Mytour trân trọng giới thiệu một số bài văn mẫu lớp 12: Đánh giá sự tinh tế của nghệ thuật trong Tiếng hát con tàu.
Đây là tài liệu vô cùng hữu ích với 3 bài văn mẫu đánh giá sự tinh tế của nghệ thuật trong Tiếng hát con tàu. Hy vọng rằng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh củng cố kiến thức Ngữ văn lớp 12 và chuẩn bị cho kỳ thi THPT Quốc gia sắp tới. Dưới đây là mời bạn đọc cùng tham khảo tài liệu.
Đánh giá sự tinh tế của nghệ thuật - Mẫu 1
Một trong những thành công đáng chú ý của bài thơ Tiếng hát con tàu là nghệ thuật sáng tạo hình ảnh. Có những hình ảnh được xây dựng theo phong cách tả thực, nhưng tiêu biểu là những hình ảnh – biểu tượng chứa đựng những trích dẫn triết lý sâu sắc, thể hiện đặc trưng của phong cách thơ của Chế Lan Viên.
Trong dòng chứng nhớ, những hình ảnh tả thực liên quan đến ký ức kháng chiến, là hình bóng của con người và thiên nhiên ở Tây Bắc đã khắc sâu trong tâm trí của nhà thơ: Chiếc áo nâu mà anh mặc tại đêm công đồn; Lửa hồng sáng soi tóc bạc; bản sương giăng, đèo mây phủ; Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng,… Như vậy, ký ức được tái hiện thông qua những chi tiết cụ thể.
Ngay từ tựa đề của bài thơ đã là một biểu tượng: Tiếng hát con tàu. Hình ảnh này là biểu tượng của khát vọng và niềm vui trong cuộc hành trình, xuất phát từ thực tế: trong giai đoạn 1958 – 1960, đã diễn ra một chiến dịch phát triển kinh tế tại Tây Bắc. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, không có đường tàu và con tàu nào đến Tây Bắc. Vì vậy, Tây Bắc không chỉ đại diện cho một địa danh cụ thể mà còn là biểu tượng của cuộc sống của nhân dân, là một vùng đất hứa hẹn, nơi mọi nguồn cảm hứng nghệ thuật chân chính bắt nguồn. Chúng ta còn thấy nhiều hình ảnh được xây dựng dưới hình thức ẩn dụ trong bài thơ: gió rì rào kêu; vầng trăng; trái đầu xuân; Mẹ yêu thương; Mùa nhân dân giăng lúa chín; mẹ của hồn thơ; vàng ta đau trong lửa; Gương mặt rực rỡ trong suối lớn mùa xuân,… Những hình ảnh biểu tượng kích thích sự tưởng tượng, suy ngẫm của người đọc để tạo ra những liên tưởng sâu sắc, bất ngờ. Ngoài ra, người đọc còn gặp nhiều so sánh độc đáo: ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa – Mười năm sau vẫn đủ sức sáng rạng; Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ – cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa – Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa – Chiếc nôi bỗng gặp bàn tay mở cửa; Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét – Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,… Những so sánh sinh động, liên tục, trùng điệp như vậy giúp hiện thực hóa những ý nghĩa trừu tượng: ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Pháp đối với cuộc sống của nhân dân nói chung, và với nghệ sĩ nói riêng; mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc sống của nhân dân, của đất nước; nhớ nhung, tình yêu,…
Thông qua Tiếng hát con tàu, có thể khẳng định: sức mạnh của thơ Chế Lan Viên chính là nghệ thuật tạo hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.
Phân tích đặc sắc nghệ thuật - Mẫu 2
Chế Lan Viên được biết đến là một nhà thơ lớn của thời kỳ thơ ca Việt Nam hiện đại với tập thơ “Điêu tàn”. Quãng đường thơ của ông đã trải qua nhiều biến động, đầy khó khăn trong việc tìm kiếm và khám phá không ngừng. Thơ của ông nổi bật với tính triết lý, thường xuất hiện nhiều hình ảnh độc đáo và tinh tế. Ông đã sáng tác bài thơ “Tiếng hát con tàu” như một lời ca về cái nhìn mới đối với một đất nước mới. Thời kỳ này, miền Bắc đang phục hồi kinh tế và bước vào kế hoạch 5 năm đầu tiên. Trong thời kỳ này, các nhà văn nghệ sĩ đã tự nguyện sẵn lòng đi xa xôi để tham gia vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới của nhân dân, với nhiều khó khăn và thử thách.
Chế Lan Viên viết bài thơ này để mô tả cuộc hành trình của tâm hồn theo con tàu đến với Tây Bắc, nơi có con người thân thiện. Điểm đáng chú ý về mặt nghệ thuật của bài thơ là việc xây dựng hình ảnh, đặc biệt là thông qua tựa đề và lời đề “Tiếng hát con tàu”. Tựa đề này đã mở ra một thế giới đầy màu sắc, với những âm thanh du dương, nhờ vào việc nhân hóa con tàu mà tác giả đã thành công trong việc truyền đạt tình yêu quê hương.
Bốn dòng thơ mở đầu, sáng tạo từ trái tim của nhà thơ với vùng đất ấy:
“Tây Bắc ư? Có gì đặc biệt ở Tây Bắc
Khi lòng ta đã biến những chiếc tàu
Khi Tổ quốc ồn ào lên tiếng hát
Tâm hồn ta thuộc về Tây Bắc, không gì khác”.
Khi đọc bài thơ này, ta liên tưởng ngay đến Con tàu và Tây Bắc – những biểu tượng và địa danh có ý nghĩa sâu sắc. Con tàu là biểu tượng của khát vọng đi xa, đến với những nguồn sáng nghệ thuật, nhưng cũng là biểu tượng của thực tế vào những năm 1956-1958, khi hàng vạn binh sĩ và thanh niên xung kích tham gia vào việc phục hồi tuyến đường sắt lên Lào Cai, Yên Bái. Thành công của dự án này mang ý nghĩa quan trọng. “Tây Bắc” là một vùng đất đẹp với cảnh đẹp tự nhiên, nhưng cũng rất xa xôi và nghèo nàn, là điều kiện khắc nghiệt nhất của Tổ quốc. Đây là nơi mà nhà thơ đã dày máu tâm hồn. Do đó, Tây Bắc là nơi đi và nơi trở về, trở về với nhân dân, với những kỷ niệm trong 9 năm kháng chiến. Đến lúc này, nhà thơ đã thốt lên một câu thơ rất sâu: “tâm hồn ta thuộc về Tây Bắc, không gì khác”. Điều này thể hiện sự hòa mình của tâm hồn nhà thơ với cuộc sống lớn, khiến cho bài thơ trở nên chân thành và chân chính hơn.
Trong hai khổ thơ tiếp theo, đã một lần nữa thành công áp dụng kỹ thuật tu từ:
Bạn bè đi xa, anh vẫn ở lại Hà Nội
Anh có nghe gió rì rào ngoài kia
Ngoài cửa sổ? Tàu lấp lánh dưới ánh trăng
Đất nước rộng lớn, cuộc sống anh nhỏ bé
Tàu gọi anh đi, sao chưa ra đi?
Không có thơ nào đọng lại trong lòng đóng kín
Con tim anh chờ đợi anh trên cao
Mở đầu khổ thơ là một câu hỏi phản ánh bức tranh của thời đại, chứa đựng tâm hồn chung của lịch sử, nhà thơ đã sử dụng hình ảnh tự nhiên để thức tỉnh khao khát khám phá. “Ngoài cửa sổ? Tàu lấp lánh dưới ánh trăng”. Nhà thơ giao tiếp với người khác và cũng như nhắc nhở chính bản thân. Nghệ thuật chỉ xuất hiện khi người nghệ sĩ mở rộng tâm hồn để tiếp nhận những biến động của cuộc sống. Hãy rời xa cảm giác cô đơn và hẹp hòi để kết nối với mọi người, hãy vượt ra khỏi ranh giới của cá nhân để đến với mọi người. Khao khát này luôn hiện diện trong tác phẩm của Chế Lan Viên vì tâm hồn của ông luôn mở cửa để chia sẻ với mọi người.
Kháng chiến ơi! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, vẫn đủ sức chiếu sáng con đường
Con đã ra đi nhưng còn phải tiếp tục
Để quay về và gặp lại mẹ yêu thương
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng tìm thấy sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp ánh tay đưa
Tác giả sử dụng kỹ thuật so sánh trùng điệp một cách khéo léo trong các câu thơ tiếp theo để truyền đạt một tâm trạng hạnh phúc, khao khát quay về với nhân dân và những kỷ niệm sâu sắc về tình yêu. Nhà thơ nhắc lại kháng chiến với một tâm trạng biết ơn sâu sắc. Sử dụng từ “con” trong các khổ thơ đầu tiên không chỉ thể hiện lòng kính trọng với nhân dân mà còn thể hiện tình cảm yêu thương sâu đậm. Những hình ảnh này không chỉ đẹp mắt mà còn thể hiện sự hòa mình giữa khao khát cá nhân và thực tế. “Quay về với nhân dân” không chỉ là niềm vui mà còn là sự tự nhiên hợp lý với quy luật của sự sống, với những gì tận cùng của lòng người.
Tiếp theo tác giả áp dụng nhiều kỹ thuật miêu tả thực tế khi đi từ những khái niệm trừu tượng ở các khổ thơ trên để quay về với những con người thân quen đậm đà tình thương. Nhân dân là anh, con người đó du kích với chiếc áo nâu “Cả đời chỉ biết vá rách/ Đêm cuối cùng anh lại cởi bỏ cho con”. Là anh em, “đứa em liên lạc, rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ, đó là mế với “lửa hồng soi tóc bạc” “Năm con đau mế thức một mùa dài”. Với những thông điệp “nhớ” dày đặc, bài thơ chất chứa kỷ niệm xúc động theo dòng hồi ức của nhà thơ.
Tính nghệ thuật còn phản ánh trong triết lý của các câu thơ:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Đi qua nơi nào, lòng lại không đầy yêu thương?
Khi ta ở đó, chỉ là nơi đất
Khi ta ra đi, đất đã trở thành tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như mùa đông về nhớ rét
Tình yêu của chúng ta như cánh hoa vàng
Như xuân đến, lông chim rừng lại màu biếc
Tình yêu khiến đất lạ trở nên quen thuộc như quê hương
Tác giả đã tạo ra những câu thơ đáng suy ngẫm, đáng trải nghiệm, giàu ý nghĩa về quy luật của tình cảm trong tâm hồn con người. Đoạn châm ngôn thơ này được đúc kết một cách tinh tế, sâu sắc mà vẫn mang đậm dấu ấn cá nhân, độc đáo và bất ngờ. Những miền quê xa xăm hiện hình trong màn sương và mây che phủ vẫn rất hấp dẫn, đó chính là miền đất của tác giả - miền đất yêu thương, nên thơ. Ta còn thấy tác giả nhắc đến tình yêu, một tình yêu đã biến những vùng đất xa lạ trở nên thân thuộc như quê hương của chúng ta, trở thành máu thịt của tâm hồn, nơi mà ta đã để lại những giọt máu, mồ hôi đáng trân trọng. Hình ảnh so sánh trong đoạn thơ này thấm đậm triết lý, mỗi sự vật, hiện tượng chỉ tồn tại, có ý nghĩa trong mối quan hệ gắn bó đời sống với một sự vật, hiện tượng khác, triết lí đó được rút ra từ tình cảm, cảm xúc chân thành từ trái tim của tác giả không hề khô khan mà rất tự nhiên, giản dị. Đây được coi là những câu thơ hay nhất của Chế Lan Viên.
Cuộc kháng chiến đó diễn ra tại vùng đất Tây Bắc đầy gian khổ, hy sinh, nhưng trên hết đã đặt niềm tin vào chiến thắng, và quả thật đã đạt được chiến thắng vẻ vang trong những năm tháng này và đang trên con đường của cuộc cách mạng đổi mới đất nước nên tác giả cũng truyền đạt tình cảm đặc biệt dành cho vùng đất này và chỉ đề cập để gợi nhớ về kỷ niệm tuyệt vời, tuy đau thương nhưng vẫn sâu đậm trong tác giả. Hình ảnh được nhắc đến trong mỗi câu thơ thường phong phú và tương xứng với ý nghĩa mà tác giả gửi gắm không hề nhỏ, khiến bài thơ mang một vẻ đẹp đặc biệt, đầy sâu sắc, tinh tế từng chữ, giọng điệu ngọt ngào dễ thấm vào lòng độc giả và vẫn nổi bật để bạn đọc cảm nhận.
Khi nhắc đến nhà thơ, ta ngay lập tức nghĩ đến tác phẩm 'Tiếng hát con tàu', với những phương diện nghệ thuật tuyệt vời, tác phẩm này thêm phần bay bổng với lời thơ con tàu chính là tâm hồn tuyệt vời của nhà thơ. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước, một tình quân dân keo sơn. Hơn nữa, lời thơ của Chế Lan Viên được các nhà phê bình ví như 'một người phụ nữ đẹp, ưa trang sức và biết cách trang điểm', nhà thơ thành công với phong cách sáng tạo của mình.
Phân tích về nghệ thuật đặc sắc - Mẫu 3
Là một nhà thơ lớn, thơ Chế Lan Viên đã chiếm lĩnh cả ba đỉnh cao ở ba thời kỳ tiêu biểu nhất của thơ ca Việt Nam thế kỉ XX: thời kỳ Thơ mới lãng mạn, Thơ ca Kháng chiến và thời kỳ Đổi mới sau 1986. Ông được đánh giá là một nhà thơ có phong cách đặc sắc và nổi bật.
Phong cách nghệ thuật của thơ Chế Lan Viên thể hiện qua hai đặc điểm chính: tính trí tuệ, triết lý và khả năng sáng tạo hình ảnh.
Là một nhà thơ ưa triết lý, Chế Lan Viên thường có những phát hiện sâu sắc, mới mẻ và bất ngờ về đối tượng. Thơ ông lấp lánh vẻ đẹp trí tuệ, con đường đến với người đọc của thơ Chế Lan Viên đi từ trí tuệ đến trái tim, bởi ông quan niệm 'thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh'. Tuy nhiên, trí tuệ mà không khô khan, trừu tượng; trí tuệ nhưng luôn gắn liền với cảm xúc, là thứ trí tuệ của trái tim.
Trong tập thơ 'Tiếng hát con tàu', nhiều câu thơ mang hàm lượng trí tuệ cao, được đúc kết như những triết lý, quy luật. Dưới đây là một vài ví dụ:
- Không có lời thơ nào giữa lòng bí mật, Tâm hồn ta chờ gặp ta trên kia.
- Khi ta còn ở đó, chỉ là nơi ở trên mặt đất, Khi ta ra đi, đất đã trở thành tâm hồn!
- Như mùa xuân đến, chim rừng trở nên lạnh nhạt, Tình yêu biến đất trở nên mới mẻ như quê hương.
Tính triết lý, trí tuệ kết hợp với khả năng sáng tạo hình ảnh. Chế Lan Viên thể hiện cảm nhận và suy tư về mọi vấn đề thông qua hình ảnh và thế giới nghệ thuật của thơ, một thế giới phong phú về hình tượng. Vì vậy, một số người nhận xét rằng thơ của Chế Lan Viên mang vẻ đẹp của một người phụ nữ tinh tế, sành điệu.
'Thơ không chỉ để ru mà còn để thức tỉnh'
Trong bài thơ này, có những hình ảnh tả thực, chân thực:
Chiếc áo màu nâu đã được vá rất nhiều lần
Trong đêm cuối cùng, anh đã cởi nó ra và trao cho con.
Có những bức tranh tuyệt đẹp, đầy lãng mạn:
Tình yêu của chúng ta như những bông hoa kiến vàng
Giống như khi mùa xuân đến, lông chim rừng trở nên nhạt màu.
Đôi khi, cả khổ thơ là một chuỗi các hình ảnh sóng đôi liên tiếp:
Khi con gặp lại nhân dân, giống như nai trở về nguồn suối quen
Khi cỏ mọc xanh quanh giếng, chim én trở lại trong mùa
Như đứa trẻ thơ đang khát khao, gặp nguồn sữa
Chiếc nôi đột ngột bỗng chốc, gặp vòng tay mẹ.
Và có rất nhiều hình ảnh biểu tượng, triết lý như Con tàu, Tây Bắc, vầng trăng, suối lớn mùa xuân...
Tính trí tuệ và khả năng sáng tạo hình ảnh luôn đi đôi với nhau tạo nên một vẻ đẹp đặc biệt của thơ Chế Lan Viên. Nhờ hình ảnh, trí tuệ không trở nên khô khan, trừu tượng; và nhờ trí tuệ, hình ảnh trở nên lấp lánh, đa nghĩa, sâu sắc và cuốn hút.