Nói về Nguyễn Tuân, mọi người thường nhớ như thế này: “Nguyễn Tuân từng khiến giới văn nghệ ngạc nhiên với sự độc đáo. Độc đáo trong phong cách văn học - tự do. Độc đáo trong giọng văn - phóng khoáng. Độc đáo trong nội dung văn - kiêu hãnh. Độc đáo trong tâm trạng văn - luyến tiếc. Độc đáo trong tư duy văn - mê hoặc.” Khác biệt với những nhà văn của thời đại đó đang đối diện với những khó khăn, ông đã chọn một con đường không giống ai. Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp, nhưng không phải từ những điều xa hoa quý tộc. Ông đi thăm hỏi những người dân giản dị hàng ngày bên đường, rồi dùng bút mực của mình để tôn vinh nơi họ nét thuần khiết, sâu sắc.
Theo lý tưởng đó, Vang Bóng Một Thời không chỉ tập trung vào một nhân vật trung tâm thuộc tầng lớp hoàng gia, quan lại quyền quý, mà còn không có sự xa hoa, sang trọng từ vật chất. Nghệ thuật trong cuốn sách bắt nguồn từ những việc làm bình dị, quen thuộc trong cuộc sống của người Việt xưa, từ việc uống trà, viết chữ đến nghề làm đao, một nghề từng khiến người ta e ngại.
Khi viết về những người chuyên chém đầu, Nguyễn Tuân như có sức mạnh siêu phàm, rút máu và xương ra khỏi thân. Cần hiểu rõ rằng, ông không khích lệ hành động đó, mà chỉ muốn đưa ra một góc nhìn thực tế về một thực trạng mà xã hội coi nhẹ. Như vậy, không còn tàn bạo, không còn thô lỗ, nghề làm đao với cách cắt “treo ngảnh” (đầu không rời khỏi cổ hoàn toàn, vẫn còn bám bít bằng da mỏng) trở thành một nghệ thuật mà ai cũng có thể học được.
Trời đang phủ một lớp mây đen kịt
Cảnh vật trở nên buồn bã hơn bao giờ hết
Tiếng loa kêu vang từ xa
Hồi chiêng vang lên xuyên qua không gian
Ta bắt đầu cảm nhận sự yên bình của đêm
Cỏ xanh biến thành màu sắc mới
Sống hòa thuận với nhau
Chết không mang theo án oán
Chấp nhận mệnh lệnh mà không phàn nàn
Dám suy nghĩ vượt qua giới hạn
Người ngồi vững vẳn
Cho nhẹ nhàng như nước chảy
Hỡi linh hồn!
Hỡi tinh thần không hình!
Bát Lê bắt đầu múa vòng quanh không gian. Rồi y hát những lời tẩy oan cho những linh hồn bị bắt. Trong nhà hát, các quan chỉ cảm nhận được tiếng nhạc lặng lẽ nhưng ma mị. Quan Công sứ chăm chú nhìn Bát Lê nhảy múa giữa hai hàng người bị kết án tử hình và mỗi lần nhảy múa, những đầu người bị kết án bất ngờ đâm xuống. Những dòng máu phun lên kèm theo tiếng kêu than thở, vọt cao tới bầu trời chiều. Trên mặt đất đầy máu, không một vết máu nào bị mất đi.
Hoặc có thể là một kỹ năng từng được xem là thô bạo, bị giới hạn biết đến như “ném bút chì”, cũng được mô tả cẩn thận.
Lưỡi mai cắt qua cuống của quả chuối, vượt quá mục tiêu, thậm chí chạm vào cả nửa thân cây chuối. Cả nhóm vỗ tay cười. Lý Văn nhìn nhận trò ném bút chì và khen:
Chiêc “bút chì” của cậu làm rất tốt đấy. Nhưng đôi khi còn hơi quá mạnh mẽ. Chưa đủ nhẹ nhàng. Có lúc ta chỉ cần đe dọa mà thôi. Nếu không cần thiết, hãy tránh gây tổn thương cho người khác.
Thấy đàn gà đi qua luống khoai lang, Lý Văn mượn Phó Kình cái “bút chì” và yêu cầu anh em:
Ai đó ném hòn đất giúp tôi.
Tiếng đất đụng nhau kêu vang. Mấy con gà bay tức tưởi bỏ chạy, đập cánh bừm bừm. Tiếng mai dao của Lý Văn vọt ra, gà kêu oạc.
Cả bọn chạy ra ruộng khoai, giơ cao con gà mất hai chân. Vết thương đau đớn nằm ngay ở đầu gối và chân, còn đang dính máu.
Lý Văn gác dao, nói với bọn trẻ:
- Nếu mình ném mạnh tay quá và không tính được sức của 'bút chì' là mất gà. Các chú đừng nhìn nhận sự sống như cỏ rác, các chú không biết, nhưng cú dao 'bút chì' khó mà né tránh. Một cây 'bút chì' mạnh mẽ như thế lại bị một cành tre đánh gục. Ai giỏi về việc đánh 'bút chì' trên những con đường lẻ loi, hãy cẩn thận khi thấy địch dùng cành tre để phá “bút chì'. Rảnh rỗi, tôi sẽ dạy các chú cách đánh một cách linh hoạt và uyển chuyển bằng gỗ cau. Đến khi đấu tranh dữ dội như thế, người ta rơi đầu cũng không biết mình đã hạ người.
Tự do và trong sáng, mạnh mẽ và nhân hậu, ngoài những nghề đặc biệt đã nói trên, Nguyễn Tuân cũng tỏ ra ngưỡng mộ trước cách mà người xưa tìm niềm vui trong trà, chữ. Ông viết văn như nước mắt lăn dài, gợi lên cảm xúc thương tâm, trăn trở cho nhiều tài năng gặp khó khăn, mắc kẹt trong cuộc sống khó khăn, thậm chí là bị chính quyền đẩy vào bước đường tử thần. Nhưng giống như ngọn nến chiếu sáng giữa bóng tối, những nhân vật đó vẫn giữ được phẩm chất trong sáng sau bao năm tháng.
Họ dịu dàng như tiên, giàu có như trời, cưỡi ngựa đi chơi ngoài phố liễu
Ta trồng cỏ rợp vườn, trải hoa khắp đất, mời bạn bè đến uống trà trước hiên mai.
Đúng vậy, bây giờ ông cụ Sáu yếu đuối lắm rồi. Bây giờ ông cụ lo lắng về cơm cũng khó, chưa kể đến việc uống trà. Thỉnh thoảng có được mượn vài ấm từ người quen, ông cụ cũng rất trân trọng: gói giấy kỹ lưỡng bên trong, đợi khi nào vắng nhà mới dám mang ra pha uống. Vẫn giữ thói quen phóng đãng, đôi khi qua nhà bạn, nhìn thấy hoa nở, ông cụ còn cố gắng hái ít nhụy để ướp vào gói trà bên trong, nếu đó là trà xanh cũ.
Từ ngày đó, những tập thơ cổ được lau chùi sạch sẽ và mở ra khỏi ngăn sách cũ. Ông Nghè Móm bắt đầu đọc lại những tập thơ của người xưa. Đường thi, Tống thi, Minh thi; đọc từng bài, từng câu, gặp một chữ lạ, ông dừng lại, nhìn kỹ vào chữ nhỏ như kiến, ông nhấm mắt và suy ngẫm. Rồi ông ghi lại cả bài thơ vào một cuốn sách giấy mới. Nhưng thường ông chỉ chọn một câu từ những bài thơ mình đọc kỹ lưỡng. Ngày nào một câu, ba câu, một ngày không xa, cuốn sách đã đầy những dòng chữ ghi chú những câu thơ từ thời cổ. Cô Tú theo lời cha dặn, đã đi mua nhiều tờ giấy để ông cắt ra từng mảnh dài bằng đũa và rộng bằng hai ngón tay. Các học trò tò mò, đầu còn còn để chỏm dài ngóng trông cô Tú, cô vui vẻ giải thích:
- Đừng nghịch, thầy thấy sẽ mắng chết. Giấy này để làm gì? Thầy sẽ viết những câu thơ cổ vào đây để trưng bày khi thả thơ.
- Thả thơ? Chắc là có viết thơ thì có, nhưng thầy và các anh chưa bao giờ nói về việc thả thơ.
....
Một nụ cười, mười ngón tay nắm bút trước đây thuộc về công chúng, nhưng bây giờ đã trở thành của gia đình mình. Hai vợ chồng họ là một cặp tài tử.
Ông bà Phó Sứ không bao giờ yên đâu.
Nghề nghiệp của họ yêu cầu họ luôn luôn di chuyển. Qua mỗi vùng, qua mỗi nơi, quan Phó Sứ mở túi lấy ra những bài thơ để mọi người trả tiền và Mộng Liên hát, nhảy để làm vui cho buổi tiệc này.
Mỗi tháng, cặp vợ chồng tài tử này lại đến một tỉnh khác. Chiếu bạc thả thơ của họ thường được trải ở phủ nha, huyện nha hoặc nhà riêng của quan chức. Dù thăng trầm, họ đã đặt dấu chân khắp nơi, mang theo túi thơ và túi nhạc cụ của mình. Nhờ cổ thi, họ kiếm được nhiều tiền, nhưng cặp lãng tử này không bao giờ nghĩ đến tương lai. Vợ chồng ông Phó Sứ chưa từng có ý định định cư ở đâu.
Quê hương của họ là cờ bạc và đờn hát. Nhà của đôi lãng tử ấy là trong những cuộc vui của mọi người. Cuộc sống bấp bênh của họ được gợi nhớ qua cái tên Mộng Liên và Phó Sứ, khi họ chậm đến hay lâu chưa trở lại. Người thắng kẻ thua trong thơ thả đều nhớ đến họ. Ông Phó Sứ được tôn trọng trong những buổi thả thơ, tiền thắng thua lên đến hàng chục bạc, nhưng mọi người đều ngâm thơ sau mỗi cuộc chơi. Mộng Liên đêm đêm bên cạnh ông Phó Sứ, vừa đàn vừa ca Nam bằng, Nam ai.
...
Ông Huấn Cao suy nghĩ một lát rồi mỉm cười: 'Về bảo chủ ngươi, tối nay, khi lính canh về nghỉ, mang lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây, ta sẽ cho chữ. Chữ là thứ quý giá. Ta chưa bao giờ vì vàng ngọc hay quyền thế mà viết câu đối. Đời ta chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân. Ta cảm kích tấm lòng yêu mến tài năng của các người. Ta không ngờ thầy quản đây lại có sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng quý báu.'
Ðêm ấy, khi trại giam tỉnh Sơn chỉ còn văng vẳng tiếng mõ, một cảnh tượng chưa từng có diễn ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, sàn nhà đầy phân chuột và gián.
Trong không gian mờ ảo như đám cháy, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên tấm lụa trắng tinh. Khói cay xè mắt, họ dụi mắt liên tục.
Một người tù đeo gông cổ, chân bị xiềng, đang cẩn thận tô nét chữ trên tấm lụa trắng phẳng trên tấm ván. Viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên tấm lụa. Người thư lại gầy gò run rẩy bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng dậy và nói:
- Ở đây lẫn lộn quá. Ta khuyên thầy Quản nên đổi chỗ ở. Đây không phải nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông vắn, thể hiện hoài bão của một đời người. Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm từ chậu mực bốc lên không?...Tôi nói thật: thầy Quản nên về quê mà sống, thoát khỏi nghề này rồi mới nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó mà giữ được tấm lòng trong sạch, rồi cũng đến mất đi cái đời lương thiện.
…
Nhà họ Chu không bao giờ làm giấy moi, chỉ làm giấy lụa và giấy lệnh hội để viết bằng bút sắc. Đầu năm Tý Mão Ngọ Dậu có khoa thi, thì nhà ấy mới làm giấy thi. Giấy của họ Chu có hai chữ Chu Hồ in thủy ấn. Hai chữ này viết theo lối triện cổ trước đời Tần, nhắc người dùng biết giấy của họ Chu làng Hồ Khẩu. Chỉ cần nhìn tờ giấy dó là biết ngay, không cần soi thủy ấn. Những người bán tạp hóa đã thử thách nhau xếp nhiều loại giấy của nhiều nhà khác nhau, rồi bịt mắt lại, chỉ rờ tay mà phải gọi tên giấy của nhà nào. Không ai nhầm giấy của nhà họ Chu. Giấy nhà họ Chu nhẵn nhưng không cứng, dai và nhẹ như lông ngỗng. Mặt giấy xốp, nghiêng ra ánh sáng thấy chất cát dó như da má trinh nữ, mịn màng. Vuốt mặt giấy cảm giác dễ chịu; mùa hè, rờ vào thấy mát tay, mùa đông ấm áp. Đưa lên mũi, tờ giấy thơm mùi thảo mộc tươi. Giấy dó nhà Chu ra thị trường, ai cũng thích. Đẹp đến nỗi dù người dốt cầm bút vẽ bậy vẫn thành hình chữ. Thời đó trọng nho phong, tờ giấy nhà Chu may mắn hơn là vách đá cho người dốt viết vào. Người có chữ xấu không nhẫn tâm viết lên giấy họ Chu. Người dốt thấy giấy Chu Hồ là tránh xa. Kẻ sĩ dùng giấy Chu Hồ như biểu tượng của phái quý tộc văn chương.
Lần đó được triệu vào kinh, ông cụ họ Chu được hầu quan thượng thư bộ Lễ, trình bày về chất lượng giấy dó của nhà mình. Ông bày ra các loại giấy, thả những con côn trùng vào nhưng chúng đều tránh xa. Bộ Lễ dâng tấu lên vua, và ông cụ được giao việc ở Cẩn Tín Viện, chế giấy cung cấp cho hoàng tộc và triều đình. Bộ Công xây hai lò giấy dó bên sông Hương, và ông cụ được giao coi sóc. Nhưng ông xin về Bắc, ở Tây Hồ chế giấy Ngự Chỉ và gửi vào kinh theo định kỳ vì đang để tang mẹ. Triều đình chấp thuận.
Nguyễn Tuân đã quan sát kỹ sở thích của mọi lứa tuổi. Không chỉ người lớn, mà trẻ thơ cũng được sở hữu một món đồ tinh hoa văn hóa: lồng đèn. Những chiếc lồng đèn tưởng chừng thô sơ ấy, hóa ra cũng cần sự tỉ mỉ và cẩn thận để tạo thành.
Một học trò cũ từ Sơn Tây về Hà Nội, biết ông Cử có con, đem biếu một chiếc bánh dẻo mặt trăng, đúng hôm ông Cử Hai thử đèn xẻ rãnh. Ông bày đèn và đồ trà ra sân, mời cụ Thượng ngồi. Cụ Thượng ăn bánh, uống trà, trịnh trọng như đang định giải thưởng cho đèn xẻ rãnh. Cả nhà mỗi người một miếng bánh, ai cũng vui vẻ, đặc biệt là Ngộ Lang. Ngay cả Tố Tâm bé cũng ăn được hai miếng bánh.
Quân bắt đầu diễn vòng đầu. Đèn sáng như sân khấu rạp tuồng. Thuyền Tây Thi tiến vào, lướt qua thuyền Phạm Lãi, làm thuyền này quay vào và biến mất. Tây Thi tiếp tục đi vào đất Ngô. Máy gạt ở góc đèn động, trên núi giả sơn, Ngũ Tử Tư ôm lấy Phù Sai ngăn chúa. Dưới chân núi, Bá Hy đón thuyền Tây Thi. Trên núi, hai hình người vẫn cử động: một ngăn, một không nghe. Thuyền Tây Thi tiếp tục đi sâu vào đất Ngô và khuất. Đèn xẻ rãnh hoàn thành một vòng.
Ngộ Lang nhảy lên cười. Đèn này là của nó để bày cỗ ngày rằm. Tố Tâm khoa chân tay có khóa bạc, muốn nhào vào đèn sáng. Rồi nó khóc. Mợ Cử Hai nói với chồng:
Hay là làm mỗi đứa một cái đèn. Càng đông đèn, mâm cỗ càng vui. Giữa mâm cỗ, đặt một con gà tạo hình ông Lã Vọng. Ngộ Lang đã có đèn xẻ rãnh rồi. Giờ làm cho con Tố Tâm một chiếc đèn kéo quân, để khác biệt chút.
Ngay hôm sau, ông Cử Hai lại túi bụi với việc làm đèn kéo quân. Ông lấy một tập sách thơ cũ, lột mấy cái bìa sơn cậy, cắt bìa, ghép hai mảnh thành hình người. Tố Tâm chỉ chơi đến đèn kéo quân thôi. Nhưng ông Cử Hai vẫn hết lòng làm đèn. Chiếc đèn kéo quân của con Tố Tâm, đến hôm bày cỗ rằm, hơn các nhà khác vì có hai tán, mỗi tán gắn một đĩa đèn, xoay vòng theo hai chiều khác nhau. Đèn chạy hai vòng quấn, một vòng đi, một vòng về, vui mắt lạ! Còn có đèn cá và thiềm thừ nữa.
Mợ Cử Hai ngâm sẵn một vại óc và bửa bưởi rất khéo, giữ nguyên vỏ, trổ những hình trám thủng. Hôm sau, con bà sẽ cắm nến hạt bưởi khô vào vỏ bưởi, thắp lên rồi lăn tròn cái đèn cù ấy trên mặt đất.