất cả tình yêu thương, sự kính trọng và biết ơn sâu sắc, tình cảm mà cháu dành cho bà. Bà phải chịu đựng biết bao khó khăn trong những năm tháng đất nước gặp chiến tranh, những khó khăn, nghèo khó, và cả mất mát:
Khi giặc tàn phá, làng quê cháy rụi
Hàng xóm phải rời khỏi, mọi thứ đều tan hoang
Bà cố gắng dựng lại mái ấm
Vẫn kiên cường bảo cháu mạnh mẽ
'Cha ở chiến trường, cha còn nhiều việc phải lo toan
Con đừng viết thư kể về những chuyện này
Hãy nói nhà vẫn bình yên!'
Bà chịu khó nhưng không muốn cho con biết. Đó chính là phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong cuộc chiến. Sự hy sinh im lặng, cao quý và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở phía sau tuy không ra trận nhưng là người có công lớn nhất, là nguồn động viên cho những chiến binh mạnh mẽ đối diện với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Những dòng thơ cuối cùng đầy cảm xúc và sâu sắc khiến hình ảnh của người bà cùng bếp lửa trở nên sống động và chân thực hơn. Bà là người nuôi lửa, giữ lửa và cũng là người khiến cho ngọn lửa ấy cháy mãi không tắt, bà cũng là người đốt lên ngọn lửa của tình thương để sưởi ấm tuổi thơ cháu suốt đời, kỷ niệm về bà là những kỷ niệm đẹp nhất, sâu sắc nhất mà cháu sẽ luôn nhớ mãi, dù có đi xa, có khói trăm nhà, có điện trăm nhà thì cháu vẫn không thể quên “bếp lửa ấy đã sáng chưa bà?”
Cảm nhận về người bà trong bài thơ Bếp lửa
Hình ảnh người phụ nữ đã lâu trở thành nguồn cảm hứng không ngừng nuôi dưỡng văn học Việt Nam. Ánh thơ về người bà, người mẹ luôn chạm đến lòng người đọc. Hình ảnh người bà trong “Bếp lửa” của Bằng Việt cũng không ngoại lệ.
“Bếp lửa” viết năm 1963, khi tác giả đang học tại Ucraina. Đó là thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, với nhiều gian khổ, khó khăn. Bài thơ chứa đựng hình ảnh bếp lửa giản dị, thân thuộc nhưng ấm áp, từ đó đồng hành với hình ảnh người bà trong toàn bộ câu chuyện. Không chỉ mô tả hình ảnh người bà, người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp truyền thống mà còn thể hiện niềm kính trọng, biết ơn và tình cảm đối với quê hương đất nước của người con xa xứ.
Hình ảnh người bà dần hiện ra qua ngọn lửa ở những dòng thơ đầu:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Bếp lửa hiện lên: “chờn vờn sương sớm”, có phải trong sương sớm mai hay trong mây sương mù của ký ức, của thời gian mà cháu đang cố trở lại? Ngọn lửa ấm nóng bởi tình thương, bởi bàn tay và trái tim ấp ủ của người nhóm: “ấp iu nồng đượm”. Hai từ “ấp iu” đã đủ cho thấy tình thương, sự chăm sóc và yêu thương của người nhóm lửa. Và rồi người bà hiện ra: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Hình ảnh người bà với “sương sớm”, với “biết mấy nắng mưa” có phải là hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam luôn kiên cường, chịu khó, giàu lòng hi sinh hay không?
Trong những ngày chiến tranh hỗn loạn, gian khổ và khó khăn, những kí ức ấy mãi không phai nhạt trong tâm trí cháu. May mắn thay, trong những tháng ngày đó, cháu vẫn có bà ở bên:
“Mẹ cùng cha vẫn bận rộn không thể về
Cháu ở với bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu học, bà chăm sóc cháu
Nhóm bếp lửa nhớ thương bà khó khăn,
Tu hú ơi! chẳng đến ở bên bà.
Thầm gọi trên những cánh đồng xa”.
Tuổi thơ của cháu thiếu tình yêu thương từ cha mẹ nhưng lại đầy đủ bởi sự che chở của bà. Chuỗi hành động như “cháu ở cùng bà, bà bảo, bà dạy, bà chăm sóc” đã mô tả hình ảnh người bà nhân từ và đầy lòng nhân ái. Thương cháu, bà làm cha, làm mẹ để bảo vệ, dạy dỗ và nuôi nấng cháu. Nhờ bàn tay của bà mà cháu mới có được ngày hôm nay. Đến cuối cùng, cuộc đời bà chỉ gói gọn trong hai từ “khó khăn”. Yêu thương vô biên mà không mảy may quan tâm đến bản thân. Hai từ “khó khăn” khiến cho người ta cảm thấy xa cách và đau lòng, chúng đại diện cho cuộc đời của bà và tình thương của đứa cháu. Đến lúc này, chúng lại trở thành niềm tiếc nuối, hối tiếc khi cháu không còn ở bên bà mà chỉ có thể nhớ về: “Tu hú ơi, chẳng đến với bà”.
Hình ảnh người bà trở nên rõ ràng hơn khi:
“Năm giặc đốt làng, cháy đen bên bờ vực
Hàng xóm bốn phía trở về, lầm lạc
Đỡ đần bà xây lại nhà tranh sơ sài
Vẫn kiên cường lòng bà dặn cháu mạnh mẽ
'Bố ở chiến trường, bố vẫn có công việc bố,
Mày đừng kể chuyện này, chuyện kia,
Nói rằng nhà vẫn yên bình!””
Bà tỏ ra là một hậu phương vững chắc. Dù phải chịu tổn thương và mất mát nhưng bà vẫn “vững lòng” và “dặn cháu đinh ninh”: “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Câu nói giản dị, quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa. Người mẹ Việt Nam là như vậy, họ không đi ra trận nhưng họ sinh ra những anh hùng, họ là những người chịu gạt giọt nước mắt riêng để con lên đường, và ở nhà họ luôn lo lắng cho những người ở phía trước. Các chiến công sau này của dân tộc, đều ghi dấu bởi sự hy sinh thầm lặng của những bà mẹ Việt Nam anh hùng như thế.
Và rồi, hình ảnh bà hòa nhập vào ngọn lửa để sáng tỏ:
“Rồi sáng, rồi chiều, bếp lửa bà sáng chói
Một ngọn lửa, trái tim bà luôn rực sáng
Một ngọn lửa ấy đựng niềm tin kiên cường...”
Từ “bếp lửa” cụ thể ở câu trước sang “ngọn lửa” ở câu sau đã mang tính chất toàn diện và biểu tượng hơn. Bếp lửa mà bà châm lên mỗi sáng mỗi chiều không chỉ là lửa từ than, củi mà còn là tấm lòng của bà “luôn sẵn sàng”, “chứa đựng niềm tin kiên cường”. Ngọn lửa đó có thể sáng mãi trong tuổi thơ của cháu vì nó được thắp lên bởi ngọn lửa yêu thương, bởi niềm tin vững chắc và lòng nhân ái trong bà. Bà không chỉ là người gìn giữ ngọn lửa, mà còn là người truyền lửa cho cháu, cho thế hệ sau này.
Từ đó tác giả suy ngẫm về bà, về cuộc đời của bà:
“Biết mấy nắng mưa qua bao năm
Bà vẫn dậy sớm như mọi hôm
Bàn tay bà ấp lửa ân cần
Bàn tay bà ấm tình thương hiền
Bàn tay bà đong gói niềm vui
Bàn tay bà nhóm nỗi lo tâm
Bàn tay bà gửi ước mơ xanh
Thiêng liêng và kì diệu - bếp lửa!”
Từ “biết mấy nắng mưa” như là ký ức về những khó khăn, bà vẫn giữ nguyên thói quen “dậy sớm” như mọi ngày. Bàn tay của bà không chỉ nhóm lửa ấm áp mà còn mang đến niềm vui, tình thương, và ước mơ cho mọi người. Điều đó làm cho bếp lửa trở nên kỳ diệu và thiêng liêng. Bằng cách đó, tác giả muốn nhấn mạnh sức mạnh và ý nghĩa của người mẹ, người bà trong cuộc sống hàng ngày.
Nhờ ngọn lửa ấy, cháu đã có một cuộc sống tiện nghi nhưng vẫn luôn nhớ về bà. Trong lòng không nguôi hỏi: “Bà đã nhóm bếp lên chưa?”
Những câu thơ dễ hiểu đã sâu sắc khắc họa về người bà, người mẹ Việt Nam - biểu tượng của sự hi sinh, niềm tin và nghị lực. Họ là nguồn sức mạnh của mỗi gia đình và dân tộc.
Bài thơ kết thúc trong ánh sáng và hơi ấm. Ngọn lửa của người bà đã chiếu sáng tâm hồn của thế hệ độc giả từ lâu...
Đánh giá về hình ảnh người mẹ trong bài thơ Bếp lửa
“Yêu thương mẹ nhớ những ngày xưa
Chịu đựng nắng mưa từ sớm tới tối
Cuộc sống hiện đại, mẹ là chèo lái
Thuyền mẹ vượt sóng gió suốt hàng trăm chiều”
(“Mẹ ơi”, Phạm Trung Dũng)
Những câu thơ giản dị của nhà thơ Phạm Trung Dũng đã nhắc nhở về hình ảnh người mẹ và tình cảm gia đình. Tình cảm đó được tác giả Bằng Việt lặp lại trong bài thơ “Bếp lửa”, với sự ghi nhớ và trân trọng đầy cảm xúc. Thông qua những từ ngữ ôn lại quá khứ, hình ảnh người mẹ hiện lên với sự ấm áp và quý báu.
Bài thơ mở đầu bằng việc mô tả hình ảnh người mẹ trong những ngày khó khăn và thiếu thốn:
“Lúc lên bốn tuổi, cháu đã quen với mùi khói
Năm ấy là năm đói kém, đói kiệt quệ,
Bố phải đi làm xa, nhà cơ cực
Chỉ nhớ mùi khói bay phủ mắt cháu
Nhớ lại, giờ sống mũi vẫn còn cay!”
Tác giả đã dùng từ ngữ “đói kém, đói kiệt quệ” để diễn tả hiện thực của cuộc chiến đau thương, kết hợp với sự khốn khổ và vất vả là kết quả của chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp với dân tộc ta. Trong những năm tháng khó khăn đó, hình ảnh người bà hiện lên với làn khói từ bếp lửa: “Chỉ nhớ mùi khói phủ kín mắt cháu”. Dù thời gian đã trôi qua, nhưng ấn tượng về những năm tháng đau khổ vẫn còn đọng lại qua việc sử dụng từ “cay”. Và những kí ức bên bà hiện về như một cuốn phim chậm:
“Mẹ và cha phải đi làm, không ai ở nhà với cháu,
Cháu ở nhà với bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu học, bà chăm sóc cháu
Nhóm bếp lửa nghĩ về bà khó nhọc”
Dù trải qua bao mùa tuổi thơ, nhà thơ vẫn không thể quên hình ảnh người bà dịu dàng trong nắng mưa. Những vần thơ giản dị nhưng giàu cảm xúc đã thành công diễn đạt về những năm tháng tuổi thơ trong cơn lửa chiến tranh. Bằng cách liệt kê, tác giả đã thành công khơi gợi những kí ức sống trong vòng tay che chở và sự quan tâm của người bà: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm sóc”... Mỗi câu thơ vang lên đều chứa đựng những kỷ niệm về sự hy sinh không ngừng của người bà. Trong những năm tháng “Mẹ và cha phải đi làm xa”, bà là điểm tựa tinh thần, là nguồn yêu thương đầy đủ, quan tâm. Những câu thơ của nhà thơ Bằng Việt đã gợi lại hình ảnh người bà trong bài thơ “Tiếng gà trưa” của nữ văn sĩ Xuân Quỳnh:
“Tiếng gà trưa
Mang bao hạnh phúc
Về nhà cháu mơ thấy
Giấc ngủ êm đềm, màu sắc như trứng”
Tiếp tục dòng cảm xúc từ những kí ức đã trôi qua là hình ảnh của người bà qua những suy tư và cảm nhận chân thực của nhà thơ. Hình ảnh của người bà luôn gắn bó, cùng những kỷ niệm bên bếp lửa và trở thành biểu tượng của sự ấm áp từ tình thương yêu và chăm sóc:
“Cuộc đời bà đã trải qua biết bao nhiêu gian khổ và vất vả,
Mấy chục năm rồi, từ xưa tới nay
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”
Cuộc sống đầy gian truân, khó khăn của người bà đã được mô tả thành công thông qua cách đảo ngữ, đặt từ 'gian khổ' lên đầu câu, kết hợp với các cụm từ về thời gian 'đời bà', 'mấy chục năm rồi'. Theo dòng thời gian, dù cuộc sống có biến đổi, người bà vẫn 'giữ thói quen dậy sớm' để nuôi dưỡng hy vọng và tình yêu trong tâm hồn của người cháu. Qua từng từ, chúng ta có thể nhận ra tình cảm đơn giản, chân thành và sâu sắc của người cháu dành cho người bà. Hình ảnh của người bà còn được vẽ nên với tấm lòng và tình yêu thương 'ấm áp và sâu sắc':
“Ngọn lửa bếp ấm áp, đong đầy tình thương,
Tình yêu thương, vị ngọt bùi của khoai và sắn,
Tình yêu thương như niềm vui từ nồi cơm nấu,
Tình yêu thương dạy cháu về những tâm tình từ khi còn bé…”
Thông qua từ 'nhóm', hình ảnh của người bà đã được tái hiện với tính thực tế và ý niệm sâu xa về sự hy sinh và trân trọng. Với tác giả, người bà là biểu tượng cao quý nhất của tình thương yêu 'ấm áp và sâu sắc', là nguồn sáng chiếu rọi sự chia sẻ, quan tâm và chăm sóc 'chia sẻ ngọt bùi', là người nuôi dưỡng tâm hồn cháu trong những năm tháng tuổi thơ. Những dòng thơ dịu dàng đã thành công vẽ nên hình ảnh của người bà luôn hiện hữu trong tâm trí, đồng thời thể hiện sự trân trọng và biết ơn từ tác giả Bằng Việt.
Bằng những vần thơ đơn giản nhưng ấm áp và sâu lắng, nhà thơ đã vẽ nên bức chân dung của người bà, gắn liền với hình ảnh của bếp lửa, trong dòng suy tưởng và cảm nhận chứa đựng lòng biết ơn, sự kính trọng và tình yêu. Qua hình ảnh của người bà, chúng ta có thể nhìn thấy những sự hi sinh và tình cảm tận tụy của những người mẹ trong những năm tháng đầy sóng gió và lửa đạn.
....