Bài văn Đánh giá nhân vật người Vợ nhặt trong truyện Vợ nhặt có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn phân tích mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 12. Hy vọng với việc phân tích nhân vật người Vợ nhặt trong truyện Vợ nhặt này các bạn sẽ yêu thích và viết văn tốt hơn.
Đánh giá nhân vật người Vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt (20 mẫu)
Đánh giá nhân vật người 'Vợ nhặt' trong truyện ngắn 'Vợ nhặt' của Kim Lân - mẫu 1
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với phong cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho cuộc sống ở làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng đầy ý nghĩa. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khó, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng cách tả thực chân thật, Kim Lân đã thành công trong việc xây dựng tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống khó khăn giai đoạn đó. Trong số đó có nhân vật người vợ.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân được viết ra vào thời kỳ đất nước đang đối mặt với nạn đói năm 1945, đời sống của nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, người chết như rơi, không có buổi sáng nào mà người dân trong làng đi chợ, làm đồng mà không gặp ba bốn cái thây nằm gục bên đường. Không khí đầy mùi ẩm thấp của rác rưởi và mùi hôi của xác người đã hiện lên. Tác phẩm đã thành công trong việc tái hiện khung cảnh của thời đó, trong một xóm nghèo nhỏ, người dân sống cực khổ suốt cả năm, cộng với cảnh chèn ép buộc phải nộp thuế… Mọi thứ đều vất vả đến khó tả.
Ngay từ tựa đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn dắt người đọc vào cuộc sống của những con người nghèo khổ trong xã hội Việt Nam. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện quan trọng cho diễn biến xoay quanh nhân vật người vợ. Từ “nhặt” mang lại cho người đọc cảm giác thấp hèn, vất vả của phụ nữ, gợi lên sự đau đáu cho số phận con người. “Vợ nhặt” nghe rất thực tế và vẽ lên hình ảnh của người phụ nữ với cuộc sống khó khăn, không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi ngay cả một buổi cưới nhỏ cũng không có, hoặc chính xác hơn là một bữa cơm ngon cũng chỉ giống như một giấc mơ hão huyền mỗi khi cô về nhà làm dâu.
Trong mở đầu của truyện ngắn, tác giả đã miêu tả hình ảnh của nhân vật anh cu Tràng: “hắn đi bước lảo đảo, vừa đi vừa mỉm cười, hai bên miệng mở to ra…”. Với chỉ vài đặc điểm đó, độc giả đã có thể tưởng tượng được hình ảnh của một anh chàng nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ khi nạn đói đổ bộ, đám trẻ con không còn năng lượng để trêu chọc Tràng nữa, vì chúng đã mất hết sức mạnh. Bởi cuộc sống quá khắc nghiệt, con người trở nên mệt mỏi, chán nản, từ già trẻ, nam nữ đều mang gánh nặng của cuộc sống và chất vấn vào những nếp nhăn, nếp chân chim, và làn da bị nắng cháy, thân thể gầy gò. Trong bóng chiều, suy nghĩ của Tràng được tái hiện: “hắn bước đi mệt mỏi, cái ao màu nâu nằm im bên cạnh”. Dường như lo âu, gánh nặng đè nặng lên vai Tràng”. Và rồi một ngày nọ, hắn dắt về một người phụ nữ xa lạ. Dưới bút viết đầy ấn tượng của tác giả “thị cầm cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách che khuất một nửa khuôn mặt. Thị tỏ ra e thẹn”. Một người phụ nữ nghèo khổ, đối diện với một người đàn ông cũng nghèo khổ, đó mới là một cặp đôi sinh ra để chia sẻ. Người ta có thể nghĩ rằng Thị là một người phụ nữ táo bạo, nhưng thực ra cô cũng rất e ngại và nghĩ suy như một phụ nữ. Khi theo Tràng về, Thị chỉ ngồi trên giường, tay vẫn vân vê và bộ mặt tràn đầy lo lắng. Có lẽ Thị đang suy nghĩ về cuộc sống mới của hai vợ chồng, và cuộc sống của cô sắp bắt đầu như thế nào.
Khi Tràng về nhà, hình ảnh của bà cụ Tứ, mẹ của Tràng, được Kim Lân mô tả với sự biến đổi và tâm tính sâu sắc. Độc giả sẽ hiểu rõ hơn về lòng nhân ái và hiền lành của một người mẹ. Chi tiết “bà cụ bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà dừng lại vì thấy có một người phụ nữ trong nhà…”. Sự lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện ra. Nhưng sau đó, bà cũng nhận ra, bà hiểu được “bà cụ cúi đầu im lặng, bà hiểu rồi. Trái tim của một người mẹ nghèo hiểu được bao nhiêu khổ sở, bao nhiêu nỗi oán trách, và bao nhiêu nỗi thương xót cho cuộc sống của con cái mình. Người ta xây dựng vợ cho con trong lúc ổn định, còn mình thì…”. Những suy nghĩ chua xót của bà được Kim Lân mô tả qua những từ ngữ mô tả tình trạng tâm trạng khiến cho sự khốn khó và đói nghèo trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, vì yêu thương con cái, chỉ cần một từ “thương”, mẹ đã bỏ qua tất cả để chấp nhận cuộc sống khó khăn, và mẹ cũng thương cả hai người con trước mặt: “Bà cụ nhìn Thị, trái tim đầy thương xót. Thị giờ đây là con dâu trong nhà rồi”. Có hai tình huống xảy ra có thể khiến độc giả không kìm được nước mắt, đó là khi gia đình cùng nhau ăn bữa cơm đầu tiên với thành viên mới và khi bà mẹ già mang nồi ‘‘chè khoán’’ nghi ngút khói ra đặt cạnh bữa cơm. Trong thời kỳ đói, khi người ta chết như cỏ, một bữa ăn đúng nghĩa thực sự rất khó có được trong một gia đình như của Tràng. Bữa cơm bao gồm “trên cái dĩa rách có một chút rau chuối thái nhỏ, một đĩa muối ăn với cháo, nhưng mọi người đều ăn rất ngon lành’’. Thực sự là nghèo khó đến cùng cực. Người vợ vẫn ăn mà không than phiền. Xuất thân của Thị cũng không khác gì ai. Thị cũng nghèo nàn, gầy gò và vì tình yêu mà đến làm vợ, làm con dâu trong nhà người ta. Thị cũng là một người rất đảm đang và nhanh chóng thích nghi. Khi về nhà Tràng, sáng sớm, Thị đã dậy sớm để cùng bà dọn dẹp và trang trí lại căn nhà. Dường như Thị muốn chăm sóc cuộc sống của gia đình và bắt đầu một cuộc sống mới. Thị cũng rất vui vẻ và dễ hoà nhập với cuộc sống mới. Trong bữa ăn, Thị kể nhiều câu chuyện, bao gồm cả câu chuyện cướp kho thóc của người Nhật, từ đó nảy sinh ra bao hi vọng tự do của những người dân nghèo khổ. Một bữa cơm đón dâu đầy xúc động. Tình huống khiến độc giả không thể quên, hình ảnh khiến mỗi khi nhắc đến tác phẩm này đều không thể quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là biểu tượng của cảnh đói khổ đến cùng trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa'. Mọi người đều muốn có một bữa cơm đón dâu lộng lẫy, cơm đầy trên mâm vào ngày rước dâu nhưng trong hoàn cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là điều duy nhất mà bà Tứ có thể mang lại cho con cái. Và có lẽ trong lòng người ‘‘vợ nhặt’’ cảm thấy thêm xúc động và thương xót cho những con người trong gia đình này. Hoá ra sự trơ trẽn, sắc bén của người phụ nữ Thị trước đây, được lấy làm vợ bởi Tràng, không phải do mưu cầu mà là do cả hai đều đối diện với nghèo đói và khát khao.
Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã mô tả nhân vật người phụ nữ vợ nhặt một cách thành công. Tác giả tập trung vào việc mô tả hành động, cử chỉ, và nét mặt của nhân vật để độc giả hiểu rõ tâm lý của người phụ nữ. Nhà văn đã chọn lọc những chi tiết phù hợp để làm nổi bật tính cách cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Vai trò của nhân vật vợ nhặt rất quan trọng trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm cũng như định hình tình huống truyện. Trong gia đình, người phụ nữ này đã sống với phẩm chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Dàn ý Phân tích nhân vật người 'Vợ nhặt' trong truyện ngắn 'Vợ nhặt'của Kim Lân
a) Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
+ Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, có hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của người nông dân và thường tập trung vào đề tài này.
+ 'Vợ nhặt' là một trong những tác phẩm đặc sắc của Kim Lân, tập trung vào cuộc sống của người nông dân.
- Tổng quan về nhân vật người vợ nhặt: Trong tác phẩm này, người vợ nhặt đóng vai trò quan trọng, đại diện cho những nạn nhân của nạn đói năm 1945.
b) Phần thân
* Tổng quan về tác phẩm:
- Bối cảnh sáng tạo: Vợ nhặt là một phần của tập truyện Con chó xấu xí với nguồn gốc từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng đã mất bản thảo. Sau hòa bình (năm 1954), Kim Lân đã dựa vào một phần của truyện cũ để viết truyện ngắn này.
- Ý nghĩa nội dung tác phẩm: Truyện ngắn không chỉ tả lại cảnh đời thê thảm của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ đói khủng khiếp năm 1945 mà còn phản ánh được lòng bền bỉ và sức sống phi thường của họ, mặc cho bất cứ khó khăn nào, họ vẫn giữ vững lòng sống, khát khao có một mái ấm gia đình và tình thương, lòng đoàn kết với nhau.
* Tiểu sử, nguồn gốc và hoàn cảnh của Thị
- Thị không có quê hương gia đình -> Nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người phải rời bỏ quê hương, gia đình.
- Không có danh tiếng và chỉ qua biệt danh “vợ nhặt” -> Cho thấy sự khốn khổ của con người trong hoàn cảnh đói khổ.
- Tình huống:
+ Thiếu việc làm cụ thể, cuộc sống lận đận, nạn đói đe dọa, đang đối diện với nguy cơ tử thần.
+ Nỗi đói kinh hoàng đã đẩy Thị vào tình trạng thất thường, làm mất đi lòng tự trọng và niềm tin vào bản thân.
=> Thị là một trong những nạn nhân của cơn đói đáng thương, số phận bi thảm.
* Vẻ bề ngoại của Thị
- Hình ảnh ngoại hình:
+ Trang phục rách rưới như tổ đỉa, thân hình gầy guộc
+ Gương mặt xám xịt như lưỡi cày chỉ còn lại hai đôi mắt.
+ Ngực gầy guộc nhô lên
=> Vẻ ngoài không mấy dễ nhìn, là biểu hiện của đời sống nghèo khổ, bất hạnh.
- Hành động, cử chỉ
+ Khi nghe tiếng hò vui của Tràng lần đầu, Thị mỉm cười vui vẻ giúp đỡ -> Thể hiện sự vô tư, hồn nhiên của người lao động nghèo.
+ Lần thứ hai:
• Thị giận dữ mắng Tràng, từ chối ăn trầu để có được một thứ có giá trị hơn
• Khi được mời ăn, Thị ngồi lại ngay, ánh mắt rạng rỡ, 'ăn một chục bát bánh đúc'
• Khi nghe Tràng đùa 'đằng ấy có về với tớ... cùng về', Thị quyết theo về -> Trong hoàn cảnh nghèo khó, đó là cơ hội cho Thị nắm bắt sự sống.
=> Đói nghèo không chỉ biến dạng hình dáng ngoại hình mà còn ảnh hưởng đến tính cách, khiến con người mất đi cả lòng tự trọng, sĩ diện và sự nhẹ nhàng, dịu dàng của người phụ nữ.
* Tính cách, phẩm chất đẹp của Thị
- Khát khao sống mạnh mẽ:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ mặc dù không biết gì về anh, chấp nhận không cần sự hiểu biết về Tràng vì Thị không muốn phải sống lang thang tới đâu.
+ Khi đến nhà gặp hoàn cảnh nghèo khổ, bất chấp tuyên bố 'rích bố cu', Thị chỉ 'nhẹ nhàng thở dài'; dù khó khăn, cô vẫn kiên nhẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người dịu dàng và nhu mì:
+ Trên đường về, Thị đi sau Tràng, đầu nhẹ nhàng cúi, thể hiện sự ngần ngại của mình với vai trò vợ nhặt.
+ Khi Tràng mời ngồi, Thị chỉ dám ngồi ở mép giường, ôm cái thúng, thể hiện sự dịu dàng và khiêm tốn khi chưa thể xác định vị trí trong gia đình.
+ Gặp mẹ chồng, Thị chỉ cúi đầu và vân vê tà áo, thể hiện sự ngượng ngùng.
+ Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét dọn nhà cửa, không còn vẻ lộn xộn mà trở nên hiền lành, lịch sự.
+ Khi ăn cháo cám, dù mắt đen lại, nhưng vẫn bày tỏ sự kính trọng và dịu dàng trước mẹ chồng, không muốn làm bà buồn.
=> Đói đến đâu, nhân phẩm vẫn được giữ gìn, không bao giờ mất đi tinh thần của con người.
- Thị cũng là người có lòng tin vào tương lai: kể câu chuyện về việc phá kho thóc ở Thái Nguyên, Bắc Giang để làm nên sự hy vọng cho gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
=> Nhận định tổng quan: Nhân vật người vợ nhặt là biểu tượng cho giá trị thực tế và nhân văn trong tác phẩm, đại diện cho những người nghèo khổ, đối mặt với đói kém và cái chết đe dọa, bước vào bước cuối cùng. Thị luôn khát khao hạnh phúc gia đình, mang lại sự sáng sủa, ấm áp cho gia đình của Tràng và cả cộng đồng dân cư trong hoàn cảnh khó khăn nhất.
* Tính độc đáo về mặt nghệ thuật
- Xây dựng tình tiết truyện độc đáo.
- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn.
- Tạo ra các cảnh sống động, chứa đựng nhiều chi tiết đặc biệt.
- Nhân vật được mô tả sống động, đối thoại hấp dẫn.
- Mô tả sâu sắc các biến động tâm lý của nhân vật.
- Sử dụng ngôn ngữ giản dị nhưng sắc bén và giàu cảm xúc.
c) Kết luận
- Tóm tắt đặc điểm và vẻ đẹp của nhân vật người vợ nhặt.
- Trình bày cảm nhận cá nhân về nhân vật.
Sơ đồ Phân tích nhân vật người 'Vợ nhặt' trong truyện ngắn 'Vợ nhặt'của Kim Lân
Phân tích nhân vật người 'Vợ nhặt' trong truyện ngắn 'Vợ nhặt'của Kim Lân - biến thể 2
Kim Lân, một nhà văn liên kết chặt chẽ với cuộc sống của người nông dân Bắc bộ Việt Nam, đã sáng tác nhiều tác phẩm phản ánh cuộc sống và văn hóa địa phương như: “Làng”, “Vợ nhặt”, “Con chó xấu xí”… Trong đó, tác phẩm “Vợ nhặt” từ tập truyện “Con chó xấu xí” nổi bật với ý nghĩa sâu sắc về đề tài nạn đói năm 1945 và lòng nhân ái, hy vọng vào cuộc sống của người nghèo. Nhân vật Thị trong tác phẩm là biểu tượng cho những nạn nhân của nạn đói, với hình ảnh tương phản giữa bề ngoài và bản chất, trước và sau khi làm vợ của Tràng.
Tác phẩm “Vợ nhặt” ban đầu có tên là “Xóm ngụ cư” và được viết ngay sau Cách mạng. Tuy nhiên, do mất mát bản thảo, sau khi hòa bình được thiết lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm có nhiều nhân vật nhưng nhân vật người “vợ nhặt” gây nhiều cảm xúc nhất cho độc giả, với sự phát triển từ bên ngoài đến bên trong, từ trước đến sau khi trở thành vợ Tràng.
Thị, một biểu tượng của người phụ nữ nghèo khổ và dũng cảm, vì cơn đói đã hy sinh thể diện để cứu lấy cuộc sống. Dưới vẻ ngoài bề ngoài cứng rắn ấy, Thị là một người đầy lòng nhân ái và ham muốn sống. Nhân vật này tôn vinh vẻ đẹp và lòng dũng cảm của người phụ nữ, đồng thời thể hiện sự hy vọng vào tương lai. Thị, mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng vẫn kiên định với cuộc sống và không ngừng tìm kiếm ánh sáng.
Sau những khó khăn vất vả, người phụ nữ Thị vẫn giữ lửa sống mãnh liệt. Thị chấp nhận theo chồng không phải vì loại phụ nữ dễ dàng mà vì khao khát sống. Dù đối mặt với gian khó, Thị vẫn kiên trì để bảo vệ sự sống.
Trên đường về nhà chồng, Thị cảm thấy ngượng nghịu trước ánh nhìn nhưng vẫn kiên định bước đi. Sự đau lòng từ đói nghèo đã thúc đẩy Thị theo đuổi cuộc sống mới với Tràng. Dù đối mặt với khó khăn, Thị vẫn kiên trì theo đuổi tình yêu.
Kim Lân tinh tế khi phân tích tính cách của Thị. Ông nhìn thấu lòng nhân sinh, cảm thông với nỗi đau và xấu hổ của Thị. Tiếng thở dài của Thị là biểu hiện của sự chấp nhận và hy vọng tương lai.
Thị không chỉ lo lắng cho tương lai mà còn đảm nhận trách nhiệm của mình trong gia đình. Sự lạc quan và lòng kiên trì của Thị đã làm thay đổi cuộc sống gia đình.
Dù có vẻ ngoài lạnh lùng, Thị lại là một người phụ nữ hiền hậu và tự trọng. Thị thể hiện sự biến đổi từ trong ra ngoài, từ lòng tự trọng đến sự hiếu thảo với mẹ chồng.
Sáng hôm sau, Thị sẵn lòng giúp đỡ mẹ chồng và cùng nhau dọn dẹp nhà cửa. Thị đã thay đổi từ một người phụ nữ chao chát thành một người vợ hiền lành và chăm sóc gia đình.
Dù bữa ăn đầu tiên chỉ có cháo lỏng và mỗi người chỉ được một ít nhưng Thị vẫn vui vẻ và hài lòng. Thị mang lại không khí ấm áp và tình thương cho gia đình Tràng, làm sáng lên khuôn mặt của bà cụ Tứ và đưa ra thông tin mới về tình hình xã hội.
Thị đã đem lại sự sống mới và niềm tin vào cuộc sống tối tăm của Tràng. Thị là biểu tượng của sự kiên định và tinh thần nhân đạo trong hoàn cảnh khó khăn nhất.
Phân tích về nhân vật 'Vợ nhặt' trong tác phẩm 'Vợ nhặt' của Kim Lân - Mẫu 3
Nhân vật 'Thị' là một thành công nổi bật của Kim Lân trong việc phân tích tâm trạng của phụ nữ trong đại nạn đói năm Ất Dậu, 1945. Vai trò của vợ Tràng làm nổi bật tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm.
Tình hình đói khan đang diễn ra khắp nơi. Mọi người đều đang phải đối mặt với sự khốc liệt của nạn đói. Thị, mặc dù đang đối mặt với nguy hiểm, vẫn giữ vững tinh thần và sự kiên nhẫn.
'Ai là người đói? Người đói chính là chúng ta!'
'Khi đói cơm rách áo, ai cũng trở thành người đói!'
(Tục ngữ)
Bản chất của người phụ nữ trong cảnh đói khổ mà không biết tên tuổi không phải là xấu. Cách tả của Kim Lân rất nhân từ và biểu hiện nhiều tình cảm, khiến chúng ta cảm động. Sau khi trở thành vợ Tràng, nhân vật này hiện ra những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù đối mặt với cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, mong muốn được sống trong mái ấm gia đình, trong tình thương, có chồng con như những người phụ nữ khác. Trước sự tò mò của bà con xóm chợ, thị cảm thấy ngượng ngùng và bước vào nhà chồng một cách nhẹ nhàng. Khi nghe trẻ con gọi: 'Anh Tràng ơi! Chồng vợ hài', thị nhăn mày và sửa lại áo. Trước mặt mẹ chồng, thị trông thật đáng thương với bộ đồ rách rưới. Nghe bà cụ Tứ kêu: 'Con ngồi xuống đây đi. Ngồi xuống cho đỡ mỏi chân', thị vẫn đứng im. Đó là tâm trạng của một người phụ nữ không được một bữa cơm, một lá trầu, một quả cau khi lấy chồng. Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính và khôn khéo. Khi gặp Tràng lần đầu, thị 'nháy mắt cười'. Khi Tràng phạm lỗi, thị lên án một cách yêu thương: 'Khờ dại'. Thị cũng biết trêu chọc chồng: '...chuyện dai dẳng, chờ mãi cũng chưa thấy đâu'. Một cái nhấc trán kèm theo câu 'Chỉ vì nhanh làm thôi. Làm bẩn chứ!'. Sau bao nhiêu gian khổ, thị đã trở thành vợ của Tràng và đã có sự thay đổi trong cuộc sống. Niềm vui của họ vào đêm tân hôn thể hiện sự khao khát hạnh phúc của một người phụ nữ trong cảnh nghèo khó. Hạnh phúc mặc dù đến muộn nhưng vẫn quý giá! Bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện sự trân trọng trước hạnh phúc và sự thay đổi cuộc sống của vợ chồng Tràng.
Nhân vật vợ Tràng đã có nhiều sự thay đổi tích cực. Khi sớm dậy cùng mẹ chồng quét dọn nhà cửa, tạo ra một không gian sạch sẽ và gọn gàng, xây dựng tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi của thị 'kêu lên như là niềm vui đang lan tỏa trong lòng'. Khi vào bếp chuẩn bị bữa sáng, Tràng cảm thấy vợ mình vô cùng dễ thương. Bà cụ Tứ đã có 'nàng dâu mới', Tràng cũng có vợ mới. Nhà thêm người, thêm đồ ăn, thêm sức lao động. Thị đã mang lại sự sống mới và tin tức mới về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe thấy tiếng trống thuế, thị nói với mẹ chồng và chồng: 'Ở Thái Nguyên, Bắc Giang, mọi người không đóng thuế nữa, họ còn phá hết kho thóc của Nhật để chia cho người đói nữa kia'. Thông qua đó, chúng ta có thể cảm nhận được vai trò của vợ Tràng, 'nàng dâu mới', cũng là người truyền thông cách mạng.
Vai trò của nhân vật vợ Tràng trong tác phẩm 'Vợ nhặt' là một lời cáo buộc, kết tội về tội ác của thực dân Pháp và Nhật - Pháp đã đẩy con người vào thảm kịch chết đói năm 1945, khiến hơn hai triệu người dân ta phải chết đói. Nạn đói khủng khiếp do chúng gây ra đã làm mất đi nhân phẩm của con người, cướp đi mọi giá trị của con người, biến người phụ nữ thành một thứ 'hàng rẻ có thể nhặt được'! Nhân vật vợ Tràng, mảnh thân gầy đói, về nhà chồng mặc áo quần rách như tổ đỉa, bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám - hình ảnh đó, tình tiết đó thật là đáng thương. Đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.
Nhân vật vợ Tràng trong truyện 'Vợ nhặt' đã nói lên một sự thật trong cuộc sống. Trong cảnh nghèo đói hoạn nạn, kề bên cái chết, con người vẫn khao khát được sống trong hạnh phúc ấm no. Những người nghèo khổ đã biết chia sẻ tài sản và tình thương để vượt qua thách thức khắc nghiệt, mơ ước về hạnh phúc và sự thay đổi trong cuộc sống với niềm tin: 'Ai giàu ba họ, ai khó ba đời'... Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã thể hiện tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm 'Vợ nhặt'.
Có người đã nói rằng “Hãy hướng mắt về phía mặt trời, bóng tối sẽ trở nên nhỏ bé sau lưng bạn”.
Truyện ngắn Vợ nhặt là một lời kết án mạnh mẽ đối với thực dân Pháp và đế quốc Nhật cùng với bọn phong kiến đã đẩy con người vào cảnh chết đói khủng khiếp, mạng người như rác rưởi. Không chỉ thế, Vợ nhặt còn mang ý nghĩa nhân văn sâu xa, cho thấy dù ở hoàn cảnh bi thảm đến đâu, dù đối mặt với cái chết, con người vẫn biết yêu thương, trân trọng, chia sẻ lẫn nhau, luôn khao khát hạnh phúc, muốn sống như con người, sống hết mình.
Nam Cao đã từng phát biểu “Một người phụ nữ thật xấu khi yêu mà lườm nhìn”, điều đó thật sự đúng với nhân vật Thị trong truyện Vợ Nhặt. Tôi nghĩ, lườm nhìn yêu thương của cô Thị không chỉ là xấu mà còn làm tổn thương và đong đưa trong cảm giác đói khát. Tuy nhiên, khi nhìn nhau, Tràng và Thị, họ đã quên hết nỗi đau trong cuộc sống trần tục và chỉ còn biết đến tình yêu. Điều đó thật sự đáng trân trọng và đáng ngưỡng mộ trước những niềm vui giản dị của cuộc sống hàng ngày!
Phân tích về nhân vật Thị trong tác phẩm ngắn 'Vợ Nhặt' của Kim Lân - bản mẫu 4
Trong ký ức của người dân Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một ác mộng khó quên. Từ nỗi đau thực tế, việc kiếm ăn trở thành đề tài cho những nhà văn sáng tác. Thân phận của những con người trở nên bình thường, thậm chí hạnh phúc lứa đôi cũng trở nên bất ngờ. Tất cả những điều này được ghi lại qua ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.
Thứ nhất, chúng ta thấy Thị là nạn nhân của nạn đói, phải sống trong cảnh khốn khó. Là một nhân vật vô danh, người vợ nhặt trở thành biểu tượng của số phận của những phụ nữ không may mắn sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn. Người phụ nữ này không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Trong suốt câu chuyện, Kim Lân chỉ đề cập đến nhân vật này bằng những cách gọi chung chung như “cô ấy”, “Thị”, “người phụ nữ”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Thị xuất hiện với sự dũng cảm và đáng thương trong hai cuộc gặp gỡ với Tràng. Thị ngồi nhìn trong đám phụ nữ đang nhặt hạt thóc rơi. Thị đi theo xe của Tràng với hy vọng kiếm được ít thu nhập nhưng không thành công. Từ sự nhỏ nhẹm, liếc mắt cười, Thị trở thành một hình ảnh buồn bã, tuyệt vọng vì nỗi đói trong lần gặp thứ hai “Hôm nay Thị rách quá, áo quần rách như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn, trên khuôn mặt chỉ còn hai con mắt”. Tràng dường như không nhận ra Thị. Cùng với sự thay đổi về ngoại hình, nỗi đói đã làm mất đi sự trong sáng và vui vẻ của Thị khi gặp Tràng, chị trở thành một người phụ nữ “mất hồn”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền “Thị cắm đầu ăn một đợt bốn bát bánh đúc liền không nói chuyện gì. Ăn xong, Thị cầm đôi đũa quệt qua miệng”. Kim Lân đã mô tả một hình ảnh của một người phụ nữ thật đáng thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, Thị đều hiện lên trên trang giấy với sự khắc khổ, tuyệt vọng, đáng thương. Nỗi đói không chỉ hủy hoại vẻ đẹp mà còn tước đi tính cách và nhân phẩm của Thị. Vì nỗi đói mà trở nên “nhàm chán”, “tưởng tượng”, “đầy ắp”.. Nỗi đói khiến Thị quên mất việc giữ gìn tinh thần và lòng tự trọng của mình. Thêm vào đó, nỗi đói buộc Thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa, nếu không về với tôi thì đứng lên xe và về”. Và đó là cách kết thúc của một câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Lãng mạn chỉ là điều không thể. Trong tình trạng đối diện với cái chết, Thị còn lựa chọn nào khác? Trong suy nghĩ của Thị, Tràng như một phao cứu sinh, giải thoát Thị khỏi nỗi đói khát của thế kỷ. Cái đói đã khiến Thị và nhiều người dân khác trở nên buồn rầu như vậy. Có ai có thể nghĩ được rằng hạnh phúc lứa đôi có thể được xây dựng bằng bốn bát bánh đúc và một lời nói đùa? Nhưng trong bối cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm ướt mùi ẩm mốc của rác thối và mùi hôi của xác người” thì hạnh phúc giản dị, đơn giản ấy cũng đáng quý biết bao.
Bên cạnh đó, Thị còn là một người phụ nữ với lòng ham muốn sống mạnh mẽ. Thị đồng ý đi cùng Tràng là vì muốn sống chứ không phải là để lơ đãng. Khao khát sống mạnh mẽ đã thúc đẩy Thị tìm kiếm lối thoát cho hoàn cảnh khó khăn. Niềm hy vọng vào cuộc sống đó chính là một phẩm chất đáng trân trọng mà như Kim Lân đã nói: “Khi viết về con người trong nạn đói, mọi người thường nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một câu chuyện khác. Trong tình hình khó khăn, dù đối mặt với cái chết, những người đó không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng về cuộc sống, vẫn hy vọng, vẫn tin tưởng vào tương lai”. Thị đến với Tràng trước hết là để tìm kiếm một nơi để tựa vào trong hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy, Thị không thể giấu được sự thất vọng ẩn sau bức màn cảnh báo của gia đình Tràng “căn nhà trống trải đứng trơ trọt trên mảnh đất mọc lên những đống cỏ dại. Thị nhìn quanh, cái ngực gầy lèm nhèm nhô lên, thở dài một tiếng”. Trên đường trở về nhà chồng, trước sự tò mò xôn xao, sự ghen ghét châm chọc của người dân xung quanh, người vợ nhặt cảm thấy xấu hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu vào chân kia”. Về đến nhà chồng, Thị thất vọng trước cảnh nhà quá tả tơi, khốn khó nhưng vẫn cố gắng kìm nén tất cả trong tâm trí. Trong tiếng thở dài không chỉ chứa đựng sự thất vọng mà còn kết hợp cả lo toan, ý thức trách nhiệm, trách nhiệm của mình trong việc xây dựng cuộc sống gia đình trong tương lai.
Thị để lại ấn tượng sâu sắc bởi những phẩm chất tốt đẹp. Khi vào nhà, Thị ngồi e thẹn vào mép giường và chào u một cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát ban đầu, Thị bây giờ là nàng dâu mới với sự ý tứ, cung kính, mực thước. Tình yêu thương và sự chia sẻ trong cơn hoạn nạn đã làm cho Thị trở nên tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình. Sáng hôm sau, Thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp. Đến cả Tràng cũng phải ngạc nhiên: “Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền lành, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát như lần gặp trước”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới bữa cơm thảm hại ngày đói, Thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng. Thị là một gió mới trong gia đình. Dù hoàn cảnh khó khăn, Thị vẫn điềm nhiên và vào miệng.
Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”; diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một biểu tượng cho hình ảnh người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng thương. Dù gặp nhiều khó khăn, Thị vẫn toả sáng bởi lòng ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin vào tương lai.
Phân tích về nhân vật Thị trong tác phẩm ngắn 'Vợ Nhặt' của Kim Lân - mẫu 5
Nhà văn Kim Lân, tên thật Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1-8-1920, tại thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Sự nghiệp văn học của ông mặc dù không đồ sộ nhưng lại rất đặc sắc và không thể nhầm lẫn. Một số truyện ngắn của ông được coi là kinh điển trong văn xuôi Việt Nam như Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu xí…
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang chịu nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân thê thảm. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều đặc biệt là một người làm nên cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ này chỉ là một trong hàng ngàn, hàng vạn phụ nữ cùng thời. Do đó, cô thường bị lãng quên, ít ai chú ý nhưng với nhà văn, đó là một số phận không thể bỏ qua, gây ra nhiều lo lắng. Sự thu hút của nhân vật có thể là từ một người phụ nữ vốn bị mù mịt, không định hình, trở thành một nàng dâu hiền lành của bà cụ Tứ?
Vợ Tràng là người phụ nữ không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện chỉ được gọi là Thị, là cô ả, là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.
Khi mới gặp Tràng, Thị là người mạnh mẽ, gan dạ đến mức trở nên thẳng thắn. Nghe Tràng hò một câu để giúp mệt mỏi (Muốn ăn cơm trắng mấy giờ này / Lại đây mà đẩy xe bò với tôi này), Thị đã bám lấy rồi đứng dậy, chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng trả hàng xong, Thị nhanh chóng chạy đến. Thị đứng trước mặt mà lên tiếng nói: 'Người này điêu quá! Khi nhận thấy Tràng dễ chọc, Thị tiếp tục thẳng thắn. Khi có thức ăn, đôi mắt của Thị sáng lên ngay và ngồi xuống ăn không chút do dự. Thị ăn một cách nhanh chóng và không nói chuyện gì. Sau khi ăn xong, Thị khen ngon và tiếp tục hành động theo bản năng của mình chỉ để có thức ăn.
Khi chấp nhận làm vợ của Tràng, trên đường về nhà của Tràng, Thị đã thay đổi hoàn toàn. Trong khi Tràng rất vui vẻ và hớn hở, Thị lại đi sau một cách rụt rè và e thẹn. So với khi mới gặp, bây giờ Thị đã trở thành một người khác. Ban trưa, khi ở ngoài chợ, Thị sấn sổ để được ăn, nhưng bây giờ Thị đang về nhà chồng. Thị cũng bắt đầu ý thức về vai trò của mình là người vợ. Thị chấp nhận số phận mình và không còn quyền lực nào, thậm chí cả quyền lựa chọn.
Dù cố gắng đấm ăn xôi đi nữa, Thị vẫn là người biết giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi Tràng thích thú trước cảnh trẻ con chọc phá, Thị cảm thấy rất khó chịu và tỏ ra ngượng ngùng. Thị cảm thấy xấu hổ và ngượng ngùng khi trẻ con và cả người lớn cũng quan tâm. Trong khi đó, Tràng vui vẻ và không để ý. Thị thậm chí còn đi nhầm đường, mong muốn sớm đến nhà để tránh sự chú ý từ mọi người.
Về nhà của Tràng, Thị trở nên khác biệt hơn. Thị có sự tò mò của một nàng dâu mới. Thị nhìn chung quanh và thở dài khi thấy nghèo đến mức đáng thương. Khi bà cụ Tứ về, Thị chào bằng lời u. Trước mặt mẹ chồng, Thị tỏ ra e thẹn và rụt rè, nhưng bà Tứ lại đón nhận Thị với tình yêu và thương xót. Sáng hôm sau, Thị trở thành người vợ chăm chỉ. Cùng bà Tứ, Thị dậy sớm để dọn dẹp nhà cửa. Người vô tâm như Tràng cũng nhận ra sự thay đổi trong Thị.
Câu chuyện đó khiến Tràng tiếc nuối khi nhớ lại mình đã bỏ lỡ cơ hội. Thị đã thể hiện lòng nhân ái và tinh tế trong các tình huống khác nhau. Khi sống trong tình yêu và sự quan tâm, Thị thể hiện bản chất tốt đẹp của mình, của một phụ nữ Việt Nam.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã thành công trong việc khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt. Tác giả tập trung vào hành động, cử chỉ và biểu hiện của nhân vật để hiểu được tâm trạng của người phụ nữ. Tác giả chọn những chi tiết phù hợp để thể hiện số phận và vẻ đẹp của nhân vật. Vợ nhặt đóng vai trò quan trọng trong việc nổi bật chủ đề của tác phẩm và hình thành tình huống truyện. Nhờ nhân vật này, độc giả có cái nhìn sâu sắc về tài năng và lòng nhân từ của tác giả. Vợ nhặt là một nhân vật quan trọng.
Phân tích nhân vật người 'Vợ nhặt' trong truyện ngắn 'Vợ nhặt' của Kim Lân - mẫu 6
Trong văn học hiện thực Việt Nam, Kim Lân là một trong những tác giả nổi bật khi viết về đề tài người nông dân trong xã hội cũ. Dù có ít tác phẩm, nhưng mỗi tác phẩm của Kim Lân đều hay và có giá trị, đánh dấu ông là một trong 9 tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Điểm đáng chú ý nhất là giọng văn nhẹ nhàng, tình cảm của ông, tập trung vào vẻ đẹp tâm hồn của con người. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, đặt trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Nhân vật vợ Tràng là một trong những tấm gương kiếp người khốn khổ, nhưng cũng hiểu được những phẩm chất tốt đẹp của con người.
Nhân vật thị trong truyện là một người phụ nữ không tên, tuổi tác, quê quán, không gia đình và không ai biết thị từ đâu đến. Cuộc đời của thị trước khi gặp Tràng dường như không có gì đáng nhớ. Thị đại diện cho số phận đau thương của nhiều người nông dân trong nạn đói năm 1945. Thị không chỉ nghèo khó mà còn mất đi sắc đẹp vì cảm giác đói khổ. Tuy nhiên, bằng lòng nhân ái và tốt đẹp, thị vẫn tồn tại trong bộn bề của cuộc sống.
Mặc dù không có ngoại hình cuốn hút, nhưng cách thị nói và hành động lại gây ra nhiều phản cảm. Khi nghe Tràng đùa, thị cười tươi và không ngần ngại tham gia tranh đua. Nhưng sau khi không được ăn, thị trở nên tức giận và chỉ trích Tràng. Khi Tràng đối xử tốt với thị, thái độ của thị cũng thay đổi. Thị hy vọng có một cuộc sống hạnh phúc và một gia đình ấm áp, vì vậy thị quyết định làm vợ của Tràng.
Dường như thị có vẻ lạnh lùng và tàn nhẫn, nhưng thực tế, thị là một người phụ nữ tốt bụng và ấm áp. Khi trở thành vợ của Tràng, thị thể hiện sự e thẹn và rụt rè như một cô dâu mới. Mặc dù thất vọng về điều kiện sống, nhưng thị không than phiền mà quyết tâm xây dựng gia đình hạnh phúc cùng Tràng. Thị trở thành một nàng dâu hiền lành và quan tâm khi ra mắt mẹ chồng.
Sau đêm tân hôn, thị trở thành người phụ nữ trong gia đình, chăm chỉ và trách nhiệm, làm việc như tháo vát để thu xếp nhà cửa, giặt quần áo, quét dọn sân, gom rác, và chuẩn bị cơm. Không khí gia đình trở nên vui vẻ và hòa hợp hơn. Đặc biệt khi phải đối diện với nồi cháo cám đắng, thị vẫn giữ được sự điềm đạm và kiềm chế không bày tỏ cảm xúc. Sự nhân từ và thấu hiểu của thị dành cho bà cụ Tứ đã bộc lộ qua cách thị xử sự với nồi cháo đó.
Thị trong truyện Vợ Nhặt của Kim Lân là biểu tượng cho hàng triệu người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng thị vẫn giữ được vẻ đẹp tâm hồn và khao khát một cuộc sống hạnh phúc. Tư tưởng nhân văn và lòng nhân đạo mạnh mẽ trong nhân vật thị đã được tác giả thể hiện rõ trong tác phẩm.
Phân tích nhân vật người 'Vợ nhặt' trong truyện ngắn 'Vợ nhặt'của Kim Lân - mẫu 7
Nhân vật thị trong truyện Vợ Nhặt của Kim Lân, mặc dù không phải là nhân vật chính nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ câu chuyện. Thị là hình ảnh của sự nhân đạo và hiện thực trong tác phẩm.
Trong trường hợp nếu Tràng vẫn còn có mẹ già, một cộng đồng, và một công việc để kiếm sống, trong khi thị không có gì ngoài sự thật của sự nghèo đói. Thị hiện lên như một hình ảnh bi thảm với vẻ bề ngoại 'hèn mọn', nhưng bên trong là sự đấu tranh và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.
Thị, mặc dù ban đầu có vẻ mềm dẻo và dễ dàng biết ơn, nhưng dần dần đã biến thành một người phụ nữ mạnh mẽ và tham lam vì miếng ăn. Sự thay đổi trong thái độ của thị được thể hiện qua việc thị trở nên tự ái và cực kỳ cứng đầu khi không được Tràng đối xử như ý.
Khi được Tràng chuẩn bị bánh đúng, thị đã hoàn toàn quên đi những giá trị nhân văn và nữ tính của mình, chỉ tập trung vào miếng ăn. Hành động này cho thấy sự phản bội đối với bản thân và nhân cách của thị. Thị thậm chí còn không ngần ngại đồng ý với Tràng về việc về sống cùng nhau, mặc kệ tất cả những gì đã xảy ra.
Chỉ vì cơn đói mà thị sẵn lòng hy sinh bản thân cho một người mà chỉ mới gặp gỡ hai lần. Thậm chí họ chưa kịp trò chuyện nhiều. Sự khát khao sống đã khiến thị quyết định mạo hiểm, và khi có cơ hội, thị nắm bắt lấy nó bằng mọi cách, vượt qua mọi rào cản và sự e dè của một người con gái. Hành động này thể hiện sự mạnh mẽ, yêu cuộc sống và ham muốn sống của người phụ nữ nông dân. Đồng thời, nó cũng là lời lên án mạnh mẽ nhất về sự tàn ác của các bọn đế quốc, phát xít đã khiến con người đến bước đường cùng.
Mặc dù mô tả về người phụ nữ mất đi những đặc điểm của bản thân, nhưng Kim Lân không bao giờ khinh bỉ hay coi thường, mà luôn biểu hiện sự đồng cảm và tôn trọng. Dù sau sự trơ trẽn đó, chúng ta vẫn nhận thấy một người phụ nữ dịu dàng, nhút nhát và đảm đang. Trên đường trở về, khi cầm thúng con, thị cùng bên cạnh Tràng, cảm thấy ngại ngùng khi bị trẻ con trêu chọc. Đặc biệt, khi gặp mẹ chồng lần đầu, thị rất lo lắng và sợ hãi.
Sự thay đổi đó cũng khiến cho Tràng, một chàng trai ngớ ngẩn, nhận ra rằng 'Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là một người phụ nữ hiền lành, không còn vẻ bề ngoài 'chảnh chọe' như những lần gặp trước đây'. Đồng thời, thị cũng trở nên chăm chỉ và cẩn thận hơn. Dưới đôi bàn tay của người phụ nữ đảm đang, nhà cửa được dọn dẹp kỹ lưỡng, mang lại một làn gió mới cho ngôi nhà.
Điều đặc biệt là không phải Tràng hay người mẹ mà chính là người vợ nhặt đã đưa ra những ý kiến về lá cờ Việt Minh và kho thóc Nhật. Sau tất cả những gì đã xảy ra, người phụ nữ bị đánh mất nhân tính của mình vẫn thể hiện sức sống mạnh mẽ. Và không ngẫu nhiên khi Kim Lân chọn nhân vật này để nói về tương lai và hy vọng, vì đó là nhân vật có sức sống mạnh mẽ nhất trong tác phẩm, cũng là nhân vật có số phận bi thương nhất. Đó là cách để tác giả thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của mình.
Nhân vật người vợ nhặt được đặt trong một tình huống đặc biệt, khi sự đói đến cùng và cái chết bủa vây, nhân vật bộc lộ những đặc điểm, ước mơ và khát vọng sống mãnh liệt của mình. Không chỉ thế, nhân vật còn đóng vai trò nối kết, liên kết các sự kiện trong tác phẩm. Với nhân vật này, Kim Lân không chỉ tạo ra một tác phẩm thành công mà còn thể hiện giá trị nhân văn và nhân đạo sâu sắc nhất của mình.
Phân tích nhân vật người 'Vợ nhặt' trong truyện ngắn 'Vợ nhặt'của Kim Lân - mẫu 8
Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông là truyện ngắn “Vợ nhặt”, được đăng trong tập truyện “Con chó xấu xí” ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã thành công tái hiện không khí ảm đạm và kinh hoàng của nạn đói năm 1945 tại Việt Nam. Trên nền tăm tối và bi thương đó, nhà văn đã đặt nhân vật người vợ nhặt: nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt. Điều này được thể hiện qua việc nhân vật chấp nhận trở thành vợ của một người đàn ông giữa cơn đói đến cùng.
Trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không hoàn hảo: không tên, không quê, không gia đình, không nghề nghiệp... Suốt cả câu chuyện, cô chỉ được gọi là “thị” - một cách gọi khinh bỉ dành cho những người phụ nữ khốn khổ và đáng thương như cô. Hình ảnh của cô từ đầu đã là những nét không dễ chịu: một người phụ nữ gầy guộc, khuôn mặt héo hon, quần áo rách rưới, sống khó khăn và hy vọng vào may mắn.
Trước khi trở thành vợ của Tràng, cô là một phụ nữ mạnh mẽ, táo bạo và mạo hiểm. Lần gặp đầu tiên, cô tự tin tiến lại đẩy xe bò cho Tràng và “nháy mắt cười” với anh. Lần gặp thứ hai, cô đến “vội vàng”, “nói như điên” và còn “đứng run run” trước mặt Tràng. Thậm chí khi được Tràng mời ăn bánh đúc, cô ăn liền bốn bát mà không ngần ngại. Trong hoàn cảnh khốn khó, cô gần như mất đi bản nguyên tố của con người.
Nhìn thấy nếp nhà xơ xác của Tràng, cô thầm thở dài và chấp nhận thực tế của cuộc sống với anh. Cô thất vọng vì hoàn cảnh của Tràng không khác gì của mình. Tràng nghèo và có mẹ già, còn cô phải lo lắng về tương lai của mình. Bước vào cuộc sống mới, cô vẫn giữ niềm tin vào một gia đình hạnh phúc, bất chấp những khó khăn phía trước.
Tất cả những biểu hiện của cô cuối cùng cũng là do nghèo đói. Cơn đói có thể biến đổi tính cách của con người. Trở thành vợ của Tràng, cô trở lại với bản chất thực sự của mình: một người phụ nữ hiền lành, nhút nhát, lễ phép và đảm đang. Cô dường như có một sự sáng sủa mới mẻ mà không ai có thể giải thích được.
Sau một ngày làm vợ, cô thức dậy sớm, lau dọn nhà cửa để tạo ra một không gian sạch sẽ và gọn gàng. Đó là hình ảnh của một người phụ nữ hiền lành, chăm chỉ, biết lo lắng cho gia đình. Cô trở nên như một cô dâu thực sự, biết quan tâm đến cuộc sống gia đình.
Trong bữa cơm cưới giữa những ngày khó khăn, bà cụ Tứ dành tình cảm đặc biệt cho con dâu mới. Cô chia sẻ những câu chuyện về tình hình tại Bắc Giang, khiến mẹ và chồng cô đặt niềm tin vào tương lai.
Qua hình ảnh của người vợ nhặt, tác giả lên án sự tàn ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, cũng như biểu hiện sự đồng cảm với số phận của người lao động nghèo khổ và tôn trọng tinh thần nhân đạo của họ.
Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thực sự thay đổi cuộc đời bằng tình yêu từ Tràng và mẹ Tràng. Dù không lộng lẫy, nhưng bóng dáng của thị mang lại sự ấm áp cho cuộc sống gia đình. Có lẽ thị đã mang lại một chút niềm vui cho những người nghèo bên bờ cái chết…
Kim Lân là một hiện tượng trong văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông có ít tác phẩm nhưng đều xuất sắc. Trang văn của ông toát lên tinh thần lạc quan, khát khao cuộc sống tốt đẹp của con người dù đối diện với cái chết, cái đói. Viết về đề tài nông thôn, Kim Lân thu hút người đọc bằng tính nhân bản. Mặc dù sống trong cảnh khốn cùng, nhưng con người vẫn yêu đời, ham sống. Sự sống đó được thể hiện rõ qua nhân vật người “vợ nhặt” trong tác phẩm của ông.
Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt trở thành biểu tượng của sự vô danh, không quê không túng, không quá khứ. Thị được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Mặc dù không có tên, nhưng nhân vật này để lại ấn tượng sâu sắc.
Lần đầu xuất hiện, thị là hình ảnh ngồi giữa đám con gái đợi nhặt hạt rơi trước cổng chợ tỉnh. Khi Tràng hò “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hy vọng được ăn, không cần ý tứ.
Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Người phụ nữ gầy guộc, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” với “hai con mắt trũng hoáy”. Cái đói làm thị trở nên nhếch nhác, tội nghiệp hơn. Nó không chỉ hủy hoại nhan sắc mà còn làm biến dạng tính cách, nhân phẩm.
Vì đói, thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện.
Kim Lân là một hiện tượng trong văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông có ít tác phẩm nhưng đều xuất sắc. Trang văn của ông toát lên tinh thần lạc quan, khát khao cuộc sống tốt đẹp của con người dù đối diện với cái chết, cái đói. Viết về đề tài nông thôn, Kim Lân thu hút người đọc bằng tính nhân bản. Mặc dù sống trong cảnh khốn cùng, nhưng con người vẫn yêu đời, ham sống. Sự sống đó được thể hiện rõ qua nhân vật người “vợ nhặt” trong tác phẩm của ông.
Cái đói khiến thị quên cả việc giữ lấy tự trọng, lòng tự tin của một phụ nữ. Thị không ngần ngại đòi ăn. Khi có đồ ăn, thị sẵn sàng “ngồi xuống ăn một bộn bát bánh đúc mà không suy nghĩ gì”. Thị đặt sự tồn tại của mình lên trên tất cả.
Khi Tràng đùa “muốn theo tớ về nhà thì ra đây đẩy xe lên rồi ta cùng về”. Người đàn bà kia im lặng (thường là đồng ý khi im lặng). Thị đồng ý, không do dự, không phân vân. Vì ai Tràng là, tính tình ra sao, quá khứ thế nào, thị không biết. Chỉ cần có đồ ăn là thị có thể theo ngay Tràng. Có lẽ thị theo Tràng chỉ vì đồ ăn? Thị dễ dàng, hời hợt như vậy ư? Thực ra, hành động của thị theo Tràng bắt nguồn từ nhu cầu cơ bản nhất là muốn sống. Thị bất kể tất cả để có thể ăn, ăn để tồn tại. Thị đồng ý theo Tràng vì ý thức về sự sống.
Gần chết, người phụ nữ không từ bỏ sự sống. Ngược lại, thị vượt lên trên mọi khó khăn để xây dựng hạnh phúc gia đình. Tinh thần lạc quan, yêu cuộc sống của thị là một phẩm chất đáng trân trọng. Theo Kim Lân: ” Trong hoàn cảnh khó khăn, dù gần chết nhưng những con người ấy không suy nghĩ về cái chết mà luôn hướng về sự sống, luôn hy vọng, tin tưởng vào tương lai”.
Khi trở về nhà chồng, tâm trạng của thị thay đổi rõ rệt. Nếu Tràng vui vẻ, tự mãn, thì người phụ nữ lại cảm thấy xấu hổ. Trước ánh nhìn soi mói, trước lời trêu ghẹo của hàng xóm. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu vào chân kia… cái nón rách che nửa khuôn mặt”.
Khi nhìn thấy “ngôi nhà hoang tàn trên mảnh vườn mọc um tùm những bụi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đó là tiếng thở dài cảm thấy buồn bã, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Trong tiếng thở dài đó không chỉ có lo lắng cho tương lai, mà còn có những lo toan và trách nhiệm của thị đối với gia đình chồng. Đó là ý thức của thị về trách nhiệm trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình. Tấm lòng của thị đáng quý biết bao.
Bước vào nhà, thị ngượng ngùng, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“ngồi mớm” là ngồi không ổn định nhưng rất ý tứ). Thị ý tứ, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu trong mối quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng trò chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu dọn nhà cửa. Sự thay đổi đó dễ nhận biết: nếu hôm qua Thị đầy đanh đá, chỏng lỏn thì hôm nay thị lại hiền lành hơn. Tràng nhận ra sự thay đổi đó: “Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền lành, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu này chứng minh sự thay đổi tích cực của vợ. Có lẽ tình yêu thực sự đã làm thị thay đổi.
Trong bữa cơm đầu tiên tại nhà chồng, dù chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người chỉ được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn vui vẻ, lòng bằng lòng. Thị đã chia sẻ thông tin mới, những tin tức về thời cuộc với mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thuế, thị nói với mẹ chồng: “Ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không đóng thuế nữa đâu. Họ còn phá cả kho thóc của Nhật để chia cho người đói nữa đấy”. Sự thông thái của thị giúp Tràng nhận ra con đường phía trước mình “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ lớn”. Điều này cho thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là người truyền đạt tinh thần cách mạng.
Viết về sự thay đổi trong tâm trạng của thị, Kim Lân tỏ ra trân trọng và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Xây dựng nhân vật: Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống độc đáo của câu chuyện; diễn biến tâm lý được mô tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trình bày cuốn hút, kịch tính…
Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo độc đáo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã truyền đạt một ý nghĩa nhân văn cao cả. Con người Việt Nam dù gặp khó khăn nhưng vẫn luôn hướng về tương lai với niềm tin mãnh liệt vào sự sống.
Trong tác phẩm Vợ nhặt, nhân vật vợ không được khai thác nhiều. Tuy nhiên, qua nhân vật này, Kim Lân vẫn gửi đi những thông điệp ý nghĩa và nhân văn, thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Người vợ nhặt được miêu tả là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị không có tài sản, không có thậm chí cả cái tên, thị chỉ được gọi một cách chung chung và phụ nữ nghèo. Thị không có nhà ở, hai lần gặp Tràng chỉ thấy thị vất vả nơi đầu đường, bên chợ. Thị không có họ hàng, không có nghề nghiệp. Trong bối cảnh toàn dân Việt Nam đang đấu tranh chống lại nạn đói, thị không có chỗ dựa nào, thị sống trong sự áp đặt của cái chết, hàng ngày, hàng giờ, cái đói đã biến thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn chút sự sống.
Chính tình trạng đói khát, đã khiến thị mất đi lòng tự trọng của bản thân. Nỗi sợ hãi về cái chết, cái đói không chỉ làm mất sự sống của người phụ nữ nghèo mà còn phá vỡ nhân cách, nhân phẩm của thị, điều này rõ ràng qua hai lần gặp gỡ với Tràng. Lần đầu gặp, chỉ vì một câu hò vu vơ, Thị đã ton ton chạy ra, híp mắt cười, sau đó đẩy xe bò cho Tràng. Sức mạnh của thị chống lại sự đói quá lớn, khiến thị mất đi sự dè dặt, nhưng trước đây thị đã có.
Kim Lân đã miêu tả việc xây dựng nhân vật thị một cách sâu sắc và đầy sáng tạo. Thông qua thị, tác giả đã tạo ra một hình mẫu người phụ nữ có ý chí mạnh mẽ, khả năng vượt qua khó khăn và luôn đặt niềm tin vào tương lai.
Khi gặp lại lần thứ hai, Thị cảm thấy sự trơ trẽn, vô duyên đã làm mất cả lòng tự trọng. Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên, không có bất kỳ cuộc hẹn nào, nhưng khi gặp Tràng lần nữa, Thị chạy đến và nói: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Chỉ khi được mời đi ăn, Thị mới không còn chút ý tứ, ngồi xuống và ăn hết bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn miêu tả hành động ăn uống thô tục, thô lỗ của Thị. Ám ảnh của cái đói đã khiến Thị trở nên táo bạo, liều lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là điều quý giá nhất với con người đã bị bán rẻ chỉ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau lòng mà không chỉ riêng cô vợ nhặt, mà rất nhiều người dân Việt Nam khác đã phải đối mặt. Và thậm chí, chỉ cần một câu nói đùa của Tràng, Thị đã theo anh về làm vợ. Trong hoàn cảnh không còn nơi để dựa vào, thì dù là vợ nhặt, Thị cũng sẵn lòng để thoát khỏi sự truy đuổi của cái chết.
Tương tự như Tràng, sau khi kết hôn, người vợ nhặt cũng trải qua sự thay đổi lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lí, tính cách, trên đường về nhà, trước sự chú ý của người dân, Thị cầm cái thúng con, e dè, ngượng ngùng đi bên cạnh Tràng. Biểu hiện này thể hiện sự xấu hổ, ngượng ngùng trong tâm hồn của Thị. Đây cũng là dấu hiệu đầu tiên của sự trở lại của nữ tính, sự trơ trẽn, chẳng lòn đã không còn. Trong tâm trí của cô vợ nhặt, vẫn còn lo lắng về tương lai. Về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây quanh, thị cảm thấy thất vọng, và thở dài. Khi vào nhà, cô ngồi ở mép giường, ôm chặt cái thúng.
Trước mặt mẹ chồng, Thị lễ phép chào hỏi, tay mân mê tà áo đã rách bợt đi. Hành động, cử chỉ của Thị thể hiện sự e thẹn khi đối diện lần đầu với mẹ chồng. Tuy nhiên, cũng thể hiện sự lễ phép, dịu dàng trong cách giao tiếp với người già. Những biểu hiện này cho thấy, sự chẳng lòn chỉ là kết quả của hoàn cảnh, còn bản chất thì vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.
Sự thay đổi rõ nhất trong tính cách là buổi sáng đầu tiên sau khi Thị lấy chồng. Qua cái nhìn của Tràng, Thị hôm nay đã rõ ràng là người đàn bà hiền lành, không chao chát, chẳng lòn như những lần gặp ngoài tỉnh. Thay đổi trong cảm nhận của Tràng đến từ những việc làm giản dị như: dậy sớm, dọn dẹp nhà cửa,… Thị đã mang lại sự tươi sáng cho căn nhà u ám của Tràng. Tất cả những hành động đó thể hiện sự đảm đang, tháo vát của cô cùng sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình.
Không chỉ có sự thay đổi trong tính cách, Thị còn thay đổi trong nhận thức. Hạnh phúc với người vợ nhặt không hề dễ dàng, bởi sự dồn đổi của cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của hai vợ chồng cũng phải diễn ra trong tiếng khóc của những gia đình có người chết. Bữa cơm đầu tiên đón cô dâu mới là nồi cháo cám mặn chát, lõng bõng là nước. Nhưng chính lúc ấy, trong tâm hồn Thị vẫn có niềm tin vào tương lai.
Không ngẫu nhiên, Kim Lân lại chọn Thị làm nhân vật chính, không phải hai nhân vật khác nói về khái niệm khởi nghĩa, phá kho thóc Nhật. Có lẽ vì một người dám hy sinh tất cả, kể cả trở thành vợ nhặt để được sống, thì khát vọng sống, hạnh phúc của họ là không thể phủ nhận. Mặc dù không nói rõ về tương lai, nhưng với một người ham sống, với một tinh thần mạnh mẽ như Thị, Kim Lân đã cho thấy sự hăng hái, quyết đoán và đồng thời thể hiện niềm tin vào cách mạng.
Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống độc đáo, từ đó nhân vật phản ánh tâm trạng, hành động của mình. Nhân vật được tập trung khắc họa ở cử chỉ, hành động, làm nổi bật vẻ đẹp của người vợ nhặt.
Với bút vẽ yêu thương và trọng trách, Kim Lân đã tạo nên một tác phẩm văn học bất hủ. Người vợ nhặt trở thành biểu tượng cho nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm mờ nhân cách và lòng tự trọng của nhân vật. Tuy nhiên, sâu thẳm trong con người đó vẫn tồn tại một người phụ nữ dịu dàng, nữ tính, biết chăm sóc và có khát khao hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người tin tưởng vào tương lai.
Nhân vật Thị trong truyện ngắn 'Vợ nhặt' của Kim Lân được phân tích một cách sâu sắc.
Một số người từng nói rằng “Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn”. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, ta thấu hiểu thêm về sự thực này. Ta không chỉ cảm thấy xót xa và thương cho hoàn cảnh khó khăn, mà còn cảm nhận được niềm tin vào tương lai và tình yêu thương trong gia đình. Nhân vật Thị làm thể hiện điều này như thế nào?
Nhà văn Kim Lân mô tả nhân vật Thị trên nền của nạn đói năm 1945. Thị và Tràng gặp nhau trong hoàn cảnh đói nghèo, và sau đó họ trở thành vợ chồng chỉ bằng vài câu đùa và bát bánh đúc. Thị là biểu tượng của người lao động nghèo trong tình trạng đói khó. Dưới bút của Kim Lân, Thị hiện lên như một hình ảnh ma quái, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem. Tuy nhiên, thông qua tác giả, Thị được mô tả như một người phụ nữ dịu dàng, có tình cảm và khao khát hạnh phúc.
Thị là biểu tượng của người lao động nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Dưới bút của Kim Lân, Thị được mô tả như một con ma đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem. Cô gặp Tràng và bắt đầu một cuộc sống mới dưới ánh nắng chiều. Dù sống trong điều kiện khó khăn, nhưng Thị vẫn giữ vững tinh thần và yêu thương gia đình.
Khi gặp Tràng, Thị có vẻ cứng đầu và chỏng lỏn, nhưng khi trở thành dâu, cô trở nên dịu dàng và hiếu thảo. Thị đến với Tràng như một nguồn động viên trong hoàn cảnh khó khăn. Cô thể hiện sự đảm đang và dịu dàng trong cuộc sống hàng ngày, và khao khát hạnh phúc cho gia đình.
Truyện ngắn 'Vợ nhặt' là một lời kết tội đối với thực dân Pháp và phát-xít Nhật, cũng như những người đã đẩy con người vào thảm cảnh đói khổ. Tuy nhiên, nó cũng là một lời nhắc nhở rằng dù trong hoàn cảnh khó khăn, con người vẫn giữ lại niềm tin, yêu thương và khát khao hạnh phúc.
Nam Cao từng nói: “Một người phụ nữ thực sự xấu xa khi yêu thương mà vẫn lườm nhìn”. Điều này thực sự phản ánh đúng nhân vật Thị trong truyện Vợ nhặt. Tôi cho rằng, ánh mắt lườm nhìn của cô Thị không chỉ xấu xa mà còn đầy rách rưới và nghèo đói. Nhưng có lẽ khi nhìn nhau, Tràng và Thị, họ đã quên hết nỗi đau của cuộc sống hiện thực đang bủa vây, để chỉ nhớ đến tình yêu. Sự trân trọng và ngưỡng mộ trước những niềm vui giản dị trong cuộc sống hàng ngày là điều đáng trân trọng!
Nhà giáo Trần Đồng Minh từng nhận xét một cách tinh tế rằng: “Tác giả sử dụng nhân vật Thị như một công cụ để nâng cao ý thức nhân văn qua tình yêu. Dù câu chuyện Vợ nhặt có nhiều bóng tối, nhưng từ đó lại tỏa sáng những tia hy vọng ấm áp”. Và có thể “những tia hy vọng ấm áp” đó chính là tình yêu, là sức sống mãnh liệt của các nhân vật đối diện với cái chết nhưng vẫn biết cách tỏa sáng để nâng cao giá trị của con người. Với sự quan sát tinh tế và lòng đồng cảm sâu sắc với số phận con người, Kim Lân đã khiến người đọc cảm động khi hình dung nhân vật Thị và qua đó thể hiện rõ số phận của phụ nữ trong tác phẩm.
Vợ Nhặt của Kim Lân là sản phẩm của hiện thực xã hội năm 1945 với cảnh nghèo khổ kinh hoàng, và tác phẩm đã phản ánh được đầy đủ và chi tiết tình hình đó, đồng thời truyền đạt được giá trị sâu sắc.
Tác phẩm được đăng trong tập truyện 'Con chó xấu xí' và sau khi xuất bản đã tạo ra tiếng vang lớn trong cộng đồng đọc giả, đặc biệt là những tình tiết bi thảm nhưng cũng đầy cảm động. Nó thể hiện sự hiện thực của xã hội khi con người có thể bỏ qua nhân phẩm, lòng tự trọng của chính mình chỉ để thoát khỏi đói. Và nhân vật Thị trong 'Vợ nhặt' là một biểu tượng đặc biệt. Tuy nhiên, thông qua đó là ý nghĩa và giá trị mà tác giả muốn truyền đạt.
Dưới bàn tay của Kim Lân, người vợ nhặt trở thành hình tượng của phụ nữ vô danh, không danh tính, không quê quán, không quá khứ. Cô không được đặt tên chỉ vì là một phần của cảnh đời đang nơi nguy cấp, là người phụ nữ không tên tuổi. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ấy”, “Thị”, “người phụ nữ”, “nàng dâu mới”, “ngôi nhà của tôi”. Tuy vậy, nhân vật này để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Thị hiện thân không chỉ bằng hình dạng mà còn bằng tính cách của một con người sống trong nghèo khó:
Nhà văn Nam Cao từng nói: “Một người phụ nữ thực sự xấu xa khi yêu mà vẫn lườm nhìn”. Điều này thể hiện rõ qua nhân vật Thị trong truyện Vợ Nhặt. Tôi cho rằng, ánh mắt lườm nhìn của cô Thị không chỉ thực sự xấu xa mà còn rất rách rưới và đói khát. Nhưng có lẽ khi nhìn nhau, Tràng và Thị, họ đã quên mất nỗi đau của cuộc sống hiện thực, chỉ còn nhớ về tình yêu. Sự trân trọng và ngưỡng mộ trước những niềm vui giản dị trong cuộc sống hàng ngày thực sự là điều đáng trân trọng!
Khi Thị lần đầu xuất hiện, cô ấy được miêu tả như một hình ảnh đậm chất nông thôn: ngồi giữa đám con gái, chờ đợi nhặt hạt rơi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng đùa giỡn, mời cô đẩy xe bò để cùng nhau về, Thị đã đồng ý một cách vui vẻ và nhiệt tình, không cần phải suy nghĩ nhiều.
Trên đường phố lần thứ hai, Thị xuất hiện với hình ảnh kém sức hút: một phụ nữ gầy gò, mặc đồ rách rưới, gương mặt mệt mỏi và đầy nước mắt. Đó là hình ảnh của một người phụ nữ bị đói đến đau đớn, mất đi sự tự trọng và nhân phẩm. Mọi hành động của Thị chỉ xoay quanh việc tìm kiếm miếng ăn, thậm chí cô còn bỏ qua những giá trị của bản thân để có thể sống qua ngày.
Khi Tràng đùa rằng liệu Thị có muốn về nhà cùng anh ta không, cô im lặng - một cách thường tâm lý là đồng ý. Thị không do dự, không suy nghĩ nhiều. Cô chỉ cần một ít thức ăn để đủ sức sống, và Tràng chính là người cung cấp điều đó.
Hành động của Thị theo Tràng không phải vì sự dễ dàng hay hời hợt, mà là do nhu cầu cơ bản của con người - muốn sống. Thị sẵn lòng hy sinh tất cả để có thể tồn tại, và điều này thể hiện rõ ý thức bám lấy sự sống.
Dù đối diện với cái chết, Thị không bao giờ từ bỏ hy vọng và ý chí sống. Thái độ lạc quan của cô là một phẩm chất đáng quý, cho dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất.
Theo Kim Lân: 'Dù đối mặt với cái chết, nhưng họ vẫn không bao giờ từ bỏ hy vọng vào tương lai và ý chí sống' - điều này được thể hiện rõ trong hành động và tư tưởng của Thị.
Khi trên đường về nhà chồng, cảm xúc của Thị có sự thay đổi đáng kể. Trong khi Tràng tự mãn và hạnh phúc, Thị lại cảm thấy xấu hổ và thất vọng.
Trong bối cảnh xã hội châm biếm và những lời nói trêu ghẹo, Thị cảm thấy ngượng ngùng và thiếu tự tin, cố gắng che giấu nửa khuôn mặt sau cái nón rách.
Khi đến nhà chồng và nhìn thấy ngôi nhà cũ kỹ đứng trên mảnh đất hoang vắng, Thị chỉ biết thở dài. Đây là sự thở dài biểu lộ sự ngao ngán và chấp nhận của cô.
Thị cảm thấy nghi ngờ về tương lai khi nhận ra rằng chiếc phao mà cô đang bám vào có thể là một chiếc phao rách. Thở dài của Thị thể hiện lo lắng cho tương lai và trách nhiệm của mình trong việc góp phần xây dựng gia đình.
Sau khi vào nhà, Thị cảm thấy e ngại và dè dặt, ngồi mớm vào mép giường và lễ phép chào hỏi mẹ chồng. Hành động này thể hiện sự tôn trọng và quan tâm đến mối quan hệ gia đình.
Sau đêm tân hôn, Thị có sự thay đổi lớn về tâm trạng và tính cách. Cô trở nên hiền lành và tận tụy trong việc chăm sóc nhà cửa, dọn dẹp.
Tràng cảm nhận rõ sự thay đổi này và ghi nhận rằng Thị đã trở nên hiền lành và không còn vẻ chao chát như trước.
Cảm xúc chân thành của Tràng trước sự thay đổi tích cực của vợ đã được ghi lại trong câu văn, là minh chứng cho sức hấp dẫn của tình yêu thực sự.
Dù bữa cơm đầu tiên tại nhà chồng chỉ có cháo lỏng và mỗi người chỉ được lưng hai bát nhưng Thị vẫn vui vẻ và hài lòng. Cô đã mang đến thông tin mới về thời cuộc cho mẹ con Tràng.
Khi nghe tiếng trống thuế, Thị chia sẻ với mẹ chồng về tình hình ở Thái Nguyên, Bắc Giang, nơi mà người dân không chịu đóng thuế và thậm chí phá kho thóc của Nhật để chia cho người đói.
Sự hiểu biết của Thị đã giúp Tràng nhận ra con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn. Thị cũng được thấy như một người truyền thông cách mạng.
Kim Lân thể hiện lòng trân trọng và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo thông qua việc viết về sự thay đổi tâm lý của Thị.
Nhà văn đã xây dựng nhân vật Thị trong một tình huống truyện độc đáo, miêu tả diễn biến tâm lý một cách chân thực và tinh tế.
Thông qua nhân vật 'vợ nhặt', Kim Lân đã truyền đạt một ý nghĩa nhân văn cao đẹp, về sức mạnh của lòng tin vào cuộc sống và con người Việt Nam trong hoàn cảnh khốn cùng.
Vợ nhặt của Kim Lân là minh chứng cho sức mạnh của lòng người và niềm tin vào cuộc sống. Tác phẩm này đã đóng góp vào văn học Việt Nam một quan niệm mới về lòng người và tình thương.
Phân tích nhân vật 'Vợ nhặt' trong truyện 'Vợ nhặt' của Kim Lân - mẫu 13
Nguyễn Văn Tài, tên bút là Kim Lân, sinh ngày 1-8-1920 tại thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, là một trong những nhà văn hiện thực nổi tiếng của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Mặc dù số lượng tác phẩm không nhiều nhưng lại đầy đặc sắc và không thể lẫn vào đâu được.
Truyện 'Vợ nhặt' của Kim Lân ra đời vào thời kỳ nước ta đang chịu nạn đói năm 1945. Câu chuyện xoay quanh ba người trong một gia đình ngụ cư, trong đó, vợ Tràng được tạo hình một cách độc đáo. Vợ Tràng không có tên, không rõ lai lịch, không có gia đình, chỉ là một trong hàng ngàn phụ nữ cùng thời. Tuy nhiên, nhân vật này lại rất đặc biệt trong mắt nhà văn.
Vợ Tràng là một người phụ nữ không có tên, không tuổi, không lai lịch, sống trong hoàn cảnh khó khăn. Ban đầu, khi gặp Tràng, Thị có thái độ hợm hĩnh và táo bạo, nhưng sau đó cô đã thay đổi hoàn toàn khi trở thành vợ của anh.
Thị, trước khi làm vợ Tràng, là một người rất dễ tỏ ra cố chấp và thèm khát ăn uống. Tuy nhiên, khi đã trở thành vợ của Tràng, cô đã có sự thay đổi lớn về tâm trạng và tính cách.
Trên đường về nhà chồng, Thị đã thể hiện sự khó chịu trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo. Cô cảm thấy xấu hổ và ngượng ngùng, mong muốn sớm đến nhà để tránh sự chú ý của mọi người.
Dù vậy, Thị vẫn ý thức về giá trị bản thân và không hài lòng khi bị Tràng coi thường. Sự thay đổi trong tâm trạng của cô được thể hiện qua các hành động và biểu hiện của mình.
Về nhà Tràng, Thị dường như trở nên khác biệt hơn. Người phụ nữ ấy tỏ ra tò mò, hiếu kỳ như một nàng dâu mới. Thị quan sát kỹ xung quanh và nhận ra sự nghèo đói khốc liệt. Dù cảm thấy tiếc nuối, Thị vẫn cố gắng giữ cho bản thân tự nhiên khi Tràng cố giục cô ngồi. Khi bà cụ Tứ trở về, Thị tỏ ra nhút nhát và e dè, nhưng thái độ đó lại khiến bà cụ nhìn cô với lòng thương xót. Sáng hôm sau, Thị đã trở thành người vợ chăm sóc gia đình. Cô và bà cụ Tứ cùng nhau làm việc nhà, dọn dẹp sân vườn. Thị thể hiện sự thay đổi rõ rệt trong cách cư xử và trách nhiệm của một người vợ.
Câu chuyện làm Tràng hối hận và tiếc nuối khi nhớ lại cơ hội đã bỏ lỡ. Thị, với trách nhiệm chăm sóc gia đình, thậm chí còn dũng cảm hơn cả Tràng. Mặc dù buổi sáng ấy đầy tủi hờn khi phải nuốt những miếng cám đắng, nhưng cả Thị, bà cụ Tứ và Tràng đều giữ cho lòng tự trọng và không muốn làm ai buồn thêm. Sự nhạy cảm và tinh tế của Thị được thể hiện qua hành động và biểu hiện của cô.
Thực ra, sự đanh đá, trở trẻn của Thị trước đây chỉ là do khát khao sinh tồn. Khi được sống trong tình thương và ấm áp của gia đình, Thị đã thể hiện bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Trong tác phẩm 'Vợ nhặt', Kim Lân đã thành công trong việc tạo hình nhân vật Thị. Tác giả tập trung vào miêu tả hành động, cử chỉ và biểu hiện của nhân vật để làm sâu sắc tâm trạng của Thị. Qua nhân vật Thị, tác giả đã làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm và tạo ra tình huống truyện đầy hấp dẫn.
Phân tích nhân vật 'Vợ nhặt' trong truyện ngắn 'Vợ nhặt' của Kim Lân - mẫu 14
Nhà văn có trách nhiệm phản ánh hiện thực thông qua nhân vật và cốt truyện của mình, đem lại cho độc giả cái nhìn sâu sắc và cảm thông về thời đại. Kim Lân đã thực hiện điều này một cách xuất sắc, đặc biệt trong tác phẩm 'Vợ nhặt', nơi ông miêu tả một cách chân thực thế giới của người nông dân và tri thức nghèo trong xã hội phong kiến.
Người phụ nữ Việt Nam thường được miêu tả như một hình ảnh yếu đuối và mong manh trong văn học. Thị, một người không tên, không tuổi, chỉ được gọi bằng đại từ phiếm chỉ, là biểu tượng của sự bất hạnh và khốn khổ. Kim Lân đã thành công trong việc thể hiện giá trị bần cùng của con người trong xã hội khốn khó thời bấy giờ qua nhân vật Thị.
Khi Thị gặp Tràng lần thứ hai, bức chân dung đã được vẽ và thể hiện rõ sự tàn nhẫn của nạn đói. Từ một cô gái tràn đầy sức sống, người mà 'liếc mắt, cười tít...ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng' khi nghe Tràng hát vu vơ:
'Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!'
Thì ra 'áo quần rách nát như tổ kiến, thị gầy gò hẳn đi, trên cái khuôn mặt sần sùi chỉ còn thấy hai con mắt'. Thị đã bị đói đến mức lối cụt, dẫn Thị vào bước đi cuối cùng. Thị bỏ cả cái gọi là danh dự và tôn nghiêm của mình. Thị không mất mặt nữa, “cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc, ăn xong cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Cái đói đến mức vắt kiệt cùng sức lực của một con người, buộc Thị tìm kiếm một con đường mới, một sự sống mới, và Thị quyết định theo Tràng về nhà. Dù rằng “Tràng cũng tưởng là đùa, ai ngờ Thị về thật”. Thị không về thì sẽ thế nào? Nhân phẩm, danh dự cũng không thể cứu vãn Thị, Thị mặc tất cả theo lời nói đùa của Tràng mà Thị cứ tự cho đấy là thật vậy: “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Không về thì có lẽ những ngày sau, trên phố “người chết như ngả rạ”, trong “ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường” sẽ có Thị. Bởi cái đói cứ như con quỷ dữ, hiện hình cho bọn thực dân đang bóc lột người dân miền Bắc nói riêng, chúng dồn họ vào con đường chết để trục lợi cho mình. Liệu một người phụ nữ như Thị có còn sức để chống đối, Kim Lân đã cho Thị con đường sống.
Có lẽ chính Thị cũng là một điều tươi đẹp, một tia sáng le lói nhưng lại làm ánh lên cái đẹp trong bức tranh u ám đó. Thị theo Tràng về trong con mắt săm soi của những người đàn bà khác: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. “Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, Thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Nhưng sự xuất hiện của Thị cũng “có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”. Không còn vẻ “chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”, “Thị có vẻ rón rén, e thẹn…Thị vẫn ngôi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Có một chút buồn, một chút thất vọng trong tâm trí Thị, “cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Liệu rằng họ có nuôi nổi Thị hay không?
Nhưng Thị không hề trơ trẽn, không như những con người bị bần cùng hóa, Thị vẫn là người không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị gặp mẹ Tràng vẫn chào hỏi, vẫn lễ phép kính cẩn. Thị là con người khéo léo, biết vun vén cho gia đình. Thị là người mang đến sự đổi mới trong nhà Tràng, nhờ có Thị mà Tràng mới cảm nhận được không khí gia đình. “Xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ.Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn”. Dù bát chè khoán mà mẹ Tràng đưa đầy “đắng ngắt và nghẹn ứ trong cổ”, nhưng thị vẫn không nói gì “điềm nhiên và vào miệng”. Bởi Thị hiểu hoàn cảnh nhà Tràng, thị biết ơn sự cưu mang của mẹ con Tràng dành cho Thị. Nếu không đến ngày cả chè khoán đắng ngắt ấy Thị cũng không có để ăn, sẽ là một cái xác vô danh trên đường đi. “Chưa bao giờ trong nhà này hai mẹ con lại dầm ấm, hòa hợp như thế”, Thị còn giúp Tràng nhìn ra một tương lai tương sáng hơn trong cái không khí, “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí con người”. Thị kể cho Tràng nghe cách Việt Minh “phá kho thóc Nhật” chia cho dân nghèo. Điều đó đã làm trong lòng Tràng một ý nghĩ vẩn vơ về “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Mà có lẽ một ngày nào đó Tràng cũng sẽ góp mặt, một ý nghĩ chợt lóe lên, như cách tia sáng, hơi thở mới mà Kim Lân đưa Thị vào cuộc đời Tràng.
Tóm lại, nhân vật Thị không chỉ đại diện cho một lớp người, cho những sức sống mãnh liệt, khao khát sống tiềm tàng của nhân dân lúc đấy. Thị còn là điểm nhấn, cái nét bút điểm xuyết làm sáng bừng lên giá trị nhân đạo, và cả hiện thực của “Vợ Nhặt”. Kim Lân đã cho thấy tinh thần đùm bọc, cưu mang của người với người, đã bộc lộ cái khát vọng một tổ ấm vẹn tròn của những con người nghèo khổ.