Công Việc Vớ Vẩn - làm việc vô ích, một hiện tượng đã gắn bó sâu trong ý thức và đạo đức của con người. Khi hầu hết mọi người cảm thấy công việc của họ là không có ý nghĩa, nhưng lại tin rằng điều này là bình thường, thậm chí là đáng khao khát. Vậy điều gì khiến mọi người hiện nay không nhìn nhận một cách nghiêm túc về vấn đề này? Dưới cái nhìn của một giáo sư ngành nhân chủng học, một nhà hoạt động chính trị và một nhà báo, David Graeber giúp độc giả nhận biết rõ hơn về sự tồn tại và tác hại của nó đối với xã hội ở mọi góc độ. Có thể nói, qua cuốn sách này, tác giả đã mở ra một cánh cửa để độc giả có cơ hội thảo luận, lắng nghe về vấn đề này một cách toàn diện, từ đó cảm nhận nhẹ nhàng hơn trong tâm hồn.
Tổng Quan Về Cuốn Sách
Cuốn sách này là kết quả của một nghiên cứu kỹ lưỡng, được phát triển và phân tích từ bài luận mà Graeber viết cho tạp chí Strike vào năm 2013: “Về Hiện Tượng Công Việc Vô Ích”. Bài viết đã lan truyền rộng rãi. Đã được dịch ra 12 ngôn ngữ trên toàn thế giới và trang web của Strike, nơi bài viết được đăng, luôn gặp vấn đề về tải trọng do số lượng truy cập quá lớn. Các blog phát triển mạnh mẽ, bình luận sôi nổi về vấn đề này, những chia sẻ từ những người trải nghiệm, hay những lời chia sẻ, đề xuất... Tất cả như một ngọn lửa lan tỏa. Bài viết thực sự là một yếu tố kích thích hiệu quả, giúp mọi người nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc và tìm ra hướng đi mới: từ bỏ công việc vô ích hiện tại, đi tìm điều gì có ý nghĩa hơn. Công Việc Vớ Vẩn chỉ ra sự tồn tại và hậu quả tiêu cực cho xã hội của những công việc vô ích, những “nghề thừa” xung quanh chúng ta.
Tác giả tiếp cận vấn đề từ những bước đầu tiên của việc đánh giá một hiện tượng. Khái niệm về công việc vô ích được định nghĩa không chỉ là một cách tổng quát mà còn là kết quả của việc phân tích sâu sắc về các khía cạnh của hiện tượng này trong xã hội, nhằm tạo ra một định nghĩa chính xác nhất. Tác giả cũng giới thiệu những nỗ lực thú vị của mình trong việc phân loại các loại công việc vô ích. Để tránh gây hiểu nhầm trong việc tiếp cận các khái niệm, tác giả đưa ra ví dụ cụ thể để giải quyết mọi băn khoăn của độc giả. Sau khi đã có một khung nhìn cụ thể về công việc vô ích, tác giả khám phá sâu hơn về những ảnh hưởng đạo đức và tâm lý khi người ta bị mắc kẹt trong công việc vô ích. Tác động của nó đối với cuộc sống, cảm xúc, động lực làm việc của con người như thế nào. Hay nó tạo ra những hậu quả gì khi mọi người chấp nhận sống chung với nó dù biết rằng đó là “nguồn gốc của bất hạnh”. Với kết luận ban đầu mà tác giả đưa ra “rằng chúng tạo ra những thiệt hại đáng kể về mặt đạo đức và tinh thần, tạo ra vết thương trong tâm hồn con người”, vì thế ở Chương 4, các nghiên cứu về cảm xúc của con người khi bị ép buộc phải giả vờ làm.
Bullshit Jobs - Công việc vô nghĩa là gì?
Thường khi nói đến bullshit, chúng ta thường nghĩ đến những điều vô dụng, không có tác dụng, không mang ý nghĩa gì trong cuộc sống. Vậy nên khi nghe về Công Việc Vớ Vẩn, tôi nghĩ rằng, những người làm công việc này được lợi ích gì chứ. Không có ai lại trả lương cho những người làm công việc này cả. Nhưng điều mà cuốn sách của Graeber cho thấy là một hiện tượng hoàn toàn ngược lại. Những người làm các công việc này được thuê một cách đầy đủ và được trả lương đầy đủ, thậm chí còn có điều kiện làm việc tốt.
Hơn nữa, những người làm công việc này hoàn toàn nhận ra sự vô ích theo nghĩa đen của nó và họ không thể thuyết phục bản thân rằng có một lý do chính đáng nào đó để làm việc như vậy. Và nếu vào một ngày nào đó, những người làm công việc này biến mất đột ngột thì cũng không gây ra sự khác biệt gì cho thế giới hoặc người ta thậm chí còn không để ý rằng họ đã biến mất. Ví dụ về viên chức Tây Ban Nha nghỉ làm trong sáu năm để nghiên cứu lý thuyết Spinoza mà tác giả đã trích dẫn. Ông ta nhận lương đầy đủ suốt 6 năm mà không cần phải đến văn phòng làm việc mà chỉ tập trung vào nghiên cứu tác phẩm của Spinoza.
Công việc vô ích là một dạng của công việc được trả lương, và nó hoàn toàn vô ích, không cần thiết hoặc có hại mà người làm việc cũng không thể bào chữa được sự tồn tại của nó, mặc dù họ có cảm giác bị ép buộc phải giả vờ rằng nó không phải là vô ích, như một phần của điều kiện làm việc.
Sự hiểu lầm giữa công việc vô ích và công việc tồi tệ được giải thích một cách chi tiết và rõ ràng. Chúng là hai dạng công việc khác nhau, thực ra chúng còn đối nghịch nhau. Công việc vô ích thì thật sự là được trả lương khá hậu hĩ và có điều kiện làm việc rất tốt, chỉ là chúng không có ý nghĩa. Công việc tồi tệ thì thường là những công việc cần phải làm để phục vụ lợi ích xã hội, chỉ là những người làm công việc này bị đối xử và trả công rất kém.
Nhìn vào công việc dọn dẹp thông thường, mặc dù không có cảm giác làm người ta mất phẩm giá, và ngày nay có thể gần như chắc chắn rằng họ được tôn trọng, nhưng chúng vẫn có thể dễ dàng trở nên như vậy. Dù vậy thì ít nhất, những người làm công việc này cảm thấy tự hào, bởi vì những tòa nhà, con đường cần được dọn dẹp và nếu không có họ thì thành phố sẽ ngập trong rác.
Công việc tồi tệ thường thuộc về giới cổ cồn xanh và trả công theo giờ, trong khi công việc vô ích thường là giới cổ cồn trắng và trả lương theo tháng. Những người làm công việc vô ích thường được vây quanh bởi sự phô trương, được tôn trọng, được trả lương cao và được xem là người thành đạt, chỉ là họ hiểu rõ rằng mình không làm gì có ích mà thôi.
Ngược lại, công việc vô ích luôn khiến chúng ta nghĩ ngay đến khu vực công. Nơi thường được coi là máy móc hành chính nặng nề, to lớn với các chức danh không cần thiết. Ký ức từ các quốc gia như Liên Xô cũ cũng giúp hiểu rõ vấn đề này. Khi chính sách đảm bảo mỗi người đều có việc làm và do đó mọi người đã tạo ra một loạt công việc, dù cần thiết hay không. Đáng chú ý, những công việc vớ vẩn không chỉ tồn tại trong các cơ quan chính phủ, mà trong các nền kinh tế tư bản, nơi tính hiệu quả được đặt lên hàng đầu, cũng không kém phần vô ích trong việc làm. Với mọi cấp bậc quản lý, hành chính sinh ra theo cấp số nhân, đối nghịch với sự giảm bớt người lao động trực tiếp tạo ra sản phẩm, sửa chữa, duy trì mọi thứ.
Có những loại công việc vô ích nào?
Tác giả đưa ra năm loại công việc vô ích cơ bản và mô tả các đặc điểm cơ bản của từng loại.
Nhóm làm nền là những công việc chủ yếu để làm cho người khác cảm thấy họ quan trọng. Nghĩ đến các quan lại giàu có và quyền lực thời xưa, vây quanh bởi những người hầu hạ, người phục vụ, kẻ tôn sùng, và tín đồ. Họ vây quanh người giàu để tạo ấn tượng. Vậy thì trong thế giới hiện đại, điều tương tự là gì? Nhân viên gác thang máy mặc đồng phục và chỉ việc nhấn nút chọn tầng như ở Brazil là một ví dụ. Tiến xa hơn nhưng vẫn thuộc loại công việc này là nhân viên tiếp tân và quầy lễ tân.
“Vị trí của tôi trong công ty này hoàn toàn không cần thiết và không phục vụ mục đích nào khác ngoài việc làm cho sếp tôi trông nổi bật hơn và cảm thấy như một người thành đạt.” Jack nói.
Nhóm tay sai là những người làm công việc thu hút, nhưng chủ yếu chỉ để phục vụ cho người khác. Tác giả lấy ví dụ từ quân đội, các chuyên gia truyền thông PR, luật sư doanh nghiệp, nhân viên tiếp thị... sẽ khiến nhiều người tự hỏi liệu những công việc này có thực sự ý nghĩa hay không. Lý do tác giả đưa ra là vì chính họ đã thừa nhận rằng họ không có giá trị đối với xã hội và cảm thấy bất hạnh. Họ làm việc với sự hấp dẫn và lừa dối người khác để thực hiện những công việc không tuân thủ đạo luật.
Nhóm sắp xếp là những cá nhân đam mê giải quyết vấn đề không nên tồn tại, dành thời gian cho việc làm hòa hợp với sự không phù hợp. Ví dụ, việc dọn dẹp có thể trở nên khá khó chịu khi chỉ cần làm vệ sinh thông thường, nhưng khi phải dọn dẹp sau một sự cố không cần thiết, điều đó thực sự khiến người ta không hài lòng. Tuy nhiên, việc tạo ra công việc và thuê người chỉ để làm điều này chỉ làm tăng thêm sự oán giận.
Nhóm tổ chức là những cá nhân tồn tại chỉ để tổ chức có thể tuyên bố họ đang làm việc, trong khi thực sự làm không gì cả. Thực tế, nhân viên trong nhóm này thường nhận ra công việc của họ không chỉ không hướng đến mục tiêu bên ngoài mà còn làm tổn hại đến mục tiêu đó. Ví dụ, khi có việc trộm cắp xảy ra, thay vì xử lý vấn đề, họ lại lập ra một 'Ủy ban Tìm kiếm Sự Thật' để điều tra. Tuy nhiên, thực tế họ có thực hiện công việc hay không là một dấu hỏi lớn.
Nhóm sáng tạo thường tạo ra những công việc không cần thiết, không mang lại giá trị cho cấp dưới. Điều này làm cho việc đoán được ý đồ của họ trở nên khó khăn. Họ thường không muốn thừa nhận rằng công việc của họ là vô nghĩa và chỉ hy vọng vào những người muốn thanh thản lương tâm để tiết lộ.
Năm loại công việc này chỉ là một phần nhỏ của vấn đề lớn hơn trong xã hội hiện nay. Người tạo ra phong trào và người tiếp dân cũng thường làm những công việc vô ích. Liệu có một công việc không giá trị nào tồn tại mà chúng ta chưa biết? Câu trả lời phụ thuộc vào quan điểm cá nhân và thực tế khách quan. Tuy nhiên, trong một tình huống mà 30 người cùng làm một công việc giống nhau, ít nhất một người sẽ cảm thấy công việc của họ không vô nghĩa.
Công việc vô ích là nguyên nhân gốc rễ của sự bất hạnh.
Việc tìm hiểu ảnh hưởng của công việc vô ích đối với đạo đức và tâm lý của những người bị kẹt trong đó là một vấn đề cần được giải quyết. Tại sao một công việc không mang lại giá trị lại gây ra nhiều khó khăn như vậy?
Có thể tưởng tượng rằng những người được trả tiền để không làm gì là may mắn. (Thỉnh thoảng vẫn có người nói rằng họ không thể tin vào vận may của mình khi nhận được công việc như vậy. Nhưng cực kì ít). Nhiều người còn bối rối trước phản ứng của chính họ vì không hiểu tại sao việc “được trả lương để không làm gì” lại khiến mình thấy vô giá trị và chán nản. Và vì không có được lời giải thích rõ ràng cho cảm xúc của mình nên họ lại càng khổ sở.
Theo tác giả, một hiện tượng gọi là “bối rối về đạo đức” đưa ra vấn đề rằng một mặt, mọi người được khuyến khích để giả định con người luôn có xu hướng tìm cho mình một tình huống mà họ có thể nhận được lợi ích cao nhất mà ít tốn thời gian và công sức. Mặt khác, chúng ta lại có xu hướng mâu thuẫn với các giả định này. Cách mọi người hành động và phản ứng trước các tình huống thường không đúng với xác dự báo dựa trên lý thuyết về bản chất con người. Kết luận hợp lý duy nhất là lý thuyết này đã sai đối với một số bản chất quan trọng của con người.
Vậy khi những người trẻ mới ra trường, họ bắt đầu trên con đường tìm kiếm việc làm thì liệu sau khi đã trải qua những công việc nhảm nhí này, họ sẽ học được những điều gì?
1.Cách làm việc dưới sự giám sát trực tiếp của người khác;
2.Cách giả vờ làm việc ngày cả khi không có gì để làm;
3. Người ta không được trả tiền để làm những việc họ thực sự thích, dù việc đó hữu ích hoặc quan trọng đi chăng nữa;
Người ta được trả tiền để làm những việc vô ích và không quan trọng, mà họ cũng chẳng thích;
Ít nhất là đối với các công việc cần tiếp xúc với công chúng, ngay cả khi người ta được trả tiền để làm các nhiệm vụ mà họ không thích thì học cũng phải giả vờ là thích.
Động lực làm việc của con người để duy trì những công việc nhảm nhí này được xem xét đánh giá dựa trên bản chất của con người. Con người chắc chắn có xu hướng bị giày vò và cảm thấy căm ghét những công việc mà họ cho là mất phẩm giá. Cảm giác sống không có mục đích khiến cho bản thân họ không tìm ta được động lực để theo đuổi hay duy trì một điều gì. Chính vì thế, có lẽ vấn đề một người bị kẹt trong tình huống họ nghĩ mình được tuyển vào để làm một công việc có ích, nhưng sau đó nhận ra công việc của mình rõ ràng là vô nghĩa và phải giả vờ là mình đang làm việc hữu ích, thì rốt cuộc họ sẽ bị những tổn thương tâm lý nghiêm trọng sẽ hiểu được tại sao. Nó không chỉ là một cú đánh vào sự cảm nhận về tầm quan trọng của bản thân, mà còn là sự tấn công trực tiếp vào chính nền tảng của sự cảm nhận về cái tôi. Một con người không thể tạo ra một tác động có ý nghĩa đối với thế giới sẽ không thể tồn tại.
Cảm giác khi làm công việc vô nghĩa
Chương này, tác giả tập trung đi sâu vào khía cạnh cảm xúc của những người phải làm một công việc vô nghĩa. Bị buộc phải giả vờ làm việc là điều khiến mọi người vô cùng bức xúc vì nó cho thấy bạn hoàn toàn phụ thuộc vào quyền lực của một người khác. Làm việc hoặc giả vờ làm việc không phải vì bất kỳ lý do chính đáng nào, mà chỉ vì làm cho có làm việc, nên không có gì ngạc nhiên khi nó khiến người lao động bị tổn thương.
Một điều nữa, sự mơ hồ trong việc xác định nguyên nhân ép chúng ta giả vờ làm việc, khiến cho chúng ta bực tức, phẫn nộ cũng chỉ đang làm thêm khổ sở, mà không biết do đâu. Có một cái gì đó khủng khiếp, lố bịch, kỳ quặc đang diễn ra, nhưng thậm chí còn không hiểu rõ mình có được phép thừa nhận chuyện đó hay không, và thường thì chúng ta càng không rõ ai hay cái gì phải nhận trách nhiệm.
Cảm giác thất vọng kinh khủng của những nhân viên khi việc học hành, rèn luyện hay nỗ lực để được làm việc thì lại không phải làm gì khi vào môi trường thực. Đối với một số người, sự vô nghĩa của công việc còn làm tăng thêm nỗi chán nản, và đối với người khác thì làm trầm trọng thêm nỗi lo lắng. Sự lặp đi lặp lại vô nghĩa trong công việc, cộng thêm quá trình kéo dài, dần hình thành các triệu chứng lo âu căng thẳng. Những câu hỏi như mình đang làm công việc này vì điều gì? Nó đem lại lợi ích gì cho bản thân hay cho cộng đồng?...
Căng thẳng thần kinh là một chủ đề nữa cần nhắc tới là hậu quả của Bullshit Jobs. Những hành vi bạo hành tinh thần kiểu như này dần quá quen thuộc với những người từng làm việc trong môi trường văn phòng. Như vị sếp luôn nhắc mãi về một lỗi mà ai cũng biết là nó đã được khắc phục hoàn toàn từ lâu rồi ấy thì điều thực sự mà ông sếp muốn nói là gì? Sự vô nghĩa trong việc này chỉ đơn thuần là nâng cao quyền lực của vị sếp và sức ép tinh thần cho nhân viên mà thôi.
Những căn bệnh liên quan đến căng thẳng thần kinh dường như là hậu quả do người lao động phải làm việc những công việc vô nghĩa. Họ bị trầm cảm, lo âu, kết hợp với đủ loại triệu chứng khác về thể chất.
Sự bùng phát của công việc vô nghĩa
Tác giả đưa ra những lý do đủ sức thuyết phục để người đọc tin rằng, những năm gần đây và càng về sau, tổng số công việc vô nghĩa, tỷ lệ các công việc được chính những người làm nó coi là nhảm nhí đã và sẽ tăng lên nhanh chóng, mức độ nhảm nhí cũng gia tăng đáng kể.
Những số liệu gia tăng, và mức độ hình thành các việc làm trong các ngành từ nông nghiệp sản xuất, dịch vụ với đủ các chức danh khác nhau, đôi lúc sẽ khiến chúng ta tự hỏi, những chức danh được ra đời nhằm mục đích gì. Cơ cấu việc làm ở những quốc gia sản xuất và được chọn là công xưởng sản xuất cho thế giới, nơi mà chúng ta nghĩ sẽ tập trung nhiều việc làm nhất thì các biểu đồ thống kế sẽ cho thấy điều ngược lại. Vậy thì không biết, số lượng công việc gia tăng đáng kể hiện nay là ở đâu?
Lĩnh vực quản lý hành chính tại Hoa Kỳ đã trở nên ngày càng tăng cường với số lượng nhân viên hành chính tăng vọt từ năm 2005. Các ngành bảo hiểm, tài chính và bất động sản, mặc dù thường được xem là cần phải làm việc để tạo ra giá trị cho nền kinh tế hoặc dự báo tình hình tài chính quốc gia, nhưng thực tế, số lượng việc làm trong những lĩnh vực này đang tăng mạnh.
Các loại công việc vô nghĩa đã tồn tại từ lâu, nhưng trong những năm gần đây, chúng đã trở nên phổ biến hơn đi kèm với sự gia tăng của các công việc được coi là nhảm nhí trong xã hội chủ nghĩa tư bản. Việc này thực sự làm đảo lộn sự logic của chủ nghĩa tư bản hoặc có thể cho thấy rằng thế giới vẫn chưa đạt đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản như Các Mác đã mô tả. Ngành tài chính và dịch vụ cũng là những lĩnh vực mà sự ảnh hưởng của các công việc vô nghĩa đang trở nên rõ ràng đối với tình hình việc làm hiện nay.
Cuối cùng, David Graeber sẽ phân tích những tác động văn hóa và chính trị của các ngành nghề này. Ông sẽ cung cấp một cái nhìn tổng thể về giá trị xã hội và tiền lương cũng như quan hệ giữa chủ nghĩa tư bản và mối quan hệ lao động. Ông sẽ làm rõ những yếu tố nào đang ảnh hưởng đến việc làm và xã hội đang tạo ra môi trường nào để phát triển các công việc vô nghĩa.
Giải pháp cho vấn đề này
Tác giả đề cập đến mô hình Thu nhập Cơ bản như một giải pháp tiềm năng cho tình hình việc làm hiện nay. Phong trào này đề xuất thay thế tất cả các phúc lợi xã hội bằng một khoản tiền cố định, bằng nhau, trả cho mọi công dân. Thu nhập cơ bản có thể giúp cân bằng tiền lương giữa nam và nữ, giữa người già và trẻ, giữa các tầng lớp xã hội, làm tan biến sự khác biệt giữa các công việc và con người.
Khoản tiền này không yêu cầu người nhận phải đáp ứng bất kỳ tiêu chuẩn nào, mà sẽ được trả cho tất cả mọi người một cách công bằng, giúp nó trở thành một quyền lợi cơ bản của con người mà không phải là một sự từ thiện.
Đề xuất của Thu nhập Cơ bản là giảm bớt sự phụ thuộc vào công việc. Hiệu quả ngay lập tức sẽ làm giảm đáng kể số lượng các công việc quan liêu trong mọi quốc gia triển khai. Cấu trúc quản lý lớn mạnh, được bao quanh bởi các tổ chức phi chính phủ, chỉ làm tăng thêm cảm giác tồi tệ cho người nghèo khi họ phải nhận sự chăm sóc từ Chính phủ. Đồng thời, hệ thống này cũng trở nên rộng lớn hơn với mọi chức vụ để 'phục vụ' người dân.
Nếu Thu nhập Cơ bản được áp dụng theo đánh giá của Graeber và những người theo đuổi sự thật trong cuốn sách, những bộ phận không cần thiết và lãng phí của hệ thống quản lý sẽ bị loại bỏ ngay lập tức. Điều này giúp mọi người tự do lựa chọn công việc dựa trên ý nghĩa, đam mê hay sự giàu có mà không cần phải lo lắng về sinh kế.
Và cuối cùng, điều tác giả muốn nhấn mạnh không phải là vấn đề xã hội, tác động của nó và giải pháp cụ thể, mà chính là thúc đẩy mọi người suy nghĩ và tranh luận về một xã hội tự do thực sự, không chỉ là sự tự do trừu tượng mà chúng ta đang trải nghiệm.
Phần Kết
Cuốn sách của Graeber đã nắm bắt cảm nhận của đa số người đọc trên thế giới. Tác giả đã mạnh mẽ nêu bật vấn đề mà những người bị kẹt trong công việc nhảm nhí đang phải đối mặt mà họ thường không dám thú nhận. Nỗ lực nghiên cứu của ông không chỉ mang lại sự thấu hiểu mà còn khiến cho chúng ta nhận ra một hiện tượng đầy tiềm ẩn trong xã hội hiện đại. Và ẩn sau đó là sự đau khổ vì chúng ta đã mắc phải nhiều sai lầm và đã phí phạm rất nhiều thời gian cho chúng.
Đánh giá bởi: Hoàng Thủy