Đánh giá về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên là tài liệu được Mytour giới thiệu đến quý độc giả.
Bản phân tích này bao gồm sơ đồ tư duy, phân tích chi tiết dàn ý và 14 mẫu cảm nhận tốt nhất về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên. Mời quý vị cùng theo dõi ngay sau đây.
Sơ đồ tư duy Đánh giá về bài thơ Ông đồ
Bản dàn ý phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên
I. Khai mạc
Tổng quan, nhận định chung về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên.
II. Nội dung chính
1. Nhận định về hình ảnh ông đồ trong thời kỳ Nho học phổ biến
- Thời điểm: Xuân với hoa đào rộ nở.
- Hành động: Chuẩn bị mực tàu, giấy đỏ - dụng cụ thiết yếu của các nhà nho.
- Địa điểm: Trên phố đông đúc thể hiện sự sôi động, hân hoan khi xuân về.
=> Hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong mỗi kỳ nghỉ tết đến xuân về như ngày xưa.
- “Bao nhiêu người thuê viết... khen tài”: Sự thịnh vượng của học văn Hán, các nhà Nho khẳng định vị thế của mình trong tâm trí của mọi người, họ là những người được tôn trọng vì trí tuệ, kiến thức.
=> Đóng góp quan trọng vào việc thổi bùng không khí tết truyền thống, một phần không thể thiếu của văn hóa dân tộc vào mùa xuân theo truyền thống của chúng ta.
II. Nhận định về hình ảnh ông đồ khi học thuyết Nho suy tàn
- “Nhưng hàng năm càng trống vắng”: từ “nhưng” làm thay đổi cảm xúc của người đọc, thịnh suy rõ ràng hơn, người đọc có thể hiểu rõ hơn, đau đớn hơn nhất.
- “Người viết thuê bây giờ ở đâu?”: câu hỏi về thời đại, cũng là câu hỏi tự hỏi.
=> Thể hiện sự đau đớn, vẫn là ông đồ quen thuộc, vẫn có tài năng nhưng không còn ai thuê viết, khen ngợi nữa.
- “Tờ giấy đỏ ...nỗi buồn tột cùng”: hình ảnh của giấy trắng nát ra sầu muộn, mực buồn chảy vào giữa trạng thái nghệ sĩ đau khổ, không thể tan biến.
- “Lá vàng...bay theo cơn mưa”: mô tả tình huống tương tự: tâm trạng của ông đồ. Đây là hai câu thơ nổi bật nhất trong bài thơ. Lá vàng rụng gợi lên cảm giác cô đơn, u sầu, buồn bã, mưa bụi bay gợi lên cảm giác u ám, lạnh lẽo.
=> Tâm trạng của con người buồn bã, cô đơn, bi ai.
3. Đánh giá về tình cảm của nhà thơ
- Thời điểm: mùa xuân với hoa đào nở (một lần nữa: sự tái sinh của thiên nhiên).
- Tranh ảnh: “vô hình”, phủ nhận sự hiện diện của một người đã từng được kính trọng.
=> Cấu trúc bài thơ đặc biệt nổi bật chủ đề chính.
- “Những người ngày xưa...bây giờ?”: câu hỏi không dành để tìm kiếm câu trả lời, mà là biểu hiện của niềm thương tiếc, tình cảm của tác giả về sự suy tàn của học thuyết Nho hiện đại.
=> Câu hỏi nhẹ nhàng thể hiện sự tiếc nuối, sự đau khổ chân thành của tác giả trước sự suy tàn của Nho học ngày nay.
III. Kết luận
Xác nhận lại ý nghĩa và chia sẻ cảm xúc về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên.
Đoạn văn nhận xét về bài thơ Ông đồ
Đoạn văn mẫu số 1
Bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi. Hình ảnh của ông đồ, một biểu tượng quen thuộc trong xã hội truyền thống, người có trí thức, tài năng và được tôn trọng. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, hình ảnh ông đồ dần bị lãng quên. Nhà thơ đã mô tả hình ảnh ông đồ từ quá khứ đến hiện tại. Trong quá khứ, ông đồ đi trên đường với hoa đào, cầm mực tàu và giấy đỏ, viết câu đối như một người biểu diễn thư pháp, tạo ra những tác phẩm đẹp mắt khiến mọi người khen ngợi. Đó là thời kỳ hoàng kim khi ông đồ được tôn vinh. Nhưng thời kỳ hoàng kim đã qua, mỗi năm ông đồ trở nên xa cách hơn, không ai còn quan tâm đến họ nữa. Hình ảnh như “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” cho thấy sự buồn bã của người nghệ sĩ khi họ không còn được nhớ đến. Mùa xuân năm nay lại đến, nhưng ông đồ đã không còn. Câu hỏi nhẹ nhàng “Những người từng tồn tại vĩnh cửu/ Họ ở đâu bây giờ” như là một lời kêu gọi về số phận. Bài thơ đã diễn đạt tình trạng thương tâm của ông đồ và cảm thấy tiếc nuối về quá khứ của họ. Đọc bài thơ, tôi hiểu và trân trọng hơn ông đồ.
Đoạn văn mẫu số 2
Bài thơ Ông đồ chứa đầy ý nghĩa sâu sắc, là sự than thở của tác giả về một thời kỳ văn học đã từng lấp lánh. Trong hai khổ thơ đầu, tác giả tái hiện lại bầu không khí của những ngày tết xưa khi ông đồ vẫn được vinh dự, Khi tết đến xuân về, hoa đào thắm sắc, đường phố hối hả và ông đồ xuất hiện bên lề đường treo câu đối để mọi người treo trong nhà như một phong tục không thể thiếu vào ngày đầu năm mới. Những nét chữ tinh tế như phượng múa rồng bay, chứa đựng tâm hồn và tấm lòng của người viết. Tuy nhiên, qua thời gian, việc treo câu đối vào ngày tết không còn được ưa chuộng. Từ “nhưng” như một nốt trầm trong bài ca của mùa xuân, thể hiện sự biến đổi trong quãng đời. Những người có trí tưởng niệm ngày xưa đã đi. Niềm vui nhỏ bé của ông đồ là được góp phần mang lại niềm vui cho mọi người trong dịp tết đến xuân về, nhưng giờ đã không còn. Nỗi buồn của con người khiến những vật vô tri vô giác như giấy đỏ, bút nghiên cũng ngập tràn nỗi đau. Hình ảnh ông đồ xưa thường đi kèm với vẻ đẹp truyền thống của nền văn hóa nho học, nhưng giờ đã dần bị quên lãng. “Lá vàng bay trên giấy/Ngoài trời mưa bụi bay”. Ông vẫn ngồi đó, nhưng ít ai còn để ý, lá vàng rơi giữa mùa xuân trên tờ giấy nhạt nhòa như dấu chấm hết cho sự sống. Hạt mưa bụi nhẹ nhàng bay trong cái lạnh như là tiếng khóc than, chia tay với một thời đại đang dần trôi vào quên lãng. Qua bài thơ, ta có thể cảm nhận được tâm trạng của nhà thơ, một cảm giác buồn thương, nhớ về quá khứ. Và câu hỏi cuối cùng trong bài thơ như một lời tự hỏi, cũng như là hy vọng về quá khứ với nhiều nuối tiếc “Những người từng tồn tại vĩnh cửu/ Họ ở đâu bây giờ?”. Ông đồ vắng bóng không chỉ đánh dấu sự kết thúc của một thời đại, mà còn là sự mai một của truyền thống văn hóa đẹp của dân tộc. Bài thơ đã động chạm đến những cảm xúc sâu thẳm trong lòng người, để lại những suy ngẫm sâu sắc với mỗi người.
Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên - Mẫu 1
Bài thơ “Ông đồ” được coi là một thành công “bất ngờ” của Vũ Đình Liên. Nhà thơ đã sử dụng thể thơ ngắn, ngôn từ đơn giản nhưng chứa đựng những tâm sự sâu sắc về con người và cuộc sống. Vì vậy, Hoài Thanh đã nhận xét: 'Ít có bài thơ nào đơn giản mà đầy cảm động như thế'.
Hình ảnh ông đồ hiện lên trong những suy tư, kỷ niệm của nhà thơ:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
Vào những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, triều đại Nho học đang suy tàn, các kỳ thi chữ Hán bị hủy bỏ, đa số mọi người hướng tới điều mới mẻ, bỏ lại quá khứ, nhưng chữ Nho vẫn được mọi người ưa chuộng. Hình ảnh ông đồ viết chữ thuê trên những con phố sầm uất trở nên quen thuộc mỗi khi Tết đến. Bằng nét bút tài hoa, ông đồ đang silently làm đẹp cho cuộc sống. Ông chính là biểu tượng của vẻ đẹp tinh tế của một Hà Nội xưa:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Tuy nhiên, số người yêu thích chữ Nho 'mỗi năm mỗi ít', những khách quen cũng tan rã 'người thuê viết ở đâu bây giờ?”, phong tục treo câu đối Tết cũng dần phai nhạt. Ông đồ dần dần bị quên lãng, cách thức kiếm sống ngày càng khó khăn. Do đó, nỗi buồn lan tỏa tận sâu trong tâm hồn, ngả vào cả những vật vô tri:
“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...”
Và như một điều tất yếu khi mọi người cùng “vứt bút lông đi, viết bằng bút chì”, xã hội lăng xê những Xuân tóc đỏ, hoặc những nhà thiết kế thời trang như TYPN (Số đỏ – Vũ Trọng Phụng) – Ông đồ đã hoàn toàn bị lãng quên. Ông ngồi đó như một di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời đại đang dần kết thúc:
“Ông đồ vẫn ngồi yên
Trong dòng đời qua bên
Lá vàng rơi trên bức
Ngoài trời mưa bụi bay.”
Ông đồ ngồi giữa mùa xuân nhưng ta cảm thấy như đang ở trong mùa đông buồn tủi, ông chìm vào không gian để thời gian và cơn mưa cuốn trôi mọi thứ. Hình ảnh “lá vàng rơi” biểu tượng cho sự sụp đổ. Chữ Nho đã đi vào quên lãng. Chỉ còn lại nỗi đau thương buồn bã. Những giọt mưa bay hoặc những giọt nước mắt tiếc nuối? Nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ tình của tác giả đã đạt đến đỉnh điểm khiến người đọc cảm nhận được nỗi đau thương độc đáo của ông đồ già cô đơn mắc kẹt trong vận mệnh…
Mùa xuân đã quay trở lại, nhưng “ông đồ xưa đã không còn thấy nữa”. Ông cố gắng sống trong xã hội hiện tại nhưng không còn đủ sức, đủ kiên nhẫn nữa, bởi vì cuộc sống không còn nghĩa với chữ nghĩa. Ông phải lui về quá khứ, có thể đã trở thành một phần của quá khứ. Tác giả đầy lo lắng, đau khổ:
“Những người từ xa xưa
Giờ đây họ ở đâu?”
Nhà thơ không chỉ thương cảm cho ông đồ mà còn cho một lớp người như ông. Tác giả muốn tìm kiếm để gặp lại những hồn đã mất hoặc đang nhớ về những vẻ đẹp của quá khứ? Câu hỏi cuối cùng của bài thơ, nhưng mở ra những vấn đề lớn cho người đọc suy ngẫm.
Có thể nói tình thương và lòng hoài cổ đã tạo ra một tác phẩm vĩ đại như “Ông đồ”, mãi sống mãi với thời gian. Tên của Vũ Đình Liên được gắn bó với bài thơ đặc biệt này. Theo thời gian, giá trị của tác phẩm càng tăng lên bởi ý nghĩa nhân văn, nhân đạo mà tác giả truyền đạt.
Cảm nhận về bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên - Mẫu 2
Vũ Đình Liên đến với thế giới thơ một cách dè dặt nhưng sâu sắc. Trong thời kỳ Thơ mới, tên tuổi của ông không nổi tiếng nhưng đủ để tạo ra sự khác biệt.
Có người viết nghìn bài nhưng cảm thấy chưa đủ. Có người chỉ viết vài bài mà đã trở thành vĩ nhân. Vì Vũ Đình Liên đã nắm bắt tinh thần của thời đại. Không cần phải đi xa vào thế giới tưởng tượng như Thế Lữ, hay đắm chìm trong tình yêu như Xuân Diệu, ngắm nhìn một chiều hoang vắng bên mộ cũ như Chế Lan Viên, hoặc chịu đau khổ dưới ánh trăng đêm như Hàn Mặc Tử, cũng không cần phải hoài niệm về quá khứ đẹp như Trần Huyền Trân,… Vũ Đình Liên quay trở lại với những cảm xúc tinh tế của tâm hồn mình, lòng thương người và tình hoài cổ sâu sắc.
Hoài Thanh đã nhận xét: “Có một lần, hai nguồn cảm hứng đó đã gặp nhau và tạo ra một kiệt tác: “Ông đồ”. Ít khi có một bài thơ đơn giản mà đầy xúc động như thế. Đọc như thể ta đang nghe tiếng lòng than khóc của chính chúng ta trước tầng lớp người đã ra đi…”
Có lẽ, khi đối mặt với thực tại khắc nghiệt, giới trẻ đã vội vàng rời bỏ để khám phá những miền đất nghệ thuật mới mẻ, để lại ông một mình trầm lặng quay về quê hương cũ. Dường như thơ của Vũ Đình Liên đã trở nên lỗi thời so với thời đại, nhưng lại có sức cuốn hút mạnh mẽ khiến ai đọc cũng bị cảm động.
Với bài thơ “Ông đồ”, Vũ Đình Liên đã may mắn bắt được tinh hoa của thời gian. Ông có lẽ đã chờ đợi lâu và nhanh chóng nắm bắt cơ hội khi nó đến. Bài thơ được viết vào năm 1937, trong giai đoạn phong trào Thơ mới phát triển mạnh mẽ, khiến nền thơ cũ và thế hệ trước đó trở nên yếu đuối và sau đó biến mất. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, và các nhà thơ khác đã tiếp tục phá vỡ nền thơ cũ và tạo ra điều mới mẻ, ít người nhìn nhận được sự rút lui của thế hệ cũ. Chỉ có Vũ Đình Liên làm điều đó.
Bài thơ “Ông đồ” là tiếng nói sâu lắng từ tận đáy lòng của Vũ Đình Liên về sự suy tàn của một thế hệ, một tư tưởng và một giá trị trong tâm hồn và cuộc sống của người Việt. Không than phiền hay oán trách, nhưng nỗi tiếc thương vô hạn ẩn sau từng dòng chữ. Hình ảnh ông đồ là minh chứng cho sự bế tắc của lịch sử, của một thế hệ con người đang dần rơi vào tình trạng bế tắc, giống như đất nước. Sự bế tắc đã khiến ông đồ từ vị trí cao quý, đạo đức đến việc kiếm sống bằng cách bán chữ giữa sự thờ ơ, vô tình của xã hội.
Và để gắn kết với điều gì đó chưa chắc đã mất, Vũ Đình Liên bắt đầu bài thơ một cách phấn khích:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già.”
Từ từ “lại” phản ánh sự tự hào, xác định rõ vị trí của ông đồ trong ngày tết. Ông đến như một điều tất yếu và đã từ lâu ghi sâu trong trí nhớ của mọi người khi tết đến. Không để người đọc phải chờ đợi lâu, Vũ Đình Liên ngay lập tức mô tả cảnh tượng trước mắt:
“Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.”
Đọc lại câu thơ, ta như thấy trước mắt mình bức tranh sôi động, sự náo nhiệt không ngừng của ngày tết xưa. Đây là tiếng thăm hỏi, đó là tiếng mời gọi của muôn người. Và ông đồ ở khắp nơi trên phố, dưới tán cây bóng mát, chân đặt trên tờ giấy, tay vẽ nét bút thần kỳ như “phượng múa rồng bay” trước sự kính trọng, ngưỡng mộ của mọi người.
Tuy nhiên, số phận luôn biến đổi, cuộc đời ngắn ngủi nhưng đầy bất ngờ, và thời gian cuốn trôi mọi thứ theo nhanh chóng. Năm sau khi quay trở lại, hình ảnh ông đồ vẫn còn trên con phố quen thuộc nhưng sao lại cảm thấy xa lạ đến lạ lùng:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay ở đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...”
Từ một cảnh sân khấu rực rỡ, trong sự tôn vinh tột độ, đột ngột ông đồ bị cuốn vào nghịch cảnh đáng thương. Dù là sân khấu quen thuộc, nhưng ông đã mất hết khán giả, đành phải đóng một mình vở kịch buồn.
Dường như Vũ Đình Liên đã nhận ra, đã bước vào con đường mong manh, mơ hồ và cay đắng của thời gian giữa quá khứ và hiện tại. Ông đồ cố gắng giữ lại hồn của một thời đại trong lòng người một cách vô dụng nhưng không từ bỏ. Dù chưa đạt tới trình độ của những người như 'tay tử tù của thời vang bóng', nhưng ông vẫn giữ lại được những ngón tay hoa.
Trên bước đường cuối cùng, dù có chút tài năng nhỏ bé nhưng ông đồ cứ nghĩ rằng vẫn còn một chút góc đời để an bình hoặc thậm chí để trầm tư! Và chính sự cố gắng cuối cùng đó đã đưa ông vào tình thế dở khóc dở cười:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.'
Câu thơ rơi vào im lặng đáng sợ khiến người đọc cảm thấy tiếc nuối. Cơn mưa giáng xuống tâm hồn, che phủ những vết thương đang âm ỉ trong lòng. Tại đây, người đọc nhận ra rằng họ đã mất đi tình yêu đối với đất nước và vô tình đẩy một thế hệ như ông đồ vào hoàn cảnh bi đát đó. Một thời đại sáng bừng đang le lói những tia sáng cuối cùng trước khi im lặng. Và cuối cùng là im lặng thực sự:
“Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”.
Vũ trụ xoay vòng, luân chuyển của sự sống và tử diễn ra không ngừng trên hành tinh này. Những gì còn sót lại là sự lọc bộc và tàn nhẫn của thời gian. Khung cảnh vẫn nguyên vẹn, ngày tết vẫn tưng bừng rộn rã, hoa đào lại nở, người vẫn du xuân vui vẻ, nhưng nhân vật quan trọng của quá khứ mãi mãi không xuất hiện nữa. Câu thơ “Năm nay đào lại nở” như một biểu tượng cho cái luật lệ vô tình của cuộc sống, một nụ cười chua xót của nhà thơ trong cuộc đời. Câu thơ kế tiếp như một lời than thở buồn bã: “Không thấy ông đồ xưa”, đóng lại một trang kịch đầy âm u, để rồi nhà thơ đặt ra câu hỏi:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”.
Họ ở đâu? Những người của thế hệ trước có thể ở đâu? Họ có thể chấp nhận thích nghi, thay đổi phong cách, từ bỏ áo dài để mặc đồ tây, cắt tóc ngắn, “uống rượu sâm banh và sữa bò” để hòa nhập vào cuộc sống hiện đại pha trộn văn hóa. Hoặc họ có thể tiếp tục giữ nguyên lối sống truyền thống, tiếp tục chiến đấu với thời gian.
Vũ Đình Liên không thể trả lời. Ông gửi đi nỗi lo ấy vào dòng thời gian và hy vọng tìm thấy sự đồng cảm từ người đọc. Ông nhìn vào cuộc sống trôi chảy như một người đã mất phương hướng hy vọng tìm ra bản thân. Nhưng không phải mọi cảnh vật và con người đều dễ thành thơ, nếu nhà thơ không phải là một người tinh tế và nhạy cảm.
Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên - Mẫu 3
Trong văn hóa dân tộc, hình ảnh các Ông Đồ trong ngày Tết truyền thống đã trở nên quen thuộc với mọi người. Đó là biểu tượng của sự học thức, sự giàu có văn hóa, mỗi con chữ mà họ viết mang một ý nghĩa khác nhau, nhưng chung quy lại, người Việt vẫn tin rằng việc nhờ người viết chữ sẽ mang lại may mắn cho họ trong năm mới. Tuy nhiên, có vẻ như những thay đổi đã làm mất đi phần nào nét đẹp đó, hình ảnh Ông Đồ trong thơ của Vũ Đình Liên thể hiện rõ ràng và sâu sắc. Ông Đồ là những người biết viết chữ Nho điêu luyện. Chữ Nho mang đầy hình tượng, giàu ý nghĩa. Những người này được đào tạo, học vấn tốt trong văn hóa nho giáo, tiếp xúc với chữ Hán nhiều và có bằng vị, được công nhận, có thể kiếm sống bằng nghề viết thuê.
'Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua.'
Tết đã đến, hoa đào nở rộ là dấu hiệu của một mùa xuân mới, một thời khắc quan trọng trong năm của đất nước. Tâm trạng của mọi người trở nên vui vẻ, phấn khởi, hối hả chuẩn bị cho những ngày Tết truyền thống quan trọng. Trong bài thơ, Ông Đồ thể hiện tài năng của mình thông qua việc viết chữ mang tính ý nghĩa và thoải mái, kiếm sống bằng cách viết chữ theo yêu cầu của những người yêu thích chữ viết. Hình ảnh của Ông Đồ gợi lại sự thân thiện, hạnh phúc giữa sự ồn ào của đời sống đường phố, ông đơn giản, điềm đạm nhưng vẫn thu hút rất nhiều sự chú ý. Đây là một bức tranh đầy ý nghĩa về thời gian tươi đẹp nhất của mùa xuân.
'Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
'Hoa tay thảo những nét.
Như phượng múa rồng bay'.'
Sự khiêm tốn kèm theo những phẩm chất quý giá của ông đã thu hút nhiều người. Họ muốn nhận lấy sự đẹp từ ông. Ông cảm thấy ấm lòng khi nghe những lời khen ngợi, sự trân trọng từng chữ mà họ viết, đó là 'tấm tắc khen tài', sự trọng trọng trong mỗi từ khiến 'bao nhiêu người thuê viết' mang lại ý nghĩa lớn lao về học vấn, học chữ Nho, những người quan trọng nhất là đề cao mối quan hệ và năm đức tính cần có thông qua việc học chữ, đó là: Nhân, Nghĩa, Lễ Trí, Tín, để hướng dẫn con người đi theo một con đường đúng đắn nhất. Các dòng thơ tiếp theo miêu tả rõ nhất tài năng của ông đồ. Và những người có nhiều kỹ năng không chỉ viết chữ, mà họ còn tạo ra một tác phẩm như một bức tranh mang nhiều ý nghĩa nghệ thuật.
Hình ảnh ông đồ ngồi tĩnh lặng, bàn tay nhẹ nhàng múa lượn những nét bút đưa lên một cách điêu luyện, từng chi tiết 'nét thanh, nét đậm, nét xổ', thanh thoát như 'Rồng bay phượng múa' cho thấy sự phóng khoáng, nhưng vẫn giữ được tính chính xác trong phong cách viết chữ Nho, viết một tác phẩm vĩnh cửu. Dân gian có câu 'Nét chữ nết người' là sự thể hiện của tài năng, tâm hồn thông qua những nét bút tinh tế, chứa đựng tâm hồn cao quý, khát vọng, lý tưởng và phong cách sống đẳng cấp của những ông đồ. Cách ông viết chữ đa dạng và không trùng lặp là sự sáng tạo không ngừng từ con người trí thức đó. Và dòng thơ không dừng lại ở sự vui vẻ, mà có một chút trầm tĩnh ở đoạn 3, tiếp nối dòng suy nghĩ giữa quá khứ và hiện tại.
'Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...'
Từ những dấu hiệu của sự thay đổi, dù nhỏ hay lớn, điều gì đó thay đổi, từng...mỗi làm cho câu thơ dài về thời gian, không gian, sự lặng lẽ kéo dài, đó là sự tự an ủi về thực tế rằng việc xin chữ từ ông đồ đã không còn phổ biến như trước. Tác giả đặt ra cho mình một câu hỏi về những người thuê viết chữ đã ra đi dần dần, liệu họ cũng đã mất đi tình yêu qua thời gian với chữ Nho khi đã có một nguồn chữ mới 'chữ Quốc Ngữ', sự chuyển đổi nhanh chóng của thời đại. Người không được thuê, vật không được sử dụng làm từng thứ trong mỗi câu trở nên thấm nỗi buồn cùng con người nhờ vào việc sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa thành công. Bây giờ, sự xuất hiện của ông đồ trái ngược với sự vui vẻ, lòng tôn trọng, niềm tin từ người xin chữ bằng tấm lòng ban đầu, một nét đẹp rất riêng dành cho mùa xuân đã tạm lắng xuống. Nhưng với các ông đồ bây giờ:
'Ông đồ vẫn ngồi đây
Qua đường không ai hay'
Ông 'vẫn đợi, vẫn ngồi đây' vẫn mang đầy sự điềm đạm, cao quý như ngày nào nhưng lại gặp phải sự lạnh lùng, thờ ơ của người dân. Tác giả như một người đứng từ xa quan sát và phải thốt lên sự tiếc nuối cho sự nghiệp của những ông đồ, sự lãng quên, đẩy ra bên lề của những bức thư pháp cổ, thờ ơ trước sự hiện diện của ông Đồ là điều đáng để chúng ta suy ngẫm, đau đáu, và đồng cảm.
Việc xin chữ từ ông đã trở thành những kỷ niệm đáng nhớ mà các thế hệ trước đã trải qua, trân trọng. Tác phẩm đã mô tả chân thực về Ông Đồ nhất, truyền đi thông điệp rằng xin chữ từ Ông Đồ là một truyền thống đáng giữ gìn cho thế hệ sau của dân tộc, góp phần trong việc giáo dục lối sống cho người trẻ.
Ngày nay, dường như đã có thêm không ít 'ông tiểu đồ' xuất hiện ở những nơi có bản sắc văn hóa, những khu vực giải trí trong dịp Tết Việt, thỏa mãn niềm đam mê về thư pháp của người dân, họ đóng góp vào việc thừa kế nét đẹp dân tộc, làm đẹp thêm cho thành phố như một điểm nhấn trong mùa Xuân.
Cảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên - Mẫu 4
“Thơ là bức tranh, là hình ảnh... Từ một cái cụ thể, hiện hữu nảy mầm ra cái vô hình rộng lớn... Từ một điểm nhất định, nó mở ra một không gian và thời gian trong đó nhịp mãi lên một thông điệp từ tâm...” (Nguyễn Tuân)
Bước vào hai dòng thơ:
'Giấy đỏ nhạt màu buồn thênh thang;
Mực đọng dưới nghiên trong đêm dài…'
Trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, đọc giả chắc chắn sẽ cảm thấy xúc động bởi một trái tim bi tráng mãi mãi.
Ông đồ, là biểu tượng tàn tích đáng thương của một thời kỳ đã qua. Toàn bộ bức tranh thơ vẽ hình ảnh ông đồ, như một nghệ sĩ trong bức tranh xuân rực rỡ, cuộc sống sôi động của Hoa tay thảo, nhưng khi đến câu thơ thứ ba, ông đồ xuất hiện trong bức tranh với vẻ buồn thảm:
'Nhưng mỗi năm mỗi trống trải;
Người thuê viết đâu rồi?
Giấy đỏ nhạt buồn thênh thang;
Mực đọng dưới nghiên trong đêm dài…'
Âm nhạc rơi vào tĩnh lặng, hòa mình vào nỗi đau. Chữ sầu nằm cuối câu như viên đá rơi, nặng trĩu lên tâm hồn. Trước sự đô thị hóa đầy khắc nghiệt của xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, chữ Nho trở thành một món hàng không ai quan tâm nữa, trong bối cảnh này, ông đồ trở nên ngao ngán, đáng thương: Không còn gì là chữ Nho nữa. Thiếu người thuê viết, cũng có nghĩa là không có ai thích thú đọc văn hay, chữ đẹp, giấy mực của ông đồ trở nên tẻ nhạt, buồn tủi, giấy buồn mực đau đớn.
Giấy, mực là những hình ảnh quen thuộc kết nối với những người trí thức xưa, giấy đỏ, là nền rực rỡ, nơi sinh ra những nét chữ thanh mảnh, cùng với cây bút và bàn tay tài hoa của người viết, tạo ra nghệ thuật thư pháp, một vẻ đẹp văn hóa đã tồn tại từ lâu.
Thế mà bây giờ “Giấy đỏ buồn không thắm”, còn “Mực đọng trong nghiên sầu”. Buồn vui, là tâm trạng bình thường của con người, nhưng ở đây với kỹ thuật nhân hoá, Vũ Đình Liên đã mang hồn vào những vật phẩm vô tri đó để giấy mực cũng mang nỗi buồn của tâm trạng con người.
Vì không có người thuê viết, những tờ giấy đỏ cứ phơi ra đấy mà chẳng ai để ý nên cũng trở nên bế tắc, màu đỏ của chúng trở nên nhạt nhẽo, không thể sáng lên được. Trước đây, màu đỏ từng làm ấm lòng người trong thơ, nhưng giờ đây, màu đỏ lại mang nhiều nỗi buồn. Giấy cũng mang nỗi buồn nặng nề của con người.
Nghiên mực cũng vậy, không được bút chấm vào, nên mực yên lặng, không thể diễn đạt nỗi buồn, nhưng nó vẫn đọng lại như giọt nước mắt khôn tả. Nỗi buồn từ lòng người đã thấm vào những vật phẩm không tri giác. Hai thanh nặng ở chữ đọng chữ mực kết hợp với dấu chấm cuối câu khiến câu thơ trở nên đau buồn, nỗi buồn như dâng trào, dày thêm. Với hình ảnh nhân hoá gợi cảm, kỹ thuật phối thanh tinh tế, hai câu thơ như làn gió thở dài của nhà thơ, phản ánh tình cảm và niềm yêu quê hương.
Đây có thể xem là hai câu mô tả cảnh tượng người yêu nhau tinh tế của Vũ Đình Liên. Thơ muốn khiến người ta phải rơi nước mắt, khiến chính mình cũng phải rơi nước mắt. Có lẽ đây chính là tiếng khóc của Vũ Đình Liên về một thời đã qua, giờ chỉ còn vang vọng.
Phản ứng với bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên - Mẫu 5
“Ông đồ” là một tác phẩm xuất sắc của Vũ Đình Liên, một tác giả nổi bật trong trào lưu thơ mới. Bài thơ gồm 5 khổ ngũ ngôn, để lại cho độc giả nhiều suy tư về hình ảnh của ông đồ từ thời hoàng kim đến thời điểm vắng bóng hiện tại.
Ông đồ ngày xưa thường là những nhà giáo, thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, ông đồ gắn bó với chuỗi ngày tháng:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
Khi hoa anh đào nở, mùa xuân đang gõ cửa, hình ảnh của ông thơ hiện lên. Ông tiếp tục sáng tác với tài năng tỏa sáng, thu hút sự ngưỡng mộ từ mọi người. Nhiều người thuê ông viết và đều ca ngợi tài năng của ông thơ.
Thế giới đã thay đổi, văn học Hán đang trải qua giai đoạn khó khăn trong thời kỳ thuộc địa nửa cuối thế kỷ, câu hỏi 'Ai làm thơ cho chúng ta bây giờ?' phản ánh sự mơ hồ và đầy bi thương. Bút mực và giấy trắng, những công cụ quen thuộc của ông thơ trên con đường tạo ra vẻ đẹp cho thế giới, bây giờ cũng mang theo nỗi buồn và sự yên bình. Tác giả sử dụng phép nhân hóa để biểu hiện sự buồn bã của những vật dụng vô tri vô giác. 'Người buồn vui gì lạ!' Nỗi buồn của ông thơ lan tỏa, làm cho không gian xung quanh trở nên tối tăm và ảm đạm.
'Lá vàng rơi trên tờ giấy
Mưa bụi bay trong không trung.'
Dòng thơ như một bức tranh, nhưng cũng là lời kể về trái tim của ông thơ, đây là biểu hiện của ngụ tình. Lá vàng rơi kết hợp với những giọt mưa làm cho nỗi buồn trong tâm hồn ông thơ trở nên sâu thẳm. Ông vẫn ngồi đó, phố vẫn đông nhưng không còn ai nhận ra sự hiện diện của ông nữa. Chính ông cảm thấy cô đơn, lạc lõng giữa những khung cảnh quen thuộc.
'Năm nay, hoa anh đào lại nở
Không còn thấy bóng dáng ông thơ quen thuộc
Những hồn ma của quá khứ
Bây giờ ở đâu?'
Trong năm nay, hình ảnh của ông thơ đã tan biến, cái đẹp và giá trị tinh thần đã phai mờ. Những người muôn thuở như ông thơ, những người viết thơ thuê, hay bất cứ ai, tất cả đều trở nên không còn quan trọng nữa. Câu thơ vang lên như một lời nhắc nhở buồn bã, bi thương cho số phận của ông thơ. Giá trị của cái đẹp đang dần bị quên lãng, như một lời cảnh báo để không để mất đi quá khứ và văn hóa, bởi đó là tinh hoa của dân tộc.
Bài thơ Ông thơ như một lời nhắc nhở cho chúng ta đừng bao giờ quên đi quá khứ, hãy trân trọng và giữ gìn những giá trị đẹp đẽ của văn hóa, tinh thần để không phải hối tiếc sau này.
Nhận xét về bài thơ Ông thơ
Đó là một thế hệ con người, một thời gian chỉ còn lại vài người. Ban đầu, đông đúc, náo nhiệt, nhưng cuối cùng, mọi thứ dần trở nên trống vắng, cô đơn...
Ông Vũ Đình Liên dừng lại, không nhìn vào tôi, ông nhìn về phía xa xăm, hút mình vào suy tư:
- Tôi cảm thấy cô đơn lắm, nghe mà đau lòng, anh ạ. Anh có cảm thấy không, khi một nhóm người mà chúng ta từng ngồi tại chỗ này, nói những câu chuyện mà chúng ta đang nói, về những năm, những tháng, những khoảnh khắc... Chúng ta vui vẻ trò chuyện, nhưng đột nhiên mọi thứ kết thúc, những năm tháng đều tan biến... Vì thế, tôi đã sẵn sàng cảm xúc, chỉ cần chọn lời để diễn đạt, mà không để phát sinh cảm xúc:
'Mỗi năm, hoa đào lại nở
Lại thấy ông thơ già đi
Giấy và mực đỏ rực
Bên phố đông người qua lại.'
Không để những câu thơ trống rỗng, chỉ gánh chịu trách nhiệm mà không làm được gì. Anh thấy tôi viết như một trò đùa ấy chứ. Và đây, đã có một bài thơ ông thơ rồi đấy. Bốn câu thơ, mỗi câu đều mang một trọng trách văn học riêng của nó. Khác với anh mở màn với một bức màn sân khấu, bức màn màu hồng hoa đào rực rỡ, để ông thơ lẻn vào giữa. Mỗi năm đều như vậy. Hoa luôn nở vào mùa, nhưng người cứ già đi theo thời gian. Do đó, chúng ta lại thấy ông thơ già đi. Ông ta không làm gì ngoài việc bày mực và giấy đỏ. Phố thì đông đúc, nhưng ông thì cô đơn. Việc bày ra là đặt cái ở trong lòng ra giữa xã hội. Vì thế, ông phải được trân trọng lắm, và chỗ ngồi của ông bên vỉa phố là một chỗ đặc biệt:
'Bao người thuê ông viết
Đều khen ngợi tài năng của ông
'Vẽ phượng múa rồng bay
Như thế là quá xuất sắc!'.'
Đó là thời kỳ hạnh phúc nhất của ông. Có nhiều người đến, có nhiều lời khen ngợi, không chỉ là lời khen ngợi rỗng rãi, mà còn đọng lại trong lòng người, im lặng, kín đáo. Đây là cao trào của thơ ca. Nó phát ra như một bông pháo hoa rồi tan rã dần. Vẽ phượng múa rồng bay là biểu tượng cho những sáng tạo tuyệt vời, sau đó lại trở về với vô vọng:
'Nhưng mỗi năm, mỗi cô đơn
Những người thuê viết ở đâu?
Giấy đỏ không còn sự tươi tắn
Mực nghiên chứa đựng nỗi buồn...'
Nhưng mỗi năm, mọi thứ cứ trở nên mờ nhạt dần. Cây rụng lá, hoa rụng cành. Thời gian là một chuyến hành trình không ngừng về phía vô tận. Ông đồ, đắn đo vài lời, vung cuống ném vào cuộc sống một câu hỏi, không ai đáp. Người thuê viết ở đâu? Hỏi thời gian? Hỏi không gian? Không, không ai cả. Hỏi lòng mình, tức là hỏi về luật lệ khắc nghiệt và đau thương. Trước câu hỏi ấy, giấy đỏ không còn sự tươi tắn, đỏ nhưng không phải là màu tươi tắn. Và mực không được sử dụng để đọng lại, mà là để viết, vậy sao lại đọng? Đọng không ngoài nghiên mà trong nghiên, vì thế nghiên cũng phải chứa đựng nỗi buồn!
Ở đây, thời kỳ tàn khốc nó rõ ràng:
'Ông đồ vẫn ngồi đấy
Không ai để ý tới
Lá vàng rơi trên tờ giấy
Ngoài kia mưa phủ đường...'
Ông đồ vẫn tiếp tục tồn tại, cứ như thế, không biết làm gì hơn. Ông ngồi đấy, dưới tấm màn mưa bụi, tức là tấm màn được dệt từ những hạt mưa nhỏ như bụi, bụi của thời gian, ném vào từng chút sóng sót của quên lãng, ông đang bị va chạm và mòn mỏi. Thôi thì, không còn gì nữa cái ông đồ ấy, ông vẫn ngồi đấy, tưởng như là một thước đo, nhưng hình bóng ấy cứ mờ dần, tan biến... cho đến khi trở thành lá, thành bụi mưa... Ngoài kia, mưa phủ đường... Anh có cảm nhận điều này không? Mưa phủ đường, mưa như thế, nhưng khắc nghiệt như thế. Nó âu yếm lấy con người, quật ngã, tàn phá, nó cũng vùi lấp và làm cho điều kia, cho đến một ngày, nó ném ta vào ký ức phai mờ...
'Mỗi năm, hoa đào lại nở
Ông đồ xưa đã đi về đâu?
Hồn những người muôn thuở
Giờ đây đã ẩn nấp ở đâu?'
Những người muôn thuở, họ không thể còn già hơn nữa. Bây giờ, họ đang ở đâu? Trong cuộc sống, cái mới không ngừng ra đời, trong khi cái cũ lại dần phai nhạt. Đó mới chính là cuộc sống của con người.
Nhận định về bài thơ Ông đồ
Vũ Đình Liên đã kết hợp hai nguồn cảm hứng: 'Tình yêu thương và tình yêu quê hương' (Hoài Thanh). Tình yêu quê hương đã khiến cho thơ ông trở nên bâng khuâng, nhớ nhung những truyền thống văn hóa dần mất, những bi kịch 'không biết tìm ở đâu' 'cảnh xưa rực rỡ trăm màu' (Hồn xưa). Còn tình yêu thương khiến cho những từ ngữ như đau đớn vì những cảnh 'đau khổ ma dại'. 'Ông đồ' - một trong những bài thơ nổi tiếng của Vũ Đình Liên thể hiện rõ sự kết hợp giữa hai nguồn cảm hứng này.
Mỗi dịp xuân về, người Việt truyền thống thường xin chữ để gửi những lời chúc, hy vọng cho năm mới. Đó là chữ nho, biểu tượng mang ý nghĩa sâu sắc. Việc học và hiểu chữ nho đã khó, viết ra một cách đẹp lại càng khó khăn hơn. Những người có tài viết chữ như thể vẽ tranh. Đầu thế kỷ XX, trên các phố phường Hà Nội, hình ảnh những người lão nghề viết chữ nho tỉ mỉ trên giấy điều để bán cho dân Hà Thành đã trở thành một phần của tác phẩm thơ đơn giản và sinh động của Vũ Đình Liên:
'Mỗi năm, hoa đào lại nở
Lại thấy ông đồ già xuất hiện
Bên mực tàu, giấy đỏ
Giữa phố đông người đi lại.'
Cấu trúc “mỗi…lại” cho thấy sự lặp lại đã trở thành một quy luật quen thuộc. Hoa đào là biểu tượng của sự chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Mỗi khi hoa đào nở lại là một dịp để nhìn thấy ông đồ già xuất hiện, ngồi viết chữ bên cạnh mực tàu và giấy đỏ trên con phố đông người đi lại. Lời thơ chứa đựng nhiều tình thương và cảm xúc. Dù chỉ chiếm một góc nhỏ trên phố đông, nhưng ông đồ lại trở thành điểm nhấn yên bình và lặng lẽ trong cuộc sống náo nhiệt xung quanh, góp phần tạo nên cái đẹp và ý nghĩa cho cuộc sống.
'Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
'Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay'.'
Từ cảnh phố đông, chúng ta chuyển sang cái không gian nhỏ nơi ông đồ ngồi viết. Câu thơ thể hiện sự sống động thông qua từ “bao nhiêu” và sự tôn trọng, ngưỡng mộ qua từ “tấm tắc ngợi khen”. Trong tư tưởng cổ truyền, chữ nho được coi là thánh thiện. Việc học chữ nho không chỉ để kiếm sống mà còn để trở thành người có ích cho xã hội. Trong bối cảnh lịch sử khó khăn của Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, việc bán chữ là một phương tiện sinh sống của nhiều người, như ông đồ trong bài thơ. Mặc dù việc bán chữ không mang lại niềm vui hay danh vọng, nhưng sự tôn trọng từ phía người khác đã làm giảm bớt phần nào gánh nặng cuộc sống của họ. Họ thuê ông viết chữ không chỉ vì tài năng của ông mà còn để tôn trọng và trân trọng cái đẹp. Hai dòng thơ tiếp theo miêu tả kỹ thuật và nét đẹp của ông đồ:
'Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay'.'
Câu thơ này gợi nhớ đến hình ảnh tương tự trong một phiên chợ tết mà Đoàn Văn Cừ đã ghi lại:
'Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân'
Khi đọc câu thơ này, ta cảm nhận như thấy trước mắt hình ảnh bàn tay mảnh mai của ông đồ uốn lượn cây bút. Từng nét chữ được tạo ra bởi động tác uyển chuyển của bút lông, như phượng múa rồng bay, mềm mại và sáng tạo. Trong từng nét chữ, ông đồ truyền đạt những khát vọng và tâm huyết của mình, khiến cho những con chữ cob trở nên sống động. Câu thơ của Vũ Đình Liên như muốn vươn lên với niềm vui trong thời kỳ đỉnh cao của sự sáng tạo.
Nếu tiếp tục theo đuổi như vậy, nhà thơ sẽ không còn gì để diễn đạt. Sự bất ngờ là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Khổ thơ thứ ba bắt đầu bằng từ “nhưng”, dự báo cho những thay đổi sắp xảy ra:
'Nhưng mỗi năm, lại thêm vắng lặng
Người thuê viết, họ đâu rồi?'
Hai từ “mỗi” lặp lại trong một câu thơ diễn tả sự thay đổi của thời gian. Nếu trước đây: “Mỗi năm hoa đào nở” đưa ông đồ già gặp “bao nhiêu người thuê viết” thì giờ đây “mỗi năm” lại “mỗi vắng”. Nhịp đi của thời gian kèm theo sự mài mòn, suy thoái. Sự kết hợp giữa “sắc” và “ắng” trong câu thứ nhất như một biểu hiện của sự hẫng hụt, chênh chao, như đôi mắt đầy băn khoăn. Câu thứ hai, tự nhiên như một câu hỏi: Những người thuê ông đồ viết chữ khi xưa đã đi đâu? Câu hỏi này vẫn còn vu vơ, không có lời giải đáp, làm cho bức tranh thêm u ám. Người thuê viết biến mất, giấy đỏ và mực thơm không còn được sử dụng nên:
'Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu'
Nỗi buồn của con người làm cho các vật trở nên u buồn. Mực sầu đọng lại trong nghiên, giấy điều phôi pha buồn không thể thắm. Sự nhân hoá nhấn mạnh tâm trạng của con người. Mực và giấy là những đồ vật gắn bó nhất với ông đồ. Quả là:
'Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Nếu trước đây, sự hiện diện của ông đồ khiến không khí và trái tim người dân sôi động. Họ chào đón ông với tất cả lòng trọng trọng, sự kính yêu. Nhưng bây giờ:
'Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay'
“Vẫn ngồi đấy” ý chỉ ông tiếp tục theo dấu hoa đào, vẫn “bày mực tàu giấy đỏ” trên con phố đông đúc lại qua tất bật chuẩn bị cho tết. Ông đợi chờ sự quan tâm, sự trân trọng từ người đời nhưng nhận lại chỉ là sự lãnh đạm đến đáng sợ. Sự kết hợp giữa sự phủ định “không ai” và nghệ thuật đảo ngữ thể hiện rõ sự lạnh lùng, thờ ơ, vô cảm của người dân. Họ vui vẻ đi lại, cười đùa mà không màng đến ông đồ, ông đã bị họ quên lãng, bị đẩy ra ngoài cuộc sống. Tình cảnh của ông đồ giống như những ông cống, ông nghề trong thơ Tú Xương:
'Nào có ra gì cái chữ nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co'
Đã chôn vùi giấc mơ vinh quang, bán chữ thánh hiền để kéo dài cuộc sống nhưng lại bị lãng quên ngay trong lúc vẫn còn tồn tại. Câu thơ phản ánh nỗi đau đớn kép của ông đồ. Người đọc cảm thấy xót xa khi thấy hình ảnh của ông giữa trời mưa bụi bay và lá vàng rơi trên trang giấy:
'Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.'
Có người đã nói: Khi con người rút lui, thiên nhiên sẽ chiếm ưu thế. Vì không còn được sử dụng, vì sự chờ đợi trong im lặng quá lâu, nên lá vàng tự do bay trên giấy. Ở đây cũng là mưa xuân, nhưng không “bay phơi phới” như trong thơ lãng mạn của Nguyễn Bính sau này. Ông đồ dường như đang bị lãng quên, dần mờ nhạt trong dòng mưa. Đến cuối cùng, bóng hình ông hoàn toàn tan biến:
'Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đò xưa'
Khổ thơ tràn ngập cảm giác thiếu vắng, mất mát. Hoa đào vẫn nở, một năm mới lại đến nhưng không còn có ông đò như xưa nữa. Ngôn ngữ thơ subtile biến đổi từ “ông đò già” chỉ về tuổi tác thành “ông đò xưa”, biến nhân vật thành 'một di tích bi kịch, đáng thương của một thời đại suy tàn” (lời của Vũ Đình Liên). Sự hiện đại, văn minh không chấp nhận ông, không đề xuất cho ông một con đường sống nên ông phải lời hẹn với hoa đào.
Bài thơ kết thúc bằng tiếng “gọi hồn” đầy xúc động của tác giả:
'Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?'
“Những người muôn năm cũ” ấy là ai? Là ông đồ, là những người thuê ông đồ viết chữ hay là một thời đã qua đi nay chỉ còn “vang bóng”? Dù gọi ai thì câu thơ vẫn đọng lại nỗi tiếc nuối, xót xa cho sự phai mờ, tàn tạ của những nét đẹp trong văn hoá cổ truyền của dân tộc. Tiếng gọi hồn đó có giống với tiếng gọi đò u hoài của ông Tú Thành Nam vang trên sông Lấp xưa không?
Sử dụng thể thơ ngũ ngôn và ngôn ngữ gợi cảm, giàu sức tạo hình, Vũ Đình Liên đã khiến cho tác phẩm của mình có dáng dấp một câu chuyện, kể về cuộc đời của một ông đồ từ khi còn được người đời trân trọng, kính yêu cho đến khi bị lãng quên. Qua hình tượng ông đồ, tác giả đã thể hiện thật xuất sắc “lòng thương người” và “tình hoài cổ” của mình.