Phân tích bài thơ Tây Tiến khổ 1 tập hợp 20 ví dụ xuất sắc kèm theo 4 gợi ý viết rất chi tiết. Với 20 ví dụ phân tích khổ thơ đầu tiên của Tây Tiến, các bạn sẽ nắm vững kiến thức và tiết kiệm thời gian tìm hiểu.
Phân tích khổ thơ đầu tiên của Tây Tiến được chuẩn bị cẩn thận, chất lượng cao. Nó giúp hiểu rõ hơn về văn hóa và con người Tây Bắc, tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên và lòng dũng cảm của những người lính Tây Tiến. Dưới đây là 20 ví dụ phân tích chi tiết khổ thơ đầu tiên của Tây Tiến, mời các bạn cùng tham khảo. Ngoài ra, bạn có thể xem thêm: phân tích khổ 2 của Tây Tiến, phần mở đầu của bài thơ Tây Tiến, phân tích toàn bộ bài thơ Tây Tiến.
Dàn ý phân tích khổ thơ đầu tiên của Tây Tiến
I. Phần Giới thiệu:
- Giới thiệu về tác giả Quang Dũng
- Tổng quan về bài thơ Tây Tiến
II. Phần Chính:
- Hai câu thơ đầu tiên: Nỗi nhớ lan tỏa, làm nền tảng cho sự sáng tạo trong bài thơ
- “Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt mà Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.
- “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.
=> Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ quên, đồng thời cũng là nỗi trống trải lạc lõng trong lòng tác giả.
- Tiếp theo là hai câu thơ:
- “Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.
- Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi bước chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, trở thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.
- Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.
- Tiếp theo là bốn câu thơ “Dốc…xa khơi”:
- Gợi sự khó khăn của dãy núi Tây Bắc, nỗ lực và sự kiên trì của quân lính khi vượt qua chặng đường gian khổ.
- “Súng ngửi trời” là biểu tượng thú vị, thể hiện tinh thần lãng mạn, hồn nhiên và hài hước của quân lính trong cuộc chiến đấu.
- “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là hình ảnh đẹp của cuộc sống, sự lãng mạn giữa cảnh núi rừng hoang sơ, tạo ra cảm giác bình yên, là nơi nghỉ ngơi cho quân lính.
- Tiếp theo là hai câu thơ “Anh bạn…quên đời”:
- Tinh thần hy sinh cao cả của quân lính, vẻ dáng kiêng nhẫn, oai vệ sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc.
- Niềm thương tiếc và lòng ngưỡng mộ tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho đồng đội.
- Tiếp theo là bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều…nếp xôi”
- Vẻ oai vệ, uy nghi của dãy núi Tây Bắc với lối viết mới lạ, sử dụng từ ngữ mạnh mẽ, kết hợp với nguy hiểm tiềm ẩn trong rừng sâu của thú dữ.
- Sự hồi sinh từ ký ức của tác giả, quay trở lại thực tại với nỗi nhớ sâu sắc, mãnh liệt, nhớ đến tình quân dân ấm áp với cơm nắm, hương lửa trong những ngày chiến đấu.
III. Kết luận:
Tóm tắt lại giá trị về nội dung và nghệ thuật của phần thơ.
Phân tích Tây Tiến khổ 1 - Mẫu 1
Phân tích đoạn 1 Tây Tiến - Mẫu 1
Tây Tiến là một bài thơ được viết trong thời kỳ đất nước đang chống lại thực dân Pháp. Bài thơ này giúp độc giả cảm nhận được tinh thần đoàn kết trong cuộc chiến, kỷ niệm về quân đội mạnh mẽ Tây Tiến, đặc biệt là ở phần đầu tiên. Tác giả bày tỏ nỗi nhớ về thiên nhiên:
Con sông Mã đã xa, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ những khoảnh khắc tự do.
Sương mù phủ kín Sài Khao, bao phủ đoàn quân mệt mỏi.
Hoa nở trên đỉnh Mường Lát trong khung cảnh tối tăm của đêm.
Nhớ về dòng sông Mã thân thương, nhớ những rừng núi bao la. Tình cảm nhớ thương ở đây không thể nào diễn tả hết, đó là một loạt cảm xúc của sự hoài niệm, nhớ mong với con sông Mã và với thiên nhiên miền Tây.
Tiếp tục trong hai câu thơ sau là những địa danh mà binh đoàn đã đi qua, như Sài Khao, Mường Lát. Chiến sĩ phải vượt qua mọi khó khăn trên đường đi, những địa danh xa lạ như thể hiện sự hiểm trở, gian khó, khi đoàn quân mệt mỏi nhưng vẫn phải tiến lên dưới điều kiện khắc nghiệt của thời tiết. Có những hình ảnh hoa nở trong đêm, thể hiện sự lãng mạn của người lính.
Leo dốc, khuỷu tối, địa hình đồi núi sâu thẳm
Mây mù phủ kín, súng vẫn nghênh ngang ngó vào bầu trời
Leo lên, xuống dốc, ngàn thước
Hành trình của những người lính giống như một cuộc hành trình giữa sự sống và cái chết, với địa hình vô cùng khắc nghiệt. Những dốc lên như thể đứng thẳng, còn những đoạn đường xuống như vực thẳm, chỉ một chút sơ suất cũng có thể làm mất đi sinh mạng. Mặc dù gian khó nhưng binh đoàn vẫn luôn kiên định, hình ảnh “súng vẫn nghiêng về trời” thể hiện sự lãng mạn, yêu cuộc sống của những binh đoàn Tây Tiến.
Bạn đồng đội đã mệt mỏi không thể tiếp tục bước nữa
Ngã gục dưới nắng, bỏ quên cuộc sống!
Trong những cuộc hành quân đó, tác giả đã chứng kiến nhiều người kiệt sức đến mức “không thể tiếp tục bước nữa”, cảnh thực của chiến tranh đã đẩy rất nhiều chiến sĩ mãi mãi nằm xuống trên con đường hành quân, với hành trang của họ vẫn là “súng”, “mũ”, các chiến sĩ nằm đó vẫn kiêng nhẫn và trong tư thế của những người chiến sĩ. Tác giả nhớ về họ như những anh hùng và không quên ngưỡng mộ tinh thần của những người lính cụ Hồ, những người đã dành cả tuổi thanh xuân để hy sinh cho độc lập của đất nước, dân tộc.
Trong hai câu thơ cuối của phần 1, tác giả thể hiện cảm xúc sâu lắng với địa danh nổi tiếng Mai Châu:
Nhớ mãi Tây Tiến, cơm nấu bên bếp khói
Mai Châu mùa thu, hương nồng bốc lên từ nồi xôi
Dừng lại nghỉ ngơi sau một hành trình mệt mỏi và gian khổ, những chiến sĩ của Tây Tiến cùng với bà con dân tộc Tây Bắc trở thành một gia đình, quây quần bên nồi cơm hấp phát ra khói. Nhớ mãi! là lời thốt ra thể hiện nỗi nhớ mong sâu sắc, mãnh liệt. Hình ảnh của cơm hấp, hương vị của xôi thơm nồng là biểu tượng cho tình đoàn kết chặt chẽ, trung thành với đồng bào ở vùng Tây Bắc đối với cuộc cách mạng. Chắc chắn những kỷ niệm này sẽ mãi mãi không phai nhạt trong tâm trí những người chiến sĩ Tây Tiến.
Phần đầu chỉ có 14 câu nhưng đã giúp người đọc hiểu sâu hơn về thiên nhiên và con người ở Tây Bắc, trong cảnh thiên nhiên, các lính Tây Tiến hiện lên mạnh mẽ, oai phong. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự kết nối mạnh mẽ với thiên nhiên và con người ở Tây Bắc, thể hiện tình yêu đất nước của tác giả.
Phân tích khổ 1 Tây Tiến - Mẫu 2
Nhà thơ Vân Long đã dùng một phép so sánh rất tinh tế để mô tả Quang Dũng: “Nhà thơ Quang Dũng giống như bóng mây lượn qua đỉnh Việt, là một áng mây bay qua sông núi của Việt Nam. Mây của Quang Dũng bay đến đâu, hoa lá cây và núi sông dường như cũng theo đến đó”. Hình ảnh của “bóng mây” mang đậm tinh thần thơ, phóng khoáng, tài hoa và nhiệm màu, tạo ra vô số vần thơ tuyệt vời, bài thơ đẹp. Một trong những tác phẩm đặc biệt nhất, thể hiện rõ dấu ấn của tác giả, là bài thơ Tây Tiến với đoạn miêu tả thiên nhiên và người lính đặc sắc:
“Sông Mã đã xa, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ những lúc vô tư.
--
Ngã gục dưới tia nắng, bỏ quên cuộc sống!
Chiều tà, thác vang tiếng gầm,
Mỗi đêm, tiếng cọp ở Mường Hịch trêu ngươi.
Nhớ mãi Tây Tiến, cơm bốc hơi khói,
Mùa thu Mai Châu, hương thơm từ nồi xôi.
Tây Tiến, một đoàn quân thành lập vào năm 1947, phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt-Lào, đánh áp đảo quân Pháp. Đơn vị này chủ yếu là các thanh niên Hà Nội, nhiều học sinh, sinh viên, trí thức, và những người nhỏ lẻ Hà thành.
Quang Dũng viết bài thơ tại Phù Lưu Chanh, Hà Đông, một buổi chiều mưa cuối năm 1948. Bài thơ là tiếng lòng của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến sau khi chuyển công tác. Để sáng tác 'Tây Tiến', ông lấy những ký ức về Tây Tiến làm nguồn cảm hứng, tạo ra một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc.
Viên Mai từng viết: “Làm người không có cái tôi... nhưng làm thơ không thể thiếu cái tôi”. Nhận định này phản ánh đúng bản chất của thơ Quang Dũng. Bài thơ 'Tây Tiến' là biểu hiện rõ nét nhất của cái tôi của Quang Dũng, thể hiện phong cách nghệ thuật sâu sắc của ông.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh khó khăn, gian khổ trên hành trình của đoàn binh Tây Tiến, nhưng cũng thể hiện vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc. Hai câu thơ đầu tiên tóm gọn cảm xúc chủ đạo của toàn bài, đó là nỗi nhớ nhung tha thiết:
“Sông Mã đã xa, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ những lúc vô tư”
Bản sắc của con sông Mã được nhà thơ tôn vinh thông qua lời gọi cảm xúc và kí ức của đoàn binh, thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên Tây Bắc.
Sự độc đáo của cụm từ “nhớ chơi vơi” đã làm cho bài thơ của Quang Dũng trở nên đặc biệt, gợi lên cảm xúc sâu sắc và triền miên của nỗi nhớ.
Đoạn thơ “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi, Như đứng đống lửa như ngồi đống than” như một tiếng chuông thương nhớ vang vọng khắp núi rừng Tây Bắc.
Hình ảnh những sợi tơ lòng giăng mắc khắp không gian núi rừng Tây Bắc đã được Quang Dũng diễn đạt qua từ ngữ sâu sắc và gợi lên những cảm xúc sâu xa.
Nỗi nhớ về vẻ đẹp hào hoa của thiên nhiên Tây Bắc và những kỷ niệm hào hùng trong quá khứ đã tạo nên một không gian tâm linh đậm đà trong tâm hồn nhà thơ Quang Dũng.
“Tây Tiến giữa biên cương với khói lửa mờ mịt, Đoàn quân đi qua, làm lay động bóng cây rừng. Và bài thơ ấy, con người ấy, Vẫn sống mãi với hồn núi sông.”
Tiếp theo, tác giả mở ra khung cảnh của con đường hành quân của người lính Tây Tiến:
“Sài Khao bị sương phủ mỏi mệt đoàn quân, Mường Lát cỏ hoa nở rộ trong đêm tối.”
Quang Dũng sử dụng thủ pháp liệt kê những địa danh như Sài Khao, Mường Lát để tạo nên bức tranh chân thực về cuộc hành quân khó khăn của người lính Tây Tiến.
“Bốn phía mênh mông sương mù che phủ, Trong chiến khu, đất trời ta hòa mình vào một.”
Gian nan, vất vả của người lính Tây Tiến được thể hiện qua từ “sương”, vừa hào hùng, vừa trữ tình. Đinh Minh Hằng đã mê mải với sự thăng hoa lãng mạn của Tây Tiến.
Câu thơ thể hiện vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của thiên nhiên Tây Bắc. Hình ảnh Mường Lát hoa nở trong đêm tạo ra không gian yên bình, dịu dàng, tan vào hương hoa.
Hành trình của người lính Tây Tiến vừa khắc nghiệt vừa thơ mộng. Đọc câu thơ, con người tan vào không gian yên bình, thơ mộng của Mường Lát.
Quang Dũng gắn bó với thiên nhiên Tây Bắc trong suốt chặng đường hành quân. Mỗi địa điểm qua lại đều gợi lên tình yêu thương sâu nặng trong tâm hồn nhà thơ.
Chế Lan Viên thể hiện tình cảm sâu lắng với thiên nhiên Tây Bắc qua những dòng thơ trữ tình và sâu lắng.
Mảnh đất Tây Bắc với các địa danh như sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu... ghi dấu chân của người lính, trở nên hoang vu và xa xôi.
Ba câu thơ sau mô tả rõ nét địa hình khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc:
“Leo dốc uốn cong thăm thẳm, Gió heo hút, mây súng bao trời, Lên ngàn thước, xuống ngàn thước.”
Quang Dũng đã sử dụng ngôn từ sắc bén để miêu tả địa hình núi rừng hiểm trở của Tây Bắc, từ đó vẽ nên bức tranh hùng vĩ và thách thức của cuộc hành quân.
“Bốn phía mênh mông sương mù, Chiến khu ta, trời đất hòa mình vào một.”
Văn chương dùng từ ngữ để tạo hình ảnh cho người lính Tây Tiến, ví như câu thơ 'Cồn mây súng ngửi trời' tươi sáng, hùng vĩ như đám trai Hà Thành đang chiếm đỉnh núi cao.
Câu thơ thứ ba, với điệp từ 'ngàn thước', kể về khó khăn hiểm trở trên đường đi, nhắc nhở về những thử thách mà người lính phải đối mặt.
Nhà thơ tôn vinh lòng dũng cảm của người lính Tây Tiến, vượt qua gian khó để đến với vẻ đẹp của con người và địa hình.
Chí khí và quyết tâm của người lính được thể hiện qua câu 'Khó khăn nào cũng vượt qua/Kẻ thù nào cũng đánh thắng!'.
'Hình anh lúc nắng chiều/Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo/Núi không đè nổi vai vươn tới/Lá ngụy trang reo với gió đèo.' - Tố Hữu.
(Trên đường Tây Bắc)
Câu thơ thứ tư “Nhà ai pha Luông mưa xa khơi” tả sự mềm mại, lãng mạn của Tây Bắc, kết hợp với nét bí ẩn khiến độc giả đầy tò mò về hình ảnh đằng sau cơn mưa.
Bốn câu thơ cuối tạo nên bức tranh tuyệt vời về sự hy sinh anh dũng của người lính, với cái chết nhẹ nhàng như lông hồng.
Hai câu thơ cuối tập trung miêu tả hình ảnh của người lính hy sinh, không bước nữa và gục ngã dưới gươm súng.
“Anh em dầu giữa đường không tiếc nuối/Gục xuống với súng, quên hết cuộc đời.”
Từ cụm từ 'dãi dầu' gợi lên hình ảnh vất vả, khó khăn của người lính. 'Không bước nữa' thể hiện sự kiệt sức, không thể tiếp tục bước đi. Có lẽ do quá mệt mỏi, họ cần nghỉ ngơi, hoặc đây là cách giảm nhẹ nỗi đau khiến câu thơ không quá bi thảm.
Đoạn thơ cuối tạo nên bức tranh sâu sắc về sự hy sinh của người lính, với sự nhẹ nhàng của cái chết, như một giấc ngủ thanh thản. Hình ảnh các anh tượng trưng cho thế hệ trẻ thời chiến tranh, sẵn sàng hi sinh cho đất nước.
Đọc câu thơ này, ta cảm nhận được sự hiện thực của cuộc chiến, sự hy sinh, và bài hát hào hùng về những người lính đã hi sinh hết mình cho tự do của đất nước.
Đoạn thơ cuối tạo ra một bức tranh sâu sắc về sự hy sinh của người lính, với hình ảnh của họ đứng trên dây thép, không rời bỏ khẩu súng.
(“Giá từng thước đất”-Chính Hữu)
Hai câu thơ tiếp theo tập trung vào sự bí ẩn và linh thiêng của rừng núi Tây Bắc:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp đùa giỡn người”
Biện pháp nghệ thuật nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp đùa giỡn người” kích thích âm thanh kinh dị của rừng già, tạo ra cảm giác hãi hùng cho người, đặc biệt là những người lính. Sự tương phản và đối lập kết hợp với thời gian vô tận làm nổi bật sự nguy hiểm luôn rình rập người lính. Mặc cho khó khăn và gian khổ, họ vẫn dồn hết sức lực để tiến lên trên con đường thiêng liêng ấy:
“Đoàn vệ quốc ra đi một lần
Không biết khi nào trở về”
Thiên nhiên Tây Bắc không chỉ hùng vĩ và hiểm trở, mà còn ẩn chứa bí ẩn linh thiêng. Sống và chiến đấu trong môi trường như vậy đòi hỏi sự gan dạ, can đảm của người lính. Dù oai linh và bí ẩn, nhưng Quang Dũng đã tinh tế 'thả' chữ 'trêu' vào câu thơ, tôn vinh sự vui vẻ, lạc quan, và can đảm của người lính.
Sau những ngày đi trên đường gian khổ, người lính dừng chân tại Mai Châu, nơi họ được đón tiếp nồng hậu bởi người dân địa phương:
“Nhớ quá! Cơm bốc khói Tây Tiến
Mai Châu em thơm nếp xôi”
Hai câu thơ này thể hiện tình đoàn kết chặt chẽ giữa quân và dân. Từ cảm thán 'nhớ quá' thể hiện sự nhớ mong tha thiết, đầy cảm xúc. Thơ Việt Nam biết diễn tả nỗi nhớ theo nhiều cách khác nhau. Nếu trong ca dao, nỗi nhớ thường bội phấn, rối rít:
“Nhớ quá bối rối ríu rít
Như thác đổ nước như gió xao xuyến”
Nhưng ở Việt Bắc, nỗi nhớ ấy chứa đựng trong lòng một tình yêu cách mạng sâu sắc:
“Nhớ như nhớ người yêu,
Trăng rằm nổi đỉnh núi, nắng chiều lấp lánh rừng thông”
Hình ảnh “cơm nghi ngút khói” mang lại cảm giác an lành, ấm áp. Người lính Tây Tiến được đón tiếp một cách nồng hậu bởi dân bản địa. Cái hơi ấm từ bữa cơm và khói bếp giúp họ quên đi mệt nhọc. Quang Dũng dành một phần trái tim cho Mai Châu, nơi mang lại cho anh cảm giác ấm lòng và hạnh phúc. Không thể quên những khoảnh khắc bên dòng người thân thiện, không gian yên bình của làng quê. Cảm xúc như hòa quyện trong vị ngọt của nếp xôi, trong tình thân ái của quân dân. Không có ai quên được hương vị ấy, nó trở thành cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, đưa nhà thơ trở về với Mai Châu, với những kỷ niệm về thời chiến đấu.
Từ ngôn từ sáng tạo của Quang Dũng như “mùa em” khơi gợi hình ảnh về những cô gái Tây Bắc tươi trẻ, xinh đẹp. Câu thơ mở ra một thế giới lạc quan, tràn đầy sự yêu đời của người lính Tây Tiến. Mọi gian khó bị thay thế bởi cảm giác ấm áp, gắn kết với dân làng. “Thơm nếp xôi” - cụm từ đó khiến ta nhớ đến hương vị đặc trưng của miền núi, cũng như tình thương yêu của mọi người. Câu thơ cuối cùng như một chiếc cầu nối, kết thúc câu chuyện về vẻ đẹp hoang sơ của Tây Bắc, mở ra cảnh vui tươi của các hoạt động văn hóa tại đây.
Đoạn thơ về thiên nhiên và người lính của Quang Dũng thể hiện sự khéo léo trong việc sử dụng bút pháp nghệ thuật. Hình ảnh của thiên nhiên và người lính được mô tả chân thực, đầy đủ mà không kém phần lãng mạn. Quang Dũng đã tạo ra những bức tranh sống động về vẻ đẹp của Tây Bắc và người lính chiến đấu. Bằng cách này, ông đã truyền đạt được sâu sắc cảm xúc và tạo ra những ấn tượng đẹp trong lòng độc giả. Thiên nhiên và con người hiện lên trong nỗi nhớ “chơi vơi” của nhà thơ, với những hình ảnh sống động không bị làm mờ bởi thời gian. Với phong cách lãng mạn và sâu sắc, Quang Dũng đã tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm sáng tạo cho văn học hiện đại.
Trải qua nhiều thập kỷ, bài thơ “Tây Tiến” vẫn giữ được sức hút và ý nghĩa sâu sắc. Nó trở thành một phần không thể thiếu trong văn học Việt Nam, mang lại cho độc giả những trải nghiệm đầy cảm xúc và sâu sắc. Tác phẩm này như một viên ngọc được mài giũa, lấp lánh và hấp dẫn. “Tây Tiến” không chỉ là một bài thơ, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, vượt qua thời gian và gợi lên những kỷ niệm đẹp đẽ về một thời kỳ lịch sử đầy biến động.
Phân tích khổ 1 Tây Tiến cực kỳ xuất sắc - Mẫu 3
Tây Tiến đại diện cho tinh thần sáng tạo nhất của Quang Dũng và là một trong những tác phẩm tuyệt vời nhất về đề tài lính chiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bằng cách kết hợp thông minh giữa hiện thực và cảm xúc, bài thơ đã minh họa chân thực cuộc sống và trận đấu đầy hy sinh và dũng cảm của lính Tây Tiến. Bức tranh về người lính Tây Tiến oai vệ, hùng dũng rõ ràng qua 14 câu thơ đầu tiên.
Viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến chống Pháp của dân và quân ta gặp phải nhiều khó khăn. Bên cạnh những cuộc chiến ở rừng núi hiểm trở, lính Tây Tiến còn phải đối mặt với sự thiếu hụt về vũ khí, thức ăn và y tế. Tuy nhiên, bằng lòng yêu nước mãnh liệt, họ vẫn kiên cường ở lại, sống lạc quan và hoàn thành nhiệm vụ mặc dù có thể phải hy sinh. Quang Dũng đã ghi lại tất cả trong bài thơ, vừa hùng vĩ vừa bi thương.
Sự kết hợp giữa cảm xúc và hiện thực đã tạo ra sức mạnh đặc biệt cho 14 câu đầu của bài thơ, mang lại sự hy sinh và vinh quang của lính Tây Tiến. Cảm xúc chủ đạo trong bài là nỗi nhớ: nhớ đồng đội, nhớ quân binh, nhớ rừng núi miền Tây, nhớ những kỷ niệm của một thời chiến trường… Bốn câu đầu mở ra nỗi nhớ sâu sắc:
“Dòng sông xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi đầy chơi vơi”.
Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã lưu giữ hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “những chiến sĩ anh hùng” trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp khắc nghiệt nhưng đầy vinh quang. Hai câu thơ đầu kể về nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thân yêu.
Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào phai nhạt, nhớ sâu đến đau lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên đầy nồng nàn như tiếng gọi người thân thương. Từ cảm từ “ơi!” nối vần với từ ngữ “chơi vơi” tạo ra âm điệu câu thơ sâu lắng, xao xuyến, vang xa, từ tâm trí lưu luyến vào quãng thời gian rồi rào, lan tỏa trong không gian rộng lớn. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy nỗi nhớ, đồng cảm với điều “nhớ” trong câu thứ hai, thể hiện tâm tư tươi đẹp của lính Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao kỷ niệm về một thời gian gian khó vẫn hiện hữu trong trí nhớ.
Các câu thơ tiếp theo kể về chặng đường hành quân đầy thách thức gay go mà đoàn binh Tây Tiến đã phải trải qua:
“Sài Khao sương phủ đoàn quân mệt mỏi
Mường Lát hoa nở vào đêm tăm tối
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi lửa trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa dầm xa xôi”.
Các tên địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… không chỉ khơi lên những kỷ niệm đầy thương nhớ mà còn tạo ra nhiều ấn tượng về sự hoang sơ, xa xôi, nồng nàn của núi rừng, thung lũng,… Điều này khơi gợi sự tò mò và hứng thú của các chàng trai “Từ thuở cầm kiếm bảo vệ đất nước – Nghìn năm nhớ về quê hương Thăng Long”. Đoàn binh đi qua sương mù giữa núi rừng u ám
Nhiều dốc dựng đứng cao vút, đèo dốc dẹp mạnh mẽ trước mắt là thử thách mà lính Tây Tiến phải vượt qua. Dốc lên như “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống như “thăm thẳm” dẫn đến vực sâu. Các từ như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” mô tả sự gian truân, gian khổ của con đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây, súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mịt mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh trở thành một biểu tượng: “súng ngửi trời” đậm tính thơ, mang vẻ đẹp lãng mạn, đưa ta đến nhiều trải nghiệm thú vị. Đây là khẳng định về quyết tâm và ý chí của lính Tây Tiến vượt qua mọi khó khăn, đánh bại mọi kẻ thù.
Thiên nhiên núi đèo trở thành thách thức cho lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Lên rồi lại xuống, xuống rồi lại lên, đèo liên tiếp, dốc kế tiếp, không ngừng. Câu thơ hình thành một cặp vần nhỏ: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình ảnh thơ đồng đều hài hòa, cảnh vật núi rừng hùng vĩ được mô tả, thể hiện sự hùng tráng của nhà thơ – chiến sĩ.
Cảnh quân đội đi qua mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được xây dựng từ các nhịp thơ liên tục, mô tả sự nhẹ nhàng, tươi mới trong tâm trạng của các lính trẻ, trong những khó khăn vẫn lạc quan và yêu đời. Trong cơn mưa rừng, ánh mắt của lính Tây Tiến vẫn hướng về những ngôi làng, những mái nhà thân thiện và ân cần, nơi mà họ sẽ đến, mang theo sự can đảm và lòng trung kiên để bảo vệ và gìn giữ.
Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ đổ xuống mà còn là tiếng gầm của hổ, báo trong rừng sâu nước độc, nơi đại ngàn hoang dã:
“Chiều chiều oai vực thác gầm gừ
Đêm đêm Mường Hịch báo cọp trêu người”
“Buổi chiều…” sau đó là “đêm đêm” nhưng tiếng ồn ào ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn là minh chứng cho sức mạnh kỳ diệu, sức mạnh vĩ đại vượt thời gian của rừng sâu. Tác phẩm của Quang Dũng lấy cảnh núi rừng miền Tây hiểm trở để làm nổi bật và miêu tả tinh thần anh hùng của quân đội Tây Tiến. Mỗi câu thơ để lại trong lòng người đọc một ấn tượng: sự gian khổ tột độ nhưng cũng là sự can đảm tối đa! Đoàn quân vẫn tiến lên, mạnh mẽ, liên tiếp. Sức mạnh của tự nhiên dường như bị giảm bớt và giá trị con người được nâng cao lên một tầm cao mới. Quang Dũng cũng đề cập đến sự hy sinh của đồng đội trên những con đường gian nan:
“Anh em dũng cảm không rời bước
Ngã lên súng mũ bỏ quên đời…”
Thực tế của cuộc chiến tranh luôn như thế! Sự hi sinh của người lính là điều không thể tránh khỏi. Xương máu rơi xuống để xây dựng bức tranh tự do. Những câu thơ nhấn mạnh vào sự mất mát, hy sinh mà không hề có sự than thở, trách móc.
Hai câu cuối của đoạn thơ, đầy xúc động và lòng trích thảm. Như một lời nhắn gửi từ tâm hồn. Như một bài ca ngân nga của kỷ niệm, vừa buồn bã, vừa tự hào:
“Nhớ em Tây Tiến nồi cơm sương
Mai Châu mùa lúa thơm nếp cơm”
“Ôi nhớ!” tình cảm tràn đầy, đó là lời thầm của các anh hùng Tây Tiến “đoàn quân chẳng mọc tóc”. Câu thơ đậm chất tình quân dân. Hương vị của làng bản với “cơm hương lên khói”, với “mùa em thơm mùi xôi” có từ bao giờ bao giờ quên được? Hai chữ “mùa em” là một đặc sắc trong văn học thi ca, nó chứa đựng biết bao tình thương nhớ, lời thơ trở nên mềm mại, tình yêu trở nên ấm áp. Cũng kể về hương vị xôi, mùi xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên cũng viết trong bài “Tiếng hát con tàu”
“Anh nắm tay em vào cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu trong rừng
Đất Tây Bắc những ngày không biết lịch
Bữa xôi đầu vẫn tràn ngập mùi hương nhớ”
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm hương lên khói”, nhớ “mùi xôi thơm” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình thân, nhớ trái tim cao cả của người dân Tây Bắc yêu quý.
Qua 14 dòng thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất về binh sĩ trong 9 năm đấu tranh chống Pháp. Bức tranh tự nhiên hùng vĩ, với hình ảnh anh hùng quân đội can đảm và lạc quan, sẵn sàng hy sinh với niềm tự hào “Chiến trường đi không tiếc nỗi xanh…” Đoạn thơ này để lại dấu ấn đẹp về thơ ca kháng chiến, kết hợp hài hòa giữa truyền thống sử thi và cảm xúc lãng mạn. Một nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng càng trở nên ý nghĩa hơn.
Phân tích khổ thứ nhất của Tây Tiến - Mẫu 4
Quang Dũng, một nghệ sĩ đa tài, từ thơ, tranh, văn, nhạc đều tài năng, nhưng thành công nhất vẫn là thơ. Ông là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, với một tâm hồn lãng mạn, tài năng, thơ phong phú về âm nhạc, màu sắc, được gọi là nhà thơ của 'Xứ Đoài mây trắng' với những tác phẩm nổi tiếng như: 'Mây trắng', 'Thơ văn Quang Dũng'... Trong số đó, bài thơ 'Tây Tiến' là một ví dụ điển hình. Bài thơ không chỉ là sự nhớ nhớ của Quang Dũng về đội quân Tây Tiến mà còn phác họa rõ ràng cuộc hành quân gian nan của họ và cảnh thiên nhiên hoang sơ, dữ tợn của miền Tây qua những dòng thơ:
'Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi...
Mai Châu mùa em thơm hương xôi'
Bài thơ 'Tây Tiến' ra đời trong một bối cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập vào đầu năm 1947, với nhiệm vụ chính là hỗ trợ bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh phá lực lượng địch. Đa số chiến sĩ Tây Tiến là thanh niên, học sinh, trí thức từ Hà Nội, họ chiến đấu trong những điều kiện khắc nghiệt nhưng vẫn sống lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Quang Dũng, là đại đội trưởng tại đơn vị Tây Tiến, vào cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi tái bản, tác giả đổi tên bài thơ thành 'Tây Tiến'. Bài thơ bắt đầu bằng những dòng thơ đầy nhớ nhung, như lời thốt lên tràn đầy nhớ và nuối tiếc:
'Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi'
Dòng sông Mã như là điểm gợi nhớ để nhà thơ nhớ về đội quân Tây Tiến, với lời gọi ôm ấp ngọt ngào. Nhà thơ đã sử dụng từ láy 'chơi vơi' kết hợp với hiệp vần 'ơi' mở ra một không gian vô hạn của nỗi nhớ, đồng thời diễn đạt một cách tinh tế cảm xúc mơ hồ, khó diễn tả, cứ lâng lâng khó nói trong lòng những người lính ra đi nhưng cảm xúc rất chân thực của một người đồng đội đã xa đơn vị để rồi nỗi nhớ tràn ngập không gian 'Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi'. Câu thơ có bảy từ nhưng lại có hai từ 'nhớ'. Từ 'nhớ' làm nổi bật cảm xúc toàn bài thơ, không phải là ngẫu nhiên mà tiêu đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là 'Nhớ Tây Tiến'. Và nỗi nhớ ấy luôn lưu luyến trên toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, tình yêu thương chân thành mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình, đã trở thành kỉ niệm không thể nào quên. Không chỉ khi đọc 'Tây Tiến' người ta mới cảm nhận được nỗi nhớ mà ngay trong thơ Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã được diễn tả:
'Khắc khoải người đợi, nhớ mong
Như sưởi ấm lửa, như cùng chia sẻ than'
Vậy nhưng đối với Quang Dũng, nỗi nhớ được sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ 'chơi vơi' là trạng thái trơ trọi giữa không gian, không thể bấu víu vào bất cứ điều gì, một mình với những hoài niệm lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể nào quên. Nỗi nhớ ấy bao trùm cả không gian và thời gian, Quang Dũng đã đưa người đọc đến với thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội của miền Tây Bắc, thơ mộng và êm đềm. Đó là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, 'Sài Khao', 'Mường Lát', 'Pha Luông', 'Mường Hịch', 'Mai Châu'. Những địa danh này khi đi vào thơ Quang Dũng không chỉ mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên trong tâm trí người đọc không khí của núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn. Không chỉ thế, những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
'Sài Khao sương che kín đoàn quân mệt mỏi
Mường Lát đêm về sương phủ cả không gian'
Những con đường hành quân gian nan, vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày 'che kín' cả đoàn quân, Quang Dũng sử dụng từ 'mệt mỏi' như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời, tuy vậy họ vẫn tiến về trong 'sương che kín' hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có vậy, Mường Lát đêm về, sương phủ cả không gian. Tác giả không nói 'hoa nở' mà là 'đêm phủ' không nói sương mà là 'đêm hơi' như để nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa của những người lính Hà Thành. Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự nguy hiểm giữa nơi núi cao với nơi vực sâu thăm thẳm:
'Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút mây sương súng gọi nhớ người thân'
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống'
Không gian mở rộng từ đỉnh núi cao đến vực sâu, từ rừng sâu đến thung lũng mênh mông sau màn sương. Những từ ngữ sống động đưa người đọc đi qua những con đường uốn quẹo, những đỉnh núi vút cao khuất vào làn mây. Nhịp điệu 4/3 của câu thơ tạo nên hình ảnh gấp khúc của dãy núi, gợi nhớ hình ảnh những người lính Tây Tiến vượt qua con đường gian khổ.
Nếu ba câu thơ trước đưa ra cảm giác gập ghềnh, thì câu thơ tiếp theo như là phút lặng lẽ giữa không gian bình yên của những ngôi nhà nơi núi non, như cánh buồm trên biển trong màn mưa âm nhẹ nhàng. Đọc câu thơ, ta cảm nhận được hòa bình đặc biệt, có lẽ là để cho người lính thêm sức mạnh đấu tranh với kẻ thù và với thiên nhiên khắc nghiệt.
'Chiều chiều oai linh thác vang tiếng
Đêm đêm con hổ Mường Hịch rình rập người'
Quang Dũng nhớ âm thanh dữ dội của thác, tiếng gầm rền của con hổ rình rập như muốn nuốt chửng người lính mỗi khi chiều buông, đêm xuống. Buổi chiều, đêm tối càng làm nổi bật nét hoang sơ của 'sơn lâm bóng cây già'. Nhà thơ sử dụng từ ngữ và hình ảnh nhân hóa để tạo nên ấn tượng về vùng núi hoang dã, nơi thiên nhiên chiếm vai trò chúa tể.
Chỉ với vài dòng thơ đầu, Quang Dũng đã tái hiện được bức tranh của miền Tây, vừa hiện thực, vừa lãng mạn, và vẫn đầy mạnh mẽ. Nét vẽ gân guốc, mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho thiên nhiên miền Tây hùng vĩ. Đoạn thơ không chỉ gợi lên nhớ nhung về thiên nhiên mà còn về những người lính, đồng đội trên con đường khó khăn, nguy hiểm.
'Heo hút cồn mây, súng tỏa hương vị trời'
Đó là hình ảnh vui tươi, lạc quan giữa khó khăn với vẻ đẹp tinh thần qua cách diễn đạt hóm hỉnh 'súng ngửi trời'. Nếu viết 'súng chạm trời', nhà thơ chỉ mô tả được độ cao của đỉnh dốc, trong khi ở đây, Quang Dũng đã gợi lên 'chất lính' trẻ trung, sự sôi động của người lính Tây Tiến. Hình ảnh 'súng ngửi trời' tinh nghịch, đầy chất thơ, mang lại cảm hứng lãng mạn và khẳng định chí khí quyết tâm của người lính.
'Rất đẹp hình ảnh lúc hoàng hôn
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang leo với gió đèo'
Và trên con đường gian khổ ấy, người lính Tây Tiến, dù lãng mạn, tinh nghịch nhưng không thể quên sự thực rằng đã có những đồng đội:
'Anh bạn mệt mỏi không thể tiếp tục bước nữa
Gục lên súng, bỏ quên cuộc đời'
Khi nói về cuộc chiến tranh khốc liệt đó, tác giả không tránh khỏi thực tế của những mất mát đau thương. Trong cuộc hành quân gian khổ, có những người hy sinh vì kiệt sức, vì mũi súng của kẻ thù. Nhưng Quang Dũng đã diễn đạt cách giảm nhẹ, tránh né về cái chết một cách xót xa, ngạo nghễ 'không bước nữa' để rồi 'bỏ quên đời' như là một sự thản nhiên, bình tĩnh đón nhận cái chết, xem nó như là một điều nhẹ nhàng. Không gợi lên cảm giác bi ai về sự mất mát, thay vào đó là sự kiêu hãnh trong câu thơ 'Gục lên súng mũ bỏ quên đời'. Đó là tư thế chết trong chiến đấu, trong sự kiên cường, hiên ngang.
Sau chặng đường hành quân gian khổ, đoàn quân Tây Tiến đã đến được một bản làng - Mai Châu.
'Nhớ Mai Châu, cơm nấu hơi khói bay
Mùi em thơm nồng xôi gói bên tay'
'Nhớ' là một từ cảm thán thể hiện tình cảm dày dặn, lòng biết ơn của những người lính Tây Tiến. Câu thơ thể hiện mối quan hệ gắn bó, tình đồng đội chặt chẽ giữa họ và những người dân địa phương. Họ dừng chân tại nơi núi non sau những ngày tháng vất vả, tìm được niềm vui và hạnh phúc bên những nồi cơm nóng hổi. Mùi 'xôi' đậm đà của núi rừng Tây Bắc, của tình thương mến sẽ mãi mãi sống trong lòng những người lính Tây Tiến. Như Chế Lan Viên đã viết về tình quân dân trong bài thơ 'Tiếng hát con tàu'.
'Anh nắm tay em cuối chiến dịch
Nắng núi rợp bóng, giấu xôi trong rừng
Tháng ngày bên nhau, chẳng quan trọng lịch
Xôi đầu còn thơm vị hương quê'
Qua đoạn thơ trên, Quang Dũng không chỉ thành công thể hiện nỗi nhớ về thiên nhiên và vùng Tây Bắc hùng vĩ mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi tráng. Sử dụng ngôn từ sắc sảo về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.
Đoạn thơ mở đầu trong bài 'Tây Tiến' dù chỉ là một phần nhỏ của một bài thơ về nỗi nhớ, nhưng đã ghi lại vẻ đẹp đặc biệt của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc và những người lính Tây Tiến. Đồng thời thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người ở đó là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước và tình đồng đội.
Phân tích về Tây Tiến khổ 1 - Mẫu 5
'Tây Tiến' của Quang Dũng có thể xem là một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong loạt thơ về bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã tạo ra một sức sống mạnh mẽ và bền vững trong lòng độc giả nhờ ngòi bút của Quang Dũng, với cảm hứng vừa hiện thực vừa bay bổng khi mô tả hình ảnh của người lính về quê hương và cuộc sống trên chiến trường.
'Tây Tiến' thực chất là những kỷ niệm đầy cảm xúc và tự hào của Quang Dũng về đồng đội của mình trong đoàn binh Tây Tiến, đội quân từ Hà Nội và Hà Tây tiến vào Tây Bắc để giải phóng biên giới Việt-Lào và giúp đỡ Lào giải phóng vùng thượng. Bài thơ tôn vinh sự kiên cường và anh dũng của đoàn binh Tây Tiến trong những tháng năm gian khổ và hào hùng.
Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh, một làng bên bờ sông Đáy. Có lẽ vì vậy mà nỗi nhớ về Tây Tiến bắt đầu bằng kỷ niệm về một dòng sông với cảm xúc sâu lắng.
'Sông Mã đã xa rồi, ơi Tây Tiến ơi!'
Tiếng gọi yêu thương 'Tây Tiến ơi' trở về từ 'Sông Mã xa rồi' với nỗi nhớ thương. Đó là tiếng gọi về một thời khắc đầy nghĩa tình, hy sinh, và gắn bó với quê hương, với những người đồng đội.
Hình tượng sông Mã đại diện cho kỷ niệm về Tây Tiến, thể hiện sức mạnh và vẻ đẹp của đoàn binh. Con sông này trở thành biểu tượng của hy vọng, tự hào và kỷ niệm của Quang Dũng về những người lính Tây Tiến.
14 dòng thơ mở đầu khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến và cuộc hành trình gian khổ của họ. Thiên nhiên và con người hoà quyện, đan xen trong bức tranh sống động về cuộc sống và chiến đấu của họ.
Quang Dũng đã tạo ra trong bức tranh về Tây Tiến một thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa bí ẩn, vừa thơ mộng vừa gian khổ, nổi bật hình ảnh của người lính.
Mô tả về thiên nhiên trong Tây Tiến của Quang Dũng sử dụng ngôn từ giàu hình ảnh, gợi lên hình ảnh đầy ấn tượng về cuộc hành trình đầy gian khổ của đoàn binh.
'Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi '
Hình ảnh của những dốc đứng cao vút như đèo dốc đứng trước mặt đoàn binh Tây Tiến. Những con đường dốc liên tục làm tăng thêm sự vất vả của người lính.
Dốc lên / khúc khuỷu / dốc / thăm thẳm
Đây là một nhịp điệu ít thấy trong câu thơ 7 chữ cổ điển: 2/2/1/2. Ngoài ra, nhà thơ liên tục sử dụng những từ láy gợi hình như 'khúc khuỷu', 'thăm thẳm', cùng với 'heo hút'.
Trong thơ của Quang Dũng, hình ảnh tương phản đóng vai trò quan trọng, giúp nâng cao mức độ biểu cảm. Các khái niệm như 'dốc lên', 'khúc khuỷu', 'thăm thẳm', 'heo hút' trở nên vô nghĩa trong sự thử thách của thiên nhiên, nhưng lại nổi bật cảm xúc kiêu hãnh của người lính.
Quang Dũng đã tạo ra một hình ảnh rất ấn tượng từ sự tương phản này, hình ảnh 'súng ngửi trời', thể hiện sự thực tế và kiêu hãnh của người lính.
Thời đại mang đến cho Quang Dũng cả một tư duy sáng tạo và một sự khám phá về hình tượng thơ. Hình tượng người lính với khẩu súng như đang đứng ở đỉnh cao của thời đại gợi nhớ đến hình ảnh anh hùng vệ quốc trong thơ của Phạm Ngũ Lão:
'Hoành sóc giang san cáp kỉ thu'
'Cảnh nắng chiều rất đẹp,
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không thể che chắn được người vươn tới
Lá rụng reo với gió đèo'
(Trên đường đi Tây Bắc)
Trong thơ của Quang Dũng, thiên nhiên không chỉ được miêu tả một cách sống động mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Một ví dụ rõ ràng là:
'Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống'
Câu thơ này không chỉ thể hiện sự tương phản về địa hình mà còn gợi lên hình ảnh mạnh mẽ của người lính vượt qua những thử thách khó khăn.
'Nhà ai nơi Pha Luông, mưa vẫn từ xa vời'
Một câu thơ ngắn nhưng giàu ý nghĩa, gợi lên vẻ đẹp mênh mông và lãng mạn của cảnh vật xa xôi. Sự tương phản âm điệu trong câu thơ cũng thể hiện sự phong phú của núi non, cùng với sự lãng mạn từ thiên nhiên. Chỉ những người lính giàu tinh thần thơ trong họ mới có thể hiểu được cái đẹp kỳ diệu đó sau khi vượt qua mọi khó khăn.
Nói về thiên nhiên ở Tây Tiến, không thể không nhắc đến vẻ đẹp hùng vĩ của nó, như một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Quang Dũng đã dùng thiên nhiên để diễn đạt về con người. Ông mô tả thiên nhiên không chỉ bằng hình ảnh, âm điệu mà còn bằng cảm xúc lãng mạn, thú vị, khơi dậy lòng can đảm chinh phục của con người. Đó là một cảm hứng chắc chắn đã được ảnh hưởng bởi thơ lãng mạn như 'Nhớ rừng' của Thế Lữ, đặc biệt là câu thơ:
'Chiều rực máu sau rừng xa xôi
Chờ đợi ánh nắng bình minh mạnh mẽ'
Và cũng câu thơ:
'Buổi chiều oai linh, thác gầm thét vang vọng'
Cảm hứng lãng mạn ở Tây Tiến cũng phần nào được ảnh hưởng bởi tinh thần thơ lãng mạn của Lý Bạch, như những câu thơ 'Dốc lên ... ngửi trời' gợi nhớ đến 'Thục Đạo Nan' của ông
'Thục đạo nan, thục đạo hiểm trở
Nan ở nơi vực thẳm'
Đọc câu thơ:
'Đêm về, Mường Hịch, cọp cười trêu ngươi'
Ta lại nhớ đến 'Thục đạo nan' qua câu thơ:
'Rồng lên thăm trường, Hổ giữ bờ rừng'
Con đường Tây Tiến giống như con đường dẫn vào 'Thục' xưa trong câu thơ của Lý Bạch. Quang Dũng cũng đề cập đến sự tương đồng này trong các câu thơ của ông.
Với 14 dòng thơ mở đầu, mặc dù hình ảnh người lính chỉ hiện hữu nhẹ nhàng giữa thiên nhiên qua ống kính zoom của Quang Dũng, nhưng vẫn có những hình dung tuyệt vời về ý chí, nghị lực, và khí phách của đoàn binh Tây Tiến. Hình ảnh người lính ở đây cũng kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, tạo nên sự phong phú đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Đó là hình ảnh người lính hiện ra như một đoàn quân mạnh mẽ và tâm hồn phong phú. Giữa vất vả, họ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng, nhưng cũng biết tận hưởng những khoảnh khắc bình yên của Mường Lát. Nếu cảm nhận câu thơ 'Mường Lát hoa về trong đêm hơi' như một cách diễn đạt về đoàn binh Tây Tiến với những bó đuốc trong đêm, thì sẽ không hiểu được ý tưởng của nhà thơ muốn nhấn mạnh vẻ đẹp tinh tế, sâu lắng - chất thơ trong tâm hồn người lính.
Đó cũng là hình ảnh những người lính vượt qua hàng ngàn dốc dựng, với tất cả khó khăn của họ, nhưng bất ngờ lại xuất hiện ở đỉnh cao của bầu trời với tiếng cười lạc quan, với chi tiết 'súng ngửi trời'. Nghe như tiếng cười rũ sạch mọi mệt mỏi, rũ sạch cả bụi đường chiến trường trên áo lính. Đúng như đã nói, cho đến 'Tây Tiến', chưa từng có nơi nào trong văn học Việt Nam, người lính vệ quốc, anh bộ đội cụ Hồ được đặt ở một vị thế cao như vậy. Đó là hình ảnh người lính vượt qua những đỉnh cao nghìn thước không chỉ là đỉnh cao của thiên nhiên mà còn là đỉnh cao của những khó khăn, thử thách, nhưng tâm hồn vẫn bình an, vẫn mơ mộng khi lòng mở ra vô cùng giữa khung cảnh
'Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi'
Đó cũng là hình ảnh về sự hy sinh im lặng nhưng rất anh hùng của những người lính Tây Tiến trên những đoạn đường hành quân. Đau lòng đặc biệt trong hai chữ 'anh bạn' mà nhà thơ dành cho đồng đội của mình, vì họ là những người bạn đã ngã dài trên con đường. Nhưng Quang Dũng không biến nỗi đau đó thành bi kịch khi viết về sự hy sinh của những người bạn, mà viết về giấc ngủ của họ. 'Anh bạn nằm xuống không đứng dậy nữa - Gục trên súng, mũ bỏ quên đời', nhưng tinh thần của họ vẫn bay lên cùng sông núi . Họ coi cái chết nhẹ nhàng như một giấc ngủ, nhưng sông núi lại biến nỗi nhớ thương và kiêu hãnh của họ thành những thác nước vang vọng, vừa thể hiện nỗi đau vỡ lòng vừa thể hiện ca khúc truyền kỳ của sông núi hát về sự hy sinh của họ.
Thủ pháp tương phản được sử dụng một cách tinh tế để làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn hoành tráng của người lính, để tạo ra hình ảnh những người lính sống giữa một vùng đất hoang sơ đầy bí ẩn, nơi cọp vẫn còn trêu đùa, nhưng tâm hồn họ vẫn tỏa sáng với vẻ đẹp uy nghi trong câu thơ:
'Nhớ về Tây Tiến, khói bát cơm bốc lên'
Mai Châu mùa đông hương nồng xôi '
Bấy nhiêu lãng mạn đã được chứa đựng trong những chữ 'nhớ về Tây Tiến...', 'Mai Châu mùa em ...'. Đó là những từ đã đi sâu vào lòng người lính, vẻ đẹp của miền núi hoang sơ kia, vẻ đẹp đậm chất nhân văn với 'cơm nghiêng lên khói' và 'mùa em thơm bát xôi'. Trái tim người Tây Tiến mãi nhớ 'mùa em', mùa mà người lính Tây Tiến gặp em giữa khung cảnh hạnh phúc của làng quê. Hương của bát xôi cũng từ mùa em mà thơm ngát trong lòng người lính.
Dù 14 dòng thơ mở đầu chủ yếu là vẽ lên bức tranh của thiên nhiên hoang sơ, hiểm trở, nhưng cũng phải thấy Quang Dũng muốn từ đó làm nổi bật hình ảnh của những người lính Tây Tiến với tầm vóc lớn, với ý chí kiên cường, với tâm hồn phơi phới niềm tin, niềm lạc quan đã tạo nên sức mạnh để vượt qua mọi gian khổ hy sinh. Đây là câu thơ có sức sáng tạo độc đáo. Cảm hứng lãng mạn đã làm cho hình ảnh của người lính trở nên sáng sủa. Hình ảnh nghệ thuật không chỉ gần gũi với hiện thực mà còn bay bổng trong tưởng tượng của người đọc nhờ vào chất lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng.
Phân tích bài Tây Tiến - Mẫu 6
Quang Dũng là một nhà thơ lãng mạn và tài năng, ông đã để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu cho văn học Việt Nam, trong đó có Tây Tiến. Quang Dũng sáng tác Tây Tiến vào năm 1948 với cảm hứng chủ yếu là kỷ niệm về đồng đội thân yêu, về binh đoàn Tây Tiến, về cả bản mường và núi rừng Tây Bắc, kỷ niệm về những ngày trận mạc đầy gian khổ và hiểm nguy... Bài thơ cũng ghi lại tinh thần lãng mạn của các thanh niên Việt Nam, luôn sẵn sàng chiến đấu vì độc lập tự do dân tộc.
Hai câu thơ đầu tác giả nói lên sự nhớ nhung, nhớ đến đoàn quân Tây Tiến, nhớ đến núi rừng, nhớ đến dòng sông Mã yêu dấu:
“Đường xa Sông Mã, lòng nhớ Tây Tiến!”
Nhớ về rừng núi, nhớ đến dạt dào.”
Hai từ “xa rồi” gợi lại nỗi nhớ sâu thẳm, không thể phai mờ, đó là nỗi nhớ say đắm. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” tràn ngập tình cảm như lời gọi gần gũi của người thân. Chữ “ơi!” kết hợp với từ “dạt dào” tạo nên âm điệu thơ mộng, đậm chất nghệ thuật, vang xa xa trong tâm trí, xuyên suốt thời gian và không gian. Sau âm thanh ấy, trỗi dậy biết bao kỷ niệm về quãng thời gian gian khổ nhưng cũng tràn đầy hào hứng trong lòng.
Những câu thơ tiếp theo nói lên hành trình đầy gian nan, thử thách mà đoàn quân Tây Tiến đã phải trải qua:
“Sương mờ Sài Khao, bước quân chán chường,
Hoa nở Mường Lát, đêm gió huyền diệu.”
Giữa dòng sương mù dày đặc, giữa tiếng gió đêm kinh hoàng, mặc cho mệt mỏi và gian khó, đoàn quân vẫn tiến về phía trước. Một chút lãng mạn, vẻ đẹp tự nhiên vẫn hiện diện khi dưới bóng đêm, hương thơm của hoa rừng lan tỏa. Trong tiếng súng pháo, tiếng bom vang vọng, và mùi súng đạn, món quà nhỏ bé từ tự nhiên ấy đã được các chiến sĩ chân thành chấp nhận tại vùng đất “Mường Lát” huyền thoại.
“Đường dốc khúc khuỷu, dốc xuống thăm thẳm
Mây che kín cồn, súng ngửi trời
Ngàn thước cao vút, ngàn thước sâu
Nhà ai Pha Luông mưa xa xôi”
Dốc lên thì khúc khuỷu uốn éo, dốc xuống thì thăm thẳm sâu sắc. Các từ như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đều được tác giả khéo léo sử dụng, mô tả rõ những khó khăn, gian khổ trên con đường chiến đấu của binh đoàn Tây Tiến. Trên đỉnh núi phủ sương mù, khẩu súng của các chiến sĩ gần như chạm vào trời. Đây là hình ảnh không chỉ sâu sắc mà còn đậm chất thơ, toát lên vẻ đẹp lãng mạn. Đồng thời, nó cũng là minh chứng cho chí dũng và quyết tâm của người lính.
Hai câu thơ tiếp theo tiếp tục đề cập đến những nguy hiểm tiềm ẩn trên con đường hành quân.
“Buổi chiều oai vệ, thác reo gầm thét
Đêm nay Mường Hịch, cọp vẫn cười khổ.”
Không chỉ là những con đường dốc hiểm trở, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp dữ trong rừng núi hoang sơ, nơi đây núi cao dòng sông chảy, nơi hoang dã và nguy hiểm. Buổi chiều và đêm tối luôn ẩn chứa nguy hiểm, có thể đe dọa mạng sống của các chiến sĩ bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên, đoàn quân Tây Tiến không ngần ngại, tác giả Quang Dũng đã sử dụng phong cảnh miền Tây Bắc để tô điểm cho bức tranh anh hùng, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc: mặc cho gian khổ đến đâu, can đảm vẫn còn nguyên! Đoàn quân vẫn tiến bước, một bước một dấu, vững bước hướng về phía trước.
Quang Dũng cũng đề cập đến sự hy sinh của đồng đội bằng hai câu thơ sau:
“Anh em dũng cảm, không chùn bước
Đánh gục súng, bỏ mũ vĩnh viễn…”
Chiến tranh luôn mang theo những hậu quả đau lòng, sự hi sinh của lính là điều không thể tránh khỏi, họ đã hiến dâng mạng sống để đem lại tự do cho đồng bào. Thơ văn diễn tả về sự mất mát, hy sinh mà không kém phần kiên định và cao thượng, thể hiện lòng dũng cảm, vĩnh cửu và tinh thần chiến đấu kiên cường của các chiến sĩ trong quân đội của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kết thúc phần thơ về Tây Tiến, tác giả Quang Dũng đã thành công vẽ nên hình ảnh những chiến sĩ can đảm, lạc quan, sẵn sàng hy sinh cho tự do của dân tộc. Bằng cách dùng từ ngữ sắc sảo, nghệ thuật, thông qua những bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã giữ vững giá trị của tác phẩm qua các thế hệ.
Phân tích khổ thơ Tây Tiến - Mẫu 7
“Một khoảng trống nào đủ để đo lường nỗi nhớ
Một vực sâu nào đủ lấp đầy tình thương”
Đó là nỗi nhớ thương mà Hoàng Cầm dành cho miền đất của mình, như trong bài thơ “Bên kia sông Đuống”; là tình cảm của những người xa xứ, như trong “Bếp lửa” của Bằng Việt; đôi khi là tâm hồn của các cặp đôi chỉ dám thổn thức qua “hương bưởi” của Phan Thị Thanh Nhàn. Mỗi nghệ sĩ đều để trái tim mình vào ngòi bút để viết về những cảm xúc này. Quang Dũng - nghệ sĩ đa tài, đa nghiệp, cũng để trái tim mình viết về đồng đội qua bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ này nổi bật với 14 dòng thơ đầu tiên, đưa người đọc trở lại với những kí ức của binh đoàn trên những chặng đường gian khổ.
Quang Dũng không chỉ là một nhà thơ mà còn là một người viết văn, họa sĩ, nhạc sĩ,... Thơ của Quang Dũng luôn phản ánh một chất thơ đậm đà, lãng mạn, và tài năng. “Tây Tiến” được sáng tác vào năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh. Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây Tiến vào năm 1947, từng làm đại đội trưởng và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Khi những cảm xúc này trỗi dậy trong lòng, Quang Dũng không thể nào kiềm chế được bản thân mình và đã viết nên bài thơ này - một biểu tượng của tình cảm nhớ thương.
Mỗi trang thơ đều chứa đựng những kỷ niệm sâu sắc của một cuộc sống quân ngũ, bằng những lời gọi đầy ấm áp:
'Tây Tiến xa vời, lòng nhớ vương vấn!
Nhớ về rừng núi, nhớ thời thanh xuân'.
Tất cả cảm xúc hiện hữu trong nỗi nhớ “chơi vơi”, lan tỏa đến từng từ ngữ. Kí ức về thời gian đồng đội chiến đấu trên miền Tây Bắc hùng vĩ, đầy hiểm nguy nhưng cũng đầy lãng mạn, giờ đây trở thành âm thanh gợi nhớ, biến thành những dòng thơ, những lời lòng của người đồng đội. Hình ảnh sông Mã liên kết với nhiều kỷ niệm khó quên, con sông mang hơi thở của núi rừng, của vùng đất đã xa xăm, chỉ còn lại trong ký ức. Từ “xa rồi” là điểm thấp nhất của câu thơ, như khoảng trống khi kỷ niệm chỉ giống như những dải phim trôi qua, đọng lại bao cảm xúc. Nỗi nhớ đầu tiên được nhắc đến chính là nỗi nhớ về vẻ đẹp tự nhiên của Tây Bắc, giữa không gian rộng lớn, mơ mộng, đầy xúc cảm, trí tưởng tượng của nhà thơ không biết phải đặt vào đâu, nên sáng tạo ra cụm từ đầy mới lạ: “nhớ chơi vơi”. Ký ức thật phong phú và kỳ diệu!
'Sài Khao sương phủ đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa rụng trong đêm khói'
Hai dòng thơ đong đầy tình cảm sâu lắng của nhà thơ khơi dậy, lan tỏa và đập rộn trong lòng người. Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát trở thành biểu tượng của quãng thời gian lịch sử. Hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa Sài Khao bị sương mù phủ kín tạo nên ấn tượng sâu sắc. Sự chân thực, sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như cảm nhận được sự khắc nghiệt của những ngày đối mặt với chiến trường, với sự thiếu thốn, khó khăn. Cảnh vật bỗng nhòa đi dưới lớp sương, tạo nên nhiều chiều sâu trong tâm trí người đọc. Không gian Mường Lát trong những cuộc hành quân mịt mù, hoa rụng giữa rừng thơm phức, khiến cho những bước chân giữa đêm tối tưởng chừng nặng nề bỗng nhẹ nhàng hơn. Nhà thơ Tố Hữu mở ra một cảm xúc liên tưởng khác:
'Những đường Việt Bắc gian khổ ơi!
Đêm đêm tiếng súng rền vang bóng rừng
Quân điều hành, bước chân trên đá sỏi
Hồn dân tộc lửa rơi muôn nơi'
Thiên nhiên như đang chờ đợi, hân hoan chào đón những chiến công của người lính. Trái lại, trong thơ Quang Dũng, thiên nhiên lại hiện lên với hình ảnh khác biệt:
'Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.'
Nghe như tiếng bước chân và hơi thở trên con đường gian nan của lính qua câu thơ đầy những vần trắc: 'Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm'. Những dốc như những đường cong gập gềnh được miêu tả bằng từ ngữ hình tượng “khúc khuỷu, thăm thẳm”, khiến người đọc dễ dàng hình dung địa hình đầy gập gềnh. Từ dốc này đến dốc khác, liên tiếp nhau, con đường hành quân phía trước vừa khó đi, vừa nguy hiểm. Không dừng lại ở đó, câu thơ thứ hai mô tả độ cao của những ngọn núi:
'Heo hút cồn mây, súng ngửi trời'
Hình ảnh những lính trên đường hành quân với những khoảnh khắc hài hước, dí dỏm, đậm chất lính. Bước chân đi giữa dòng mây như đang đi giữa bầu trời. Nó khiến ta liên tưởng tới việc súng như cũng như làm vừa đi giữa dòng mây. Cảm giác của người đọc như được dẫn dắt vào một thế giới tưởng tượng, trong đó súng cũng như cảm nhận được bầu trời. Dường như ta đã từng gặp ý tưởng tương tự trong thơ của Chính Hữu: 'Đầu súng trăng treo'
Chưa dừng lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc lại được tái hiện trong câu thơ tiếp theo:
'Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống'
Gian lao vẫn vượt qua, khó khăn càng thêm khích lệ họ đi tới để chinh phục.. Câu thơ sử dụng các cặp từ đối lập để mô tả địa thế hiểm trở của núi rừng nơi đây, khiến người đọc như đang trải qua trò chơi bập bênh chóng mặt. Tuy nhiên, sau tất cả những gian khổ do địa hình hiểm trở, ta vẫn cảm nhận được sự bình yên trong cuộc sống trên những nếp nhà:
'Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi'
Những nếp nhà nằm giữa dòng mưa bụi, mưa nhẹ nhàng, êm đềm. Các chiến sĩ Tây Tiến dừng chân tại đèo cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi sau những chặng đường hành quân vất vả.
Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn kể về hình ảnh người lính dẫn chặng đường hành quân vất vả qua núi cao, vực sâu, mưa sa, sương phủ. Không ít trong số họ đã gục ngã, Quang Dũng không giấu diếm hiện thực đau đớn ấy:
'Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời'
Nhà thơ nói về 'anh bạn' như nói về những đồng chí, đồng đội của mình, kiệt sức mệt mỏi. Từ 'gục' dường như nhẹ nhàng hơn và được cân bằng bằng hình ảnh 'bỏ quên đời'. Cái chết đối với người lính Tây Tiến trở nên nhẹ nhàng và thanh thản. Sự đối chiếu giữa thiên nhiên và con người tôn vinh sức mạnh của con người, dù con người nhỏ bé trước thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm nguy đe dọa từ mọi phía.
Giữa những gập ghềnh, gập gềnh nơi rừng thiêng nước độc, người lính còn đối mặt với nguy hiểm từ thác dữ, thú rừng:
'Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.'
“Chiều chiều” và “đêm đêm” diễn tả khoảng thời gian luôn tuần hoàn như sự đe dọa từ mọi phía, người lính phải chống chọi với thiên nhiên núi rừng khắc nghiệt. Tuy nhiên, giữa nơi rừng thiêng nước, qua ánh nhìn lãng mạn của chiến binh Tây Tiến, vẫn có thể nhìn thấy những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ ùa về Mai Châu xinh đẹp:
'Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi'.
Hình ảnh gắn với tình quân dân bất ngờ hiện về, khiến ta mãi nhớ những bữa cơm thơm nức nở mùi nếp xôi. Trong “Tiếng hát con tàu”, Chế Lan Viên từng viết:
'Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giếm trong rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không lịch trình
Bữa xôi đầu vẫn tỏa mùi hương đọng lại'.
Quang Dũng đã chọn tên địa danh nghe thật êm ái, gợi ra sự bình yên của “Mai Châu”. Nếu không, thay vào đó là “Lai Châu”, có lẽ sự duyên dáng của câu thơ sẽ mất một phần. Ở đây, “mùa em” là mùa con ong lấy mật, mùa con voi xuống sông uống nước, mùa con đi phát rẫy làm ruộng, mùa chúng ta gặp nhau mùa tình yêu, mùa nhớ mãi không quên.
Với những ký ức về binh đoàn Tây Tiến khó phai trong tâm trí, kết hợp với bút pháp hoài niệm tài hoa, Quang Dũng tái hiện chuỗi kỷ niệm về thiên nhiên và con người như những đoạn phim sống động, huyền bí, đầy tình cảm và tài hoa. Đặc điểm của nhà thơ này là bên cạnh hiện thực, Quang Dũng cũng thể hiện góc nhìn lãng mạn của một chàng trai Hà Nội.
Đọc đoạn thơ này, ta thêm hiểu về người lính Tây Tiến, hiểu thêm về sự kiên cường của họ và hiểu sâu hơn về nguồn gốc của sức mạnh mà họ mang vào trận đấu. Cho phép tôi mượn lời thơ của Giang Nam để kết thúc bài viết này, có lẽ lời của Giang Nam sẽ truyền đạt được tấm lòng của biết bao người yêu mến nhà thơ Quang Dũng và bài thơ “Tây Tiến”:
'Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông'
Phân tích về khổ thơ Tây Tiến - Mẫu 8
Tây Tiến được coi là một trong những bài thơ xuất sắc nhất, đặc trưng của Quang Dũng. Là một lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn, rời bỏ quê hương theo tiếng gọi của tổ quốc, sống và chiến đấu trong những cảnh núi rừng gian khổ, nhưng vẫn toát lên bản sắc của một thi sĩ. Tám câu thơ đầu tiên phản ánh mạnh mẽ niềm nhớ về Tây Tiến trỗi dậy trong trái tim của nhà thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”
Đọc đoạn thơ này, ta cảm nhận được sự tri ân chân thành, tấm lòng tha thiết từ tâm hồn của nhà thơ. Bằng cách bắt đầu bài thơ bằng một câu cảm thán, Quang Dũng đã làm nổi bật cảm xúc chính của mình về kỷ niệm về vùng núi Tây Bắc da diết và cồn cào. Thông qua việc nhân hoá nghệ thuật, câu thơ trở nên đẹp mắt và kỳ diệu. “Sông Mã” không chỉ là một con sông đơn thuần, mà nó còn trở thành biểu tượng sống động, một phần của lịch sử đối với cuộc sống của lính Tây Tiến với tất cả niềm vui - nỗi buồn, thành công - thất bại. “Tây Tiến” không chỉ là tên của một đơn vị quân đội, mà còn là một người bạn trung thành, vững vàng để nhà thơ có thể thổ lộ tâm trạng của mình:
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ thứ hai với từ khóa “nhớ” được lặp lại hai lần để diễn đạt sự khao khát, sự đắm say của Quang Dũng trong kỷ niệm. Tính từ “chơi vơi” kết hợp với “nhớ” đã thể hiện được sự đau đớn, nỗi nhớ cháy bỏng trong lòng nhà thơ, như một dòng suối nước mạnh mẽ tràn vào tâm trí, đẩy ông vào trạng thái ảo giác. Hai câu đầu với việc sử dụng từ ngữ tinh tế, hình ảnh sinh động đã mở ra cánh cửa cho bức tranh của những kỷ niệm dâng trào trong tâm hồn nhà thơ.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Quang Dũng đã đề cập đến nhiều địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông... Đó là những vùng đất mà binh đoàn Tây Tiến đã đi qua và dừng chân trên hành trình đầy gian khổ và mệt nhọc. Nói về Tây Bắc, là nói về một vùng đất có địa hình khắc nghiệt, khí hậu khắc nghiệt. Có những đêm dài mà lính Tây Tiến phải hành quân trong sương mù dày đặc, không thể nhìn rõ mặt nhau. Mặc dù “đoàn quân mỏi”, nhưng tinh thần vẫn mạnh mẽ. Bởi ý chí quyết tâm đi vì tổ quốc đã làm cho những người con Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã khéo léo khi mô tả “sương” ở đây để thể hiện rõ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng như việc miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Thiên nhiên luôn gắn bó với người lính Tây Bắc, tạo ra ký ức sâu đậm trong lòng nhà thơ. Tuy đẹp nhưng cũng hiểm trở, đôi khi lính Tây Tiến phải vật lộn để vượt qua đỉnh núi chạm tới bóng mây. Quang Dũng khéo léo sử dụng từ ngữ “thăm thẳm” thay vì “chót vót”, vì 'chót vót' có thể cảm nhận được sự sâu thẳm, nhưng 'thăm thẳm' thì khó có ai có thể hình dung được. Bằng cách gợi lên hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ làm cho người đọc cảm nhận được vẻ hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Nhưng cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi nhà thơ nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời”, cho thấy sự oai phong, lẫm liệt của lính Tây Tiến trong môi trường hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc nhấn mạnh được cảnh quan của núi rừng Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở.
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” mở ra một không gian hùng vĩ nhìn từ trên cao xuống dưới hoặc từ dưới lên trên. Bên cạnh hiểm trở, hoang sơ, ta cũng nhìn thấy vẻ đẹp trữ tình của núi rừng:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Có những trận mưa rừng đột ngột kéo tới, để lại cảm giác lạnh lẽo cho lính Tây Tiến. Dưới nét bút của Quang Dũng, chúng trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ khéo léo, sáng tạo khi diễn đạt về mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Điều đó gợi lên sự bí ẩn, hoang dã giữa vùng núi rừng. Câu thơ cuối mở ra bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng tràn đầy lãng mạn. 8 dòng thơ đầu tiên của “Tây Tiến” là hồi ức về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến, nhưng thông qua việc miêu tả chi tiết về thiên nhiên nơi núi rừng Tây Bắc, nó trở thành những kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là sự nhớ mãnh liệt của lính Tây Tiến và tất cả những người lính khác.
Bài thơ “Tây Tiến” dưới bút lãng mạn và trữ tình của Quang Dũng đã trở thành kiệt tác bất hủ. Cảm hứng chính trong bài thơ là cảm giác nhớ. Quang Dũng đã diễn đạt cảm giác này qua bút pháp giàu nhạc, họa và thơ. Bài thơ là một khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Do đó, Xuân Diệu rất chính xác khi nói rằng đọc bài thơ “Tây Tiến” như nghe nhạc trong miệng. Bài thơ hay vì nó được sáng tác từ trái tim lãng mạn, giàu cảm xúc và của một người lính Tây Tiến, tạo ra một cái gì đó rất đặc biệt và đẹp đẽ.
“Tây Tiến” là một kiệt tác được tạo ra từ tâm hồn, tài hoa, lãng mạn của người lính trí thức tiểu tư sản Quang Dũng. Bài thơ như một bức tượng đài bất tử đã ghi lại trong văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước vô danh. Đây là một trong những tác phẩm nghệ thuật quan trọng nhất của Quang Dũng khi mô tả về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã.
..................
Tải file để đọc thêm về phân tích đoạn 1 của bài thơ Tây Tiến