Tuổi học trò, ai cũng có kỷ niệm. Và những kỷ niệm đó càng đáng nhớ hơn khi chúng ta trải qua trong bối cảnh chiến tranh đầy khốc liệt. Dù khó khăn, gian khổ, nhưng trong cuốn sách Mái Trường Xưa của nhà văn Viết Linh, tình bạn và niềm tin vẫn rực sáng trong cuộc sống.
Một chút về tác giả
Nhà văn Viết Linh, hay còn gọi là Nghiêm Siêu, sinh năm 1932, tại Hà Tây cũ. Trong sự nghiệp văn học của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm dành cho trẻ em. Trong Mái Trường Xưa, ông viết về những kỷ niệm thời thơ ấu và tuổi học trò giữa những ngày chiến tranh, qua lời kể của nhân vật “tôi”.
Những ký ức khó quên
Hà Nội vào những ngày cuối năm, dù là dương lịch, vẫn tấp nập nhộn nhịp, nhưng từ khi bọn Pháp đến chiếm đóng, không khí đã thay đổi hoàn toàn. Những chiếc xe tăng di chuyển vội vàng, những binh sĩ Pháp say rượu la hét trên đường phố. Các tay súng bám sát trong những ổ phòng thủ. Thành phố đang phải sơ tán.
Về quê, tôi bất ngờ: không ai ở nhà. Gia đình tôi mắc kẹt ở Hà Nội, sống chết không biết. Nếu không có anh bộ đội về đóng cửa, có lẽ tôi sẽ ở lại quê. Suốt ngày, tôi gắn bó với anh Minh, một sinh viên đại học khoa học năm ba. Tôi quen anh từ khi anh thường ghé nhà tôi ăn cơm. Nhà tôi ở một xóm nhỏ, nơi có nhiều thợ thuyền và một số công nhân. Anh Minh, mặc dù là sinh viên, nhưng được mọi người trong xóm mến mộ. Thỉnh thoảng, anh giúp tôi hiểu sách vở. Tính cách dễ thương của anh khiến mọi người đều thích.
- Anh tin rằng gia đình em đã rời khỏi Hà Nội, chỉ còn chưa trở về thôi.
Tôi nghĩ anh nói vậy để an ủi tôi.
Một ngày, anh nói:
- Em cũng phải học chứ, không thể mãi như vậy được đâu.
Tôi chỉ cười nhẹ:
- Trong thời chiến, đánh nhau, còn học hành gì nữa chứ?
- Ôi chết! – Anh Minh cười. – Đánh nhau đúng là đánh, học hành đúng là học, chỉ có như vậy mới có thể kháng chiến lâu dài. Và trường học sẽ mở cửa thôi!
Nhờ sự khuyên bảo và giúp đỡ của anh Minh, cậu đã được đi học tại một ngôi trường trung học. Mặc dù ngôi trường này mới chỉ mở cửa được vài tháng và khi cậu đến thì học kỳ I đã gần kết thúc. Có lớp học tại chùa, đình, và cả lớp học tạm tại nhà. Dù không có sự kiện khai giảng hoành tráng hay cây bàng đỏ rực rỡ, nhưng cậu vẫn nỗ lực chép bài, học hành đuổi kịp chương trình, và lo lắng về bệnh sốt rét tái phát và tình trạng điếc sau mỗi cơn sốt. Trong ngôi trường này, cậu đã gặp nhiều thầy cô giáo tận tâm và giỏi như thầy Kì dạy toán và thầy Canh dạy văn.
Trong giai đoạn khó khăn đó, việc nhiều học sinh không có đủ sách giáo khoa để học là điều hết sức bình thường, thậm chí còn không đủ thức ăn. Điều này dẫn đến nhiều tình huống hài hước khi học sinh phải tự chép sai kiến thức.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, do thiếu giáo viên nên nhiều thầy cô phải dạy kiêm nhiệm nhiều môn hơn. Mặc dù biết điều này nhưng tôi vẫn ngạc nhiên khi thấy vào giờ giảng văn, thầy Kì bước vào. Thầy gọi đúng tên học sinh và dạy với phong cách lôi cuốn và nhiệt tình.
- “Trái tim nào cũng có thể bị tổn thương.”
Cả lớp vui vẻ cười to. Dường như Luy không quan tâm, vẫn tự nhiên nói:
- Thưa thầy, câu này thể hiện tâm trạng của nhà thơ trước cảnh binh sĩ kháng chiến bị thương, những người anh hùng hiến máu ai cũng xót xa lòng!
- “Bi” thương chứ không phải “bị”… Bi… ý bi đấy! – Tiếng cười nhỏ vang lên.
- Trò mang vở soạn lên đây! – Thầy Kì gọi, sau đó mỉm cười nhẹ. – Từ thời của bà Đoàn Thị Điểm và ông Đặng Trần Côn, trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” đã sử dụng cụm từ “bị thương” rồi phải không?
Nhận lấy vở của Luy, thầy gật đầu và nói:
- Ừ, bài viết được soạn kỹ lưỡng, nhưng tại sao lại mắc lỗi như vậy!
Cả lớp reo hò như muốn bảo vệ Luy:
- Thưa thầy, vì không có sách giáo khoa ạ!
Vấn đề thiếu sách giáo khoa đã gây ra nhiều phiền toái. Thông thường, giáo trình mà các thầy soạn ra được chuyển tay từng người hoặc được đọc lên cho toàn bộ lớp. Trong môn toán, lí, hóa... chỉ cần sai một dấu trừ hoặc một dấu cộng cũng đủ làm cho việc học trở nên mệt mỏi. “Trừ ba” có thể thành “âm ba… thoáng rung cánh đào rơi”. Chúng tôi sợ nhất là những câu đề như vậy, vui thì có vui, nhưng thường không đúng công thức. Ác-si-mét có thể bị đọc sai thành Ác-mê-sít. Tuy vậy, vẫn có cậu học sinh tin rằng trong khoa vật lí, có thể có một ông Ác-mê-sít thật sự, có thể là họ hàng của ông Ác-si-mét.
Sau những tiết học, các học sinh lại ra sân chơi, thường không để đá bóng mà chủ yếu là để hò hét. Đôi khi, sự hò hét quyết liệt đó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giành chiến thắng trong những trận đấu không có trọng tài.
“Nghề mới” của các học sinh
Ngày đầu năm học mới, các học sinh mới phát hiện ra rằng Châu không còn ở lớp nữa. Theo Luy, đúng ngày Châu lên đường nhập ngũ, cậu ta đã được mọi người đưa tiễn. Từ đó, trong lớp thiếu mất một thành viên.
Năm nay, cả lớp lại tổ chức buổi bích báo như mọi năm, theo truyền thống mỗi khi khai giảng. Trong lớp, việc trình bày bích báo không ai giỏi bằng Luy. Tuy nhiên, giữa lúc đó, tin buồn đột ngột đến: cha của Luy đã hy sinh trong một trận công đồn. Từ khi cha mất, Luy sống trầm tĩnh hơn, ít cười đùa hơn. Cậu đã suy nghĩ về việc nghỉ học, về quê phụ giúp mẹ, do gia đình gặp khó khăn. Tuy nhiên, một lần tình cờ, bạn bè phát hiện ra Luy có khả năng cắt tóc tốt. Họ đã gom tiền, trang bị cho Luy một bộ dụng cụ cắt tóc. Trong lúc chuẩn bị về quê, Luy mở ba lô ra và phát hiện ra một hòm cắt tóc đẹp, có ổ khoá cẩn thận, bên trong có đủ dao, kéo, tông đơ Pháp cũ, một lọ nước hoa bưởi thoang thoảng và hai chiếc dù trắng dùng làm khăn quàng. Luy rất xúc động, hiểu ra mọi chuyện và từ bỏ ý định nghỉ học.
Mọi chuyện trôi qua êm đềm. Nhưng một ngày, chú Quang đến thăm cậu (nhân vật “tôi”), hỏi thăm về việc học hành và đưa cho cậu một số tiền, đồ ăn và nhu yếu phẩm. Chú Quang lo rằng với tình hình như hiện tại, kẻ thù có thể mở rộng vùng đánh, nhảy dù bừa bãi, và nếu rời xa nhau, cậu đã có tiền để tự bảo vệ mình... Một đêm, cậu không thể ngủ được, lo lắng về tiền bạc và thở dài. Nhờ sự thông minh của Dư, sự nhanh nhẹn của Hoàng và tài nghệ của Luy trong việc cắt tóc, cậu đã có thể dạy học cho trẻ em trong làng, kiếm thêm thu nhập hàng ngày.
Tối hôm đó, sau khi học bài xong, Dư thủ thỉ nói với tôi:
- Hôm nọ, khi cậu đi vắng, chúng tôi đã cùng nhau thảo luận: nếu như cậu cạn kiệt tiền, sống bình thường, nhóm của chúng ta sẽ chia sẻ!
Trước khi tôi kịp nói gì, Dư nhẹ nhàng đặt bàn tay lên tay tôi và nói:
- Theo dự đoán của tôi, ít nhiều, gia đình chúng ta sẽ đóng góp cho cậu, bởi chúng ta luôn coi nhau như người thân. Truyền thống hiếu học của dân tộc ta đã tồn tại từ lâu. Đừng lo!
Sau đó, Dư nghĩ đến khả năng: có thể bà con sẽ đóng thóc thay vì tiền học. Có người sẽ không đóng, trong trường hợp đó coi như đã được “miễn học phí” từ 'Hội đồng giáo sư'.
Tin tự tổ chức của nhóm cậu giúp dân ở miếu Môn nhanh chóng lan truyền và đến tai các thầy. Do đó, trong giờ văn, cậu đã được điểm tám. Điểm tám trong giờ văn là rất cao, thông thường chỉ có điểm bốn, năm. Có lẽ là do thầy muốn ưu ái cho cậu vì đã nỗ lực dạy học dù bận rộn. Khi ra ngoài chơi, các bạn học trò hò hét và tụ tập lại để nghe tin tổng phản công từ Thọ. Đã gọi là tổng phản công thì có nghĩa là huy động mọi người để tấn công mạnh mẽ...
Nhìn thấy Dư chuẩn bị sách đi học, tôi nói với Hoàng:
- À, không đi học à?
- Trễ một chút không sao, trường cũng sắp đóng cửa rồi! – Hoàng nói và giơ hai ngón tay lên. – Chỉ còn hai câu nữa là xong!
May mắn là buổi học hôm đó dù chúng tôi đến muộn nhưng được thầy hiệu trưởng ra lệnh tập trung ở sân đình để nghe phát biểu.
Ban đầu thầy nói về cái tin đồn về 'tổng phản công' và đó thực sự là sự thật, nhưng thực chất là 'hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển sang tổng phản công'.
Thầy phân tích rõ ràng về ý nghĩa của 'hoàn thành nhiệm vụ'. Với tình hình học tập như thời gian qua, khi mọi lớp đều nói về việc trường sắp đóng cửa, việc hoàn thành việc học thế nào có thể được coi là tốt? Sau đó, lại là 'chuẩn bị' trước khi 'chuyển mạnh', nếu không 'chuyển mạnh' thì không thể được.
Thầy phân tích tỉ mỉ như khi giảng về cuộc kháng chiến gồm ba giai đoạn: giai đoạn đầu thì cầm cự như thế nào, phòng ngự ra sao...
Thầy nói về kháng chiến của toàn dân, kháng chiến toàn diện. Việc tăng sản lượng lúa, ngô, khoai, sắn cũng là một hình thức kháng chiến. Đi học cũng là một hình thức kháng chiến.
Thầy hăng hái nói về lịch sử kháng chiến của các quốc gia trên thế giới, không có quốc gia nào như nước ta: đồng thời kháng chiến và phát triển giáo dục...
- Dù mai các em lên đường tòng quân, thực hiện nhiệm vụ đánh Pháp để cứu nước, thì điều gì còn vinh dự hơn cho trường chúng ta? Tuy nhiên, trong những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường, các em cần tiếp tục học tập chăm chỉ...
Tất cả nỗi đau khổ xuất phát từ thằng Tây. Nếu không, lúc này các học sinh vẫn có thể ngồi trong lớp, thảo luận về bài toán hoặc tụ tập vào bếp nấu canh, vui vẻ đến bao giờ! Sau những ngày đối đầu với kẻ thù, lớp học cũng trở nên rối bời. Để đuổi kịp chương trình, bù vào những ngày đã mất, các thầy giáo đều dạy hai bài trong một buổi, đôi khi cả hai buổi. Các bài kiểm tra sẽ được giao vào buổi tối để phòng tránh các cuộc tấn công từ máy bay, nếu có cảnh báo, chúng tôi sẽ chạy vào hầm, bài kiểm tra sẽ bị hủy và thay thế bằng bài kiểm tra khác. Nhưng trước khi kết thúc kỳ thi cuối năm, những chàng trai trẻ đó lại phải lên đường nhập ngũ, bảo vệ quê hương, Tổ quốc.
Rồi một buổi chiều, đột nhiên chúng tôi nhận thấy có mấy anh lính đến trường, mỗi người mặc đồng phục Mỹ, đeo súng lục và di chuyển cẩn thận.
Chưa đầy vài phút sau đó, tin tức về việc tuyển quân đã tràn ngập trường. Chúng tôi đều nghĩ rằng: việc tuyển quân từ học sinh chắc chắn là phần 'hoàn thành nhiệm vụ, chuẩn bị chuyển mạnh' đã hoàn tất, giờ là lúc phản công thực sự.
Vậy là ngay trong đêm đó, không ai còn có tâm trí để học nữa.
(…)
Thầy hiệu trưởng đứng lên giới thiệu một cách ngắn gọn về đoàn tuyển quân. Sau đó, trưởng đoàn lại tiến gần bàn, chưa kịp nói gì thì chúng tôi đã vỗ tay, hoan nghênh nồng nhiệt, khiến anh phải giơ tay lên mấy lần để duy trì trật tự. Anh nói ngắn gọn: giờ đây là lúc thanh niên, học sinh phải cầm súng để đánh thù, theo lời kêu gọi của Tổ quốc. Anh cũng nhấn mạnh: đừng nghĩ rằng khi trở thành học sinh trong quân đội là trở thành cấp chỉ huy ngay lập tức và đeo súng lục hoặc di chuyển cẩn thận như thế này, mà phải trải qua thời gian rèn luyện gian khổ.
Vào ngày đó, đội y tế của trường tổ chức kiểm tra sức khỏe ngay lập tức.
Chỉ sau vài ngày, tất cả mọi người đã chuẩn bị sẵn sàng lên đường...
Kết luận
Với lối văn tươi sáng, nhẹ nhàng, nhà văn Viết Linh đã mô tả một cách sống động và ấm áp về những kỷ niệm đáng nhớ của tuổi học trò trong thời kỳ chiến tranh khốc liệt. Chỉ khi đọc hết cuốn sách Mái Trường Xưa, chúng ta mới thấu hiểu được một phần nhỏ về những nỗi khó khăn, vất vả ấy, từ đó càng trân trọng và yêu quý hơn những gì chúng ta đang có trong thời bình.
Đánh giá chi tiết bởi: Nguyễn Thụy Việt Anh - MyBook
Hình ảnh: Nguyễn Thụy Việt Anh - MyBook