- - Bài thơ 'Lính đảo hát tình ca trên đảo' của Trần Đăng Khoa miêu tả cuộc sống gian khổ của các chiến sĩ trên đảo Trường Sa với sự lạc quan và tình yêu đất nước. Qua các câu thơ, tác giả phản ánh sự đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt và khó khăn, nhưng người lính vẫn giữ vững tinh thần và tạo ra những hình ảnh sống động về tình yêu và lòng tự hào quốc gia., Bài thơ miêu tả những người lính đảo sống lạc quan, mặc dù cuộc sống thiếu thốn và gian khổ. Sân khấu văn nghệ của họ đơn giản, nhưng họ biến nó thành nơi biểu diễn nghệ thuật độc đáo với những điều kiện hạn chế. Dù thiếu nước ngọt và điều kiện sống khắc nghiệt, tinh thần của họ vẫn lạc quan và yêu đời. Họ ca hát, yêu đời, và giữ vững tinh thần trong hoàn cảnh khó khăn, thể hiện tình yêu và lòng trung thành với Tổ quốc., Bài thơ 'Lính đảo hát tình ca trên đảo' của Trần Đăng Khoa miêu tả cuộc sống khó khăn của người lính trên đảo Trường Sa, nơi thời tiết khắc nghiệt và thiếu thốn. Các hình ảnh trong bài thơ thể hiện lòng dũng cảm, sự lạc quan và tinh thần hài hước của các chiến sĩ. Mặc dù thiếu nước ngọt và điều kiện sống gian khổ, họ vẫn vui vẻ và lạc quan. Đoạn kết thể hiện sự bất ngờ của tác giả khi nhận ra rằng những người lính chính là 'đá trọc đầu', biểu thị sự hy sinh thầm lặng và tinh thần kiên cường của họ., Trần Đăng Khoa sử dụng ngôn ngữ thơ giản dị nhưng sinh động để mô tả cuộc sống và con người ở đảo xa. Những hình ảnh mạnh mẽ và đầy tình yêu thương của người lính được thể hiện rõ nét, tạo nên bức tranh tinh tế và mê hoặc, giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về sự hy sinh và tinh thần của họ.
Khám phá những câu thơ đầy mặn nồng về Trường Sa, nơi mỗi hạt cát đều là biên niên sử của những chiến sĩ. Cuộc sống trên đảo với sự đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt là bài kiểm tra đầy thách thức, nhưng người lính vẫn giữ vững tinh thần, lạc quan giữa bản lề sóng biển và gió lạnh. Họ là những người lính với tâm hồn cao thượng, không chỉ bảo vệ chủ quyền quốc gia mà còn là những người yêu nước, hát lên tình ca với biển cả bao la. Cuộc sống đảo xa, gặp gỡ biển cả, và những câu chuyện tình yêu xa xôi, tất cả đều nằm trong những dòng thơ đặc sắc của Trần Đăng Khoa.
Tiếp theo là những đoạn thơ về sự khắc nghiệt của thời tiết, với đảo nhỏ giữa biển bao la là sân khấu tự nhiên. Người lính không chỉ phải đối mặt với gió lạnh, mặt trời nắng gắt, mà còn là sự biến đổi không ngừng của đảo. Cuộc sống của họ đơn sơ nhưng đầy thách thức, và họ vẫn tự hào với vẻ đẹp hùng vĩ của đảo Trường Sa. Câu chuyện tình yêu trong gió và sóng, những khó khăn của người lính, tất cả được thể hiện một cách sống động và chân thực trong từng câu thơ.
Thơ đầy hình ảnh như bức tranh, từng đường nét mô tả chân thật không khí trên đảo. Cuộc sống cơ bản, thiết thực nhưng lại mang đầy tình cảm, hài hước qua từng câu chuyện. Có những khoảnh khắc buồn vui xen lẫn, và Trần Đăng Khoa đã tài năng diễn đạt những cung bậc cảm xúc đó. Cuối cùng, câu chuyện tình yêu đậm chất người lính với những câu hỏi đầy xúc động, tạo nên một bức tranh đẹp về người lính và đảo Trường Sa.
Những đoạn thơ cuối cùng là điểm nhấn với sự hài hước và tình cảm. Tình yêu của người lính được thể hiện qua những tưởng tượng, và vẫn giữ vững sự kiên nhẫn, chờ đợi. Sự hòa mình vào thiên nhiên, chấp nhận khó khăn, và vẫn giữ vững tình yêu thương. Cuộc sống đảo xa không chỉ là cuộc sống gian khổ mà còn là nguồn cảm hứng vô tận cho những tác phẩm nghệ thuật độc đáo như bài thơ này.
Hình minh hoạ3. Tài Liệu Tham Khảo Số 2
Trần Đăng Khoa, biểu tượng thơ ca được khen ngợi với danh xưng 'Thần đồng thơ ca', đã tạo ra những tác phẩm dễ dàng chạm sâu vào tâm trí và trái tim người đọc. Trong số đó, 'Lính đảo hát tình ca trên đảo' là một kiệt tác mang đến những hình ảnh sống động về cuộc sống của người lính trên những hòn đảo sóng gió.
Ngay từ đầu bài thơ, Trần Đăng Khoa mô tả khung cảnh:
'Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà'
Ngoài đảo, mọi thứ khan hiếm, đặc biệt là nước ngọt. Sân khấu được lắp ráp tạm bợ bởi 'đá san hô', với 'cánh gà' làm từ vài tấm tôn. Chỉ trong hai câu thơ ngắn, nhà thơ đã khắc họa cuộc sống khó khăn của những người lính đảo. Cuộc sống của họ còn bị ảnh hưởng nặng nề từ thiên nhiên khắc nghiệt:
'Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi Trường Sa'
Ngôn từ thân mật như 'em', 'bọn chúng anh' thể hiện sự gắn kết giữa họ. Người lính nói nhẹ nhàng, như thể đây chỉ là một câu chuyện nhỏ nhẹ, không đáng quan tâm. Câu thơ như lời tâm sự, lời giải thích nhẹ nhàng cho tình huống. Đồng thời, nhấn mạnh vào ý chí và bản lĩnh của những người dám đối đầu với sóng to, gió lớn ở biển đảo.
Dù thiếu thốn về vật chất, thiên nhiên gian khó, người lính vẫn giữ nụ cười lạc quan:
'Gió rát mặt, Đảo luôn thay hình dáng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó. Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn'
Sống giữa biển trời bát ngát, người lính hàng ngày đối mặt với những khó khăn. Nhưng họ chẳng để tâm trí bị ảnh hưởng. Câu 'Cứ mặc nó' thể hiện tư thế bình thản, ung dung của người lính đảo. Họ dường như không lo lắng về những khó khăn, mệt mỏi nữa. Giờ đây, họ tập trung vào 'sân khấu có một không hai' - 'mây nước mở màn' với khán giả đặc biệt:
'Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm không dám dùng gội đầu
Lính già lính trẻ đều trọc tếu như nhau'
Khổ thơ bốn dòng nhưng với ba từ 'trọc', nhà thơ đã nhấn mạnh vẻ đặc trưng của chàng lính đảo. Ngoài đảo, nước ngọt quý giá. Vì vậy, họ không dám sử dụng nước để gội đầu. Từ lính mới đến lính cũ, lính già đến lính trẻ, ai ai cũng tham gia. Họ quyết định tự cắt đi mái tóc, biến thành 'chàng đầu trọc' để tiết kiệm nước sạch. Bằng giọng điệu hóm hỉnh, Trần Đăng Khoa đã mô tả một bức tranh thực tế về cuộc sống của lính đảo, khó khăn nhưng không bi quan. Ngược lại, từ những khó khăn ấy, họ tìm thấy niềm vui: 'Có khi vui thì kêu đùa sư cụ/ Là bà con xa với bụt ốc đây mà', 'Hóa ra là sư cụ hát tình ca'.
Trong không gian rộng lớn, với mây trời và sóng biển, người lính đảo trở thành 'sư cụ' tạo ra khúc hát độc đáo:
'Những giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi'
Giọng điệu mạnh mẽ, ngang tàn như gió biển, nhưng lời ca lại nhẹ nhàng, tha thiết, đầy nỗi nhớ thương. Một bản tình ca độc đáo, mới lạ, chỉ có tại người lính đảo. Họ hát với giai điệu, nhấn mạnh niềm yêu thương: 'Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo', 'Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?'. Mượn lời ca, họ khéo léo diễn đạt tình cảm chân thành: 'Rằng chúng ta là những con người/ Yêu em thủy chung hơn muối mặn/ Dù thư tình chưa biết gửi cho ai'. Người lính đảo hiện ra với tính cách lạc quan, nhí nhảnh, và tâm hồn trong sáng, giống như mọi người khác. Dù khó khăn, chàng trai ấy vẫn mang trái tim tràn đầy hạnh phúc và tình yêu đôi lứa.
Bản tình ca đằm thắm còn là lời ca hành trình về Tổ quốc thân yêu:
'Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững giữa muôn trùng sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu từ nơi này...'
Trên hết, trong trái tim đập liên tục, tình yêu đất nước vẫn nồng nàn hơn bao giờ hết. Đó là nguồn lửa thêm nhiệt huyết, là sức mạnh để người lính tiếp tục bảo vệ mỗi tấc đất của quê hương. Thông qua đó, họ khẳng định quê hương xuất phát từ những vùng đất xa xôi như thế này, thiêng liêng và độc đáo.
Bài thơ kết thúc với hình ảnh ghi nhớ:
'Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển người đâu lên đông thế
Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu...'
Khổ thơ cuối vẫn là giọng điệu hóm hỉnh, vui tươi và tếu táo giống các phần trước. Khi thủy triều rút, những tảng đá trọc nhô lên khỏi mặt nước. Điều kiện sống khó khăn như thế nào!
Bằng ngôn từ đơn giản, màu mè, 'Lính đảo hát tình ca trên đảo' là bức tranh sống động, vui tươi. Trần Đăng Khoa thông minh khi khám phá đề tài người lính từ những điều giản dị và quen thuộc. Qua tác phẩm này, chúng ta trở nên trân trọng, biết ơn đặc ân của thế hệ trước đối với đất nước.
Ảnh minh họa
3. Tài liệu tham khảo số 2
Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi (Puskin). Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình, là tiếng nói tình cảm là những rung động của trái tim con người trước cuộc đời. Ta say đắm trước áng mây hồng của buổi sớm mai bình minh hay áng mây buồn khi chiều tà khuất lối? Ta rung động trước cánh hoa đẹp lung linh kiều diễm hay những cánh đồng lúa úa tàn không sinh khí? Thơ không chỉ là những đóa hoa cao sang kiều diễm mà thơ đôi khi là những cơn gió rít lên từng hồi, là những làn sóng dồn dập vỗ về bờ cát trắng hay chỉ là những con người chân phương hiện lên đầy chất phác đến đáng yêu. Là một làn gió không mấy xa lạ, nhưng sức sống mà nhà thơ ấy thổi vào đem đến một làn gió mới mẻ gợi những rung cảm sâu xa cho người đọc. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo của nhà thơ Trần Đăng Khoa là một “bài ca” như vậy.
Thơ là cuộc hôn phối giữa con người và vũ trụ. Thơ luôn tìm về với cuộc sống, thơ ở trong cuộc sống nên “Nhà thơ tuy chẳng muốn, cũng thấy mình bị ràng buộc vào biến chuyển lịch sử”_ John Perse. Như vậy dù ý thức hay vô thức, thơ vẫn chảy trong biển lớn của cuộc đời và nhà thơ không thể đứng ngoài dòng chảy ấy. Hơn ai hết họ là người cảm nhận cuộc sống mãnh liệt nhất, tinh tế nhất. Trần Đăng khoa đứng trong dòng chảy của thời đại để cất lên những vần thơ trong trẻo bình dị mang đến sức rung cảm mãnh liệt cho người đọc. Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn về vật chất, sống với điều kiện khắc nghiệt… nhưng tâm hồn họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ cất cao lời hát của tự do của tâm hồn, bài hát của tình yêu tổ quốc tình yêu quê hương đất nước. Dù chưa biết “người thương” ở phương nào, họ vẫn khát khao và mộng tưởng, họ khẳng định tình yêu thủy chung như muối mặn của mình dẫu chưa hề biết “bóng dáng nào sẽ đến” với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.
“Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa”
Trần Đăng Khoa được biết đến là nhà thơ viết nhiều về thiếu nhi và những sáng tác của ông dành nhiều cho thiếu nhi đã tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng của ông. Nhưng điều đó không có nghĩa là những sác tác của ông ở ngoài vùng sở trường lại mờ nhạt, nghèo nàn. Nếu ta đã quen với hình ảnh chú bộ đội cụ hồ xuất thân từ những người nông dân chân chất trong bài thơ Đồng Chí của nhà thơ Chính Hữu hay những chàng thanh niên yêu nước đi theo tiếng gọi của tổ quốc trong bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cùng hát chung khúc hát về người lính, “lính đảo hát tình ca trên đảo” mang một giọng văn riêng, âm sắc riêng – thật mới mẻ và đặc sắc giữa cõi văn chương. Vẫn là những anh lính đảo sống giữa muôn trùng sóng nước thiếu thốn đủ bề mà luôn lạc quan, yêu đời. Khổ thơ đầu tiên mở ra cho ta thấy về những buổi liên hoan văn nghệ của người lính đảo. Người lính đâu chỉ có khô cằn cứng nhắc trong điều lệ, nội quy, họ cũng có lúc bay bổng, thăng hoa trong lời ca tiếng hát. Với tâm hồn lồng lộng biển khơi, yêu đời, yêu cuộc sống, người lính đã tự làm sinh động cho nhịp sống thường nhật buồn tẻ chốn hoang sơ của mình bằng những giai điệu du dương, ngang tàng chất lính. Ta đã quen với một sân khấu với dàn âm thanh ánh sáng lộng lẫy, những vũ công diễn viên xinh đẹp thì ở những người lính sân khấu của họ thật đặt biệt. Sân khấu của họ chẳng cầu kì như lẽ thường phải thế. Sân khấu của họ được kê bằng đá san hô, còn cánh gà chôn mấy tấm tôn tạm bợ. Họ trang trí nơi biểu diễn nghệ thuật bằng những thứ chẳng có tính nghệ thuật – những thứ vốn có sẵn trong cuộc sống thường ngày. Điều đó nói lên rất nhiều những thiếu thốn, gian khổ của người lính chốn biển đảo xa xôi. Đất nước mình những năm 80 còn khó khăn vất vả gấp bội phần. Những thiếu thốn ấy đã được những chàng lính yêu đời, lạc quan biện luận bằng một lí do rất chân thực. Theo lời phân trần của người lính, thì sự tạm bợ của họ không hẳn vì họ không có phông màn trang trí cho sân khấu mà vì: “chẳng phông màn nào chịu nổi gió trường sa” thật dễ thông cảm biết bao với cái lí do bất khả kháng ấy. Đọc câu thơ này của ông ta chợt nhớ đến bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:
“ Xe không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi..”
Những con người lạc quan luôn nhìn thấy trong khó khăn những điều thú vị như vật đó.
Qua sự phân trần của những người lính, người đọc mới hiểu hơn về một Trường Sa khắc nghiệt đến bội phần:
“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Lời thơ như khắc họa trong tâm trí người đọc một trường sa đầy nắng và gió. Gió mang cảm giác bỏng rát trên mặt trần, gió tùng sỏi cát như lũ chim hoang, gió làm biến đổi hình dạng của đảo mỗi ngày… hai câu thơ giàu sức gợi mang đến những những cảm nhận có phần khá lạ lẫm trong lòng người đọc về thiên nhiên trường sa, bởi không phải ai cũng từng được trải nghiệm sức mạnh khủng khiếp của nắng gió nơi đây. Cuộc sống mỗi ngày phải đối diện với khó khăn, vất vả thế nhưng thật thú vị, người lính nói về điều đó một cách thản nhiên, bình thản như đó là một phần hương vị của cuộc sống, không có gì đáng bận tâm. Họ không lấy điều đó làm phiền, ngược lại họ vẫn sống lạc quan yêu đời.
“Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Người lính bỏ lại tất cả sau lưng những khó khăn để vui sống mỗi ngày. Niềm vui ấy là cùng các chiến hữu cất cao lời hát, niềm vui ấy không cầu kì mà đậm chất lính. Sự phối hợp hài hòa đối lập nhau giữa hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt trong những câu thơ trên và tâm hồn phơi phới của những chàng lính là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Trần đăng khoa đã mượn gian nan, khắc nghiệt của cuộc sống làm đòn bẩy nâng cao vẻ đẹp tinh thần lạc quan, yêu đời của những người lính. Cách nói mây nước mở màn của nhà thơ thật lạ, thật thú vị. Màn ở đây là màn sân khấu. Sân khấu đứng giữa đất trời mênh mông nên mấy nước mở màn là một liên tưởng độc đáo. Sân khấu ấy thiếu phông màn vải vóc sặc sỡ, được thay bằng mây nước biển khơi.
“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh
Hóa ra là sư cụ hát tình ca”
Sự khắc nghiệt của thiên nhiên không chỉ cản trở người lính trong hoạt động nghệ thuật nữa mà còn khiến cho những người lính ấy phải cạo trọc đầu để chống chọi lại sự thiếu thốn ấy. Ở nơi biển đảo hẻo lánh ấy thứ còn quý hơn vàng có lẽ là nước ngọt. Một tài nguyên ta cho là tầm thường và hiện hữu quanh ta nên ta chẳng biết quý trọng. Chỉ khi ta đặt mình vào vị trí của những người lính ấy bốn bể đèo là cát trắng và nước biển mặn chát là gió rít từng hồi rát cả da thịt… ta mới hiểu được câu thơ “Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc” những anh chàng đầu trọc khiến ta liên tưởng tới những người lính đầu trọc trong Tây Tiến của Quang Dũng:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm…”
Đều là những khó khăn xuất phát từ hoàn cảnh, nhưng ý chí kiên cường của người lính có lẽ còn cứng rắn hơn bất kì thứ gì khác. Diễn viên và khán giả ở đây đều là những anh chàng “trọc đầu” trông thật tếu. Những người thanh niên ấy đã hi sinh tuổi trẻ, thanh xuân của mình để bám trụ lại nơi địa cùng tổ quốc để giữ yên từng tấc đất nơi đây. Họ cũng như chúng ta, họ cũng biết làm đẹp cho bản thân chứ, ai lại muốn “đầu trọc” bao giờ, nhưng bởi vì nước ngọt ở đảo trường sa ấy còn khan hiếm lắm đâu chỉ dùng để tắm gội thôi đâu mà còn để uống để sinh hoạt nấu nướng.Điều kiện sống của những người làm nhiệm vụ ở Trường Sa còn có quá nhiều thiếu thốn, gian khổ, đến mức khắc nghiệt. Cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ ở đây còn nhiều khó khăn: thiếu nước ngọt, thiếu rau xanh, thiếu văn công và các hoạt động nghệ thuật. Nhưng, ở nơi đầu sóng ngọn gió, hàng ngày, thậm chí hàng giờ, những người lính canh biển luôn trong tư thế sẵn sàng. Không có sự yếu lòng trước những thử thách của cuộc sống. Khó khăn vất vả là vậy tình đồng chí đồng đội luôn thắp sáng và sưởi ấm con tim của những người cầm súng bảo vệ nơi đầu sóng. Họ biết yêu thương nhau, tạo niềm vui cho cuộc sống của mình. Họ cùng nhau lắng nghe khúc tình ca của biển cả, những cơn sóng ôm ấp chồng lên nhau tạo nên một giai điệu rất riêng mà có lẽ chỉ những người sống trên vùng đất này mới cảm nhận hết được vẻ đẹp này. Biển hiền hòa êm dịu, biển êm đềm khúc hát…. mãi mãi khúc tình ca. Con người và thiên nhiên hòa làm một, con người là trung tâm của vũ trụ và thiên nhiên là nền trời cho con người tỏa sáng. Khúc hát rì rầm ấy khi nghe người ta cũng chẳng biết được là trái tim của người lính đang thổn thức hay là lời thì thầm của biển cả.
Hơn bao giờ hết, bản tình ca này đặc biệt hơn thế:
“Các giai điệu ngang tàng như gió biển
Những lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…”
Đâu chỉ những nốt nhạc mới làm nên giai điệu, đôi khi chỉ là tiếng du dương rầm rì của sóng vỗ lao xao của gió biển lay đưa hàng dừa ….. chúng hòa trộn vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng đậm hương vị mặn mà của biển. Nói đến giai điệu, chắc hẳn ai cũng nghĩ rằng nó sẽ là sự êm ả vui tai, nhẹ nhàng mà trầm lắng nhưng với Trần Đăng Khoa giai điệu được ví ngang tàng như sóng biển. Lời ca ấy không chỉ là yêu đời, một tinh thần lạc quan mà còn chứa đựng một nỗi nhớ và tình thương sâu nặng. Lời ca nào mà chẳng có tình yêu, huống chi đó là lời ca xuất phát từ con tim của người chiến sĩ. Làm nhiệm vụ xa nhà chắc hẳn các anh rất nhớ đất liền. Nhưng tạm gác lại nỗi nhớ nhiệm vụ mà các anh gánh vác trên vai còn cao cả hơn thế. Đêm buông xuống, màn nhung đen phủ kín bầu trời chẳng còn nhìn rõ được gì nữa. Chỉ có tiếng hát là vang vọng mãi biển xa. Tiếng vỏ ốc va vào nhau sau từng đợt sóng được nhà thơ nhân hóa lên thành vỏ ốc cất lời làm cho lời như sống dậy, sinh động hơn.
“Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình
Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước”
Ở độ tuổi đẹp nhất đời người, đôi mươi sung sức có lẽ các anh chiến sĩ nơi đây cô đơn lắm vì chẳng ở gần người thương. Họ ao ước vào những đêm trăng sáng, được nắm tay người mình yêu đi dạo, được ngắm nhìn khuôn mặt dịu dàng của em dưới ánh sáng lấp ló qua hàng cây… thật lung linh tuyệt đẹp. Nhưng khi mở mắt ra, mọi ao ước đều ảo mộng mơ phai, chỉ nghe bên tai tiếng sóng vỗ rì rào. Và tay mình lại nắm lấy chính tay mình. Khó khăn cô đơn là thế nhưng họ vẫn rất lạc quan, họ vẫn mong chờ người mình yêu đang ở một nơi nào đó đợi mình. Người ấy ở đâu, như thế nào cũng chẳng biết nữa chỉ biết là khi mở mắt ra, bốn phía bao quanh mình đều là mây nước lồng lộng.
“Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”
Dù ở hoàn cảnh nào, dù gặp khó khăn gì họ vẫn cất cao tiếng hát của tâm hồn, một tâm hồn cao cả và đa cảm. Dù chưa biết mai này mình sẽ yêu ai, chưa biết chủ nhân của bức thư tình là người nào nhưng các anh vẫn trung trinh một tấm lòng chung thủy. Lời hát cất lên như một lời thề son sắt, tình yêu vẫn còn trong tim dù là đứng trong đêm tối mịt mù tình yêu sẽ là ánh sáng dẫn đường , các anh vẫn sẽ ở đây, bảo vệ cho khoảng trời thân yêu này bởi Việt Nam bắt đầu tại nơi đây. Điệp lại cấu trúc thơ: “Nào hát lên; Rằng chúng ta, Rằng tình yêu”. Phép điệp cấu trúc giúp hai khổ thơ liên kết gần gũi, dễ đọc dễ nhớ giống đoạn điệp khúc của một bài hát.
“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”
Khúc tình ca ấy vẫn mãi ngân vang, bỗng chững lại như một bản nhạc đang cao trào lên quãng 8 thì trầm xuống đến lắng đọng lòng người. Cảm xúc thăng hoa của tác giả như gặp điều gì đó bỗng trầm lắng xuống. Ngoài mép biển kia có gì đáng để nhà thơ phân tâm. Kết thúc bài thơ là một câu cảm thán dùng ngữ khí bất ngờ, đặc biệt: “Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”, thể hiện thái độ bất ngờ về sự xuất hiện của những người lính đảo. Họ được ví như những hòn đá, chịu nắng chịu mưa để bảo vệ cho an nguy tổ quốc. Họ hi sinh thầm lặng, gạt bỏ những nỗi lòng riêng để cùng phục vụ cho một mục đích cao cả hơn hết đó chính là sự yên bình của đất nước nơi đầu sóng ngọn gió.
Với ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên pha chút đùa vui hóm hỉnh, những hình ảnh so sánh đối lập khác lạ. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là một bài ca hùng tráng về người chiến sĩ hải quân ở Trường Sa. Qua vài nét phác họa đơn sơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa ta có thể cảm nhận được những khó khăn, vất vả, thiếu thốn của người lính nơi biển đảo xa xôi ấy cũng như vẻ đẹp của tinh thần bất khuất, lạc quan yêu đời của họ. Tình cảm ưu ái và ngưỡng mộ của nhà thơ Trần Đăng Khoa dành cho họ cũng theo lời thơ mà bộc một cách tự nhiên, chân thành.
Ảnh minh họa
4. Tài liệu tham khảo số 5
Dòng thơ của Trần Đăng Khoa về biển đảo và chiến sĩ, được độc giả đón nhận nồng nhiệt: Tự tình người lính biển, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài,... và dưới đây là bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo. Bài thơ đặt ra hình ảnh rất riêng, vừa tươi vui, hóm hỉnh nhưng không thiếu cảm xúc, sâu lắng về cuộc sống của người lính ở những đảo xa xôi. Nhờ đó, tác phẩm chạm vào lòng người sâu sắc, kiên cường suốt mấy chục năm qua.
Khổ đầu trong bài thơ miêu tả về khắc nghiệt của thời tiết ở quần đảo Trường Sa, với nắng gió gay gắt. Cả sân khấu được dựng giữa bể biển bao la phải chịu khó và độc đáo để chống lại gió mạnh, cuồn cuộn vào khuôn mặt con người. Sân khấu lên từ đá san hô, cánh gà được làm từ tôn, tất cả chỉ là giải pháp tạm thời, vì không có màn chống gió nào chịu nổi áp lực của gió biển đảo:
Đá san hô làm nền sân khấu
Vài tấm tôn lợp mái
Đừng trách chúng tôi, chúng tôi chỉ tạm thời
Không có màn chống gió nào chịu nổi gió Trường Sa.
Nhưng điều thú vị nhất lại nằm ở khổ thơ thứ hai. Ở đây, sự đối lập giữa thời tiết khắc nghiệt và lòng dũng cảm, lạc quan của người lính trở nên rõ nét. “Gió rát mặt”, “sỏi cát bay như lũ chim hoang”, thuỷ triều lên xuống không ngừng tạo nên một hình ảnh của một vùng đất đầy khó khăn, thách thức đối với người lính. Tuy nhiên, họ vẫn kiên định, lãng mạn và hào sảng:
Gió rát mặt, Đảo luôn thay đổi
Sỏi cát bay như đàn chim hoang
Chấp nhận thôi! Hỡi các đồng đội
Chúng ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn...
Từ “mây nước đã mở màn”, hình tượng của người lính đảo hiện lên vô cùng độc đáo, hài hước qua bề ngoài nhưng vẫn mang đẹp tâm hồn, tạo nên một giọng thơ hài hước, đùa nghịch nhưng lại gửi gắm cảm xúc sâu lắng trong trái tim người đọc.
Cuộc sống trên đảo Trường Sa khắc nghiệt, gian khổ “đến một cái cây cũng không sống được”, khiến cho người lính phải thích nghi với môi trường. Điều khan hiếm nhất là nước ngọt, nên họ thường phải cạo trọc đầu để giảm bớt sự khó chịu khi không có nước gội đầu, khiến cho “lính trẻ, lính già đều trọc tóc như nhau”. Đọc đến đây, ai cũng sẽ liên tưởng đến hình ảnh của người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, cũng trọc tóc và có vẻ “bặm trợn” khác thường giữa cuộc sống núi rừng miền Tây Bắc khắc nghiệt: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùng”:
Sân khấu động đậy, mấy anh đều trọc đầu
Người xem đứng coi... vốn trọc đầu
Nước ngọt ít, gội đầu thì không có
Lính trẻ, lính già đều trọc tóc như nhau.
Họ đặt cho nhau biệt danh như “sư cụ”, “bà con xa xôi với bụt ốc”, tạo nên không khí vui nhộn với cảnh tượng “sư cụ hát tình ca” mang đầy duyên và “sóng sánh”! Thực tế, chính cuộc sống gian khổ giữa đại dương bao la, nơi đảo nổi, đảo chìm của Tổ quốc, đã giúp Trần Đăng Khoa có nguồn cảm hứng chân thật và sâu sắc. Đọc thơ này, người đọc không chỉ hiểu sâu hơn về cuộc sống của người lính Trường Sa mà còn cảm nhận được tâm hồn của họ, đồng cảm và xúc động. Đúng với giọng thơ phớt đời, hóm hỉnh là chỗ đau lòng và khóc nhè mắt của người đọc:
Điệu tình ca ngân lên, vút cao
Bỗng nhiên nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người nào nổi lên đông đúc?
Ô, thì ra toàn những đá trọc đầu....
Trình bày hình minh hoạ
5. Tài liệu tham khảo số 4
Nếu nói về những chữ viết như tinh hoa nghệ thuật, thì những nhà thơ chính là những nghệ sĩ tài năng, sử dụng ngôn ngữ để khắc họa những bức tranh tuyệt vời. Trần Đăng Khoa, một nghệ sĩ xuất sắc, đã sáng tạo qua bài thơ 'Lính đảo hát bài ca trên đảo', nơi mà cảnh đẹp và con người được mô tả rực rỡ. Sự đẹp đẽ này không chỉ làm nổi bật nhiệm vụ thiêng liêng bảo vệ đất đảo mà còn làm thấy rõ khó khăn của cuộc sống giữa biển cả.
“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Ngay từ đoạn mở đầu, chúng ta cảm nhận được sự khắc nghiệt của cuộc sống trên hải đảo. Nơi đây, ánh nắng và cơn gió xuất hiện liên tục, đảo thay đổi hình dạng nhưng không bao giờ dừng lại. Trong bối cảnh này, những đám chim hoang đang vút cánh tạo thêm phần hoang sơ. Cuộc sống hàng ngày của những con người ở đây phải đối mặt với những thách thức khó khăn. Tuy nhiên, họ trở nên quen thuộc và bình tâm trước những khó khăn đó. Trong khung cảnh sa mạc, sức mạnh và quyết tâm của những người lính tạo nên bức tranh với gam màu vàng và xanh rực rỡ. Họ lạc quan, động viên nhau vượt qua mọi khó khăn, bởi với họ, chỉ cần có 'chiến hữu' là đủ, không còn khó khăn mà chỉ còn niềm vui và những trải nghiệm thú vị. So sánh mây nước với một buổi biểu diễn, màn trình diễn lơ lửng giữa đất trời là một cách diễn đạt độc đáo và thú vị từ tác giả.
“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh
Hóa ra là sư cụ hát tình ca”
Đoạn thơ tiếp theo vẫn là hình ảnh khắc nghiệt của thiên nhiên trên hải đảo. Không chỉ có cát nặng làm hoạt động của những người lính trở nên khó khăn, mà nó còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khỏe của họ. Những người lính hiện lên với hình ảnh đều trọc đầu, bao gồm cả trẻ và già. Điều này xuất phát từ việc họ tự cạo tóc để tiết kiệm nước trong khi vệ sinh cá nhân. Tại đây, nước là tài nguyên quý báu và cần phải được sử dụng tiết kiệm. Những người lính này tỏ ra đoàn kết và hài hước, không chỉ là đồng chí mà còn như những người anh em chia sẻ khó khăn, tạo nên một không khí như trong một gia đình. Cuối đoạn thơ, bài hát vang lên với giai điệu nhẹ nhàng như sóng biển. Đó chính là sức hút khi con người và thiên nhiên hoà quyện vào nhau, khi biển và đảo hòa mình vào khúc tình ca.
“Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…
Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình
Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước
Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”
Giọng hát giống như con người, những người lính cất lên giọng hát đầy mạnh mẽ, đúng với tinh thần chiến sĩ. Mặc dù giai điệu là những khúc tình lãng mạn, nhưng lời ca phản ánh sự yêu đời, lạc quan, và khao khát tình yêu của những người lính trẻ. Trong đêm ấy, họ tạm gác lại mọi gánh nặng, chỉ còn là những chàng trai trẻ đầy khát khao, mong chờ. Các hình ảnh tiếp theo đều là những ước mơ về một tương lai hạnh phúc. Rời xa hiện thực, mọi người như lạc vào thế giới của biển đảo, những vật thể của đất biển. Hai câu thơ cuối cùng, “Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió/Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này” như một lời tuyên thệ. Họ sẽ luôn đứng đó, bảo vệ từng phần đất nhỏ. Bởi sự hòa bình, một đất nước toàn vẹn bắt đầu từ sự bình yên trên hải đảo xa xôi.
“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”
Sau đoạn hát đầy cảm xúc, tác giả tựa như bay bổng trong những từ ngữ. Bỗng nhiên, “bàng hoàng” nhìn lại, như thể có điều gì đó kích thích tác giả. Hóa ra, đó chỉ là những 'đầu trọc' của đồng đội, như một cách nhắc nhở về hiện thực và trách nhiệm của họ. Mặc dù, khi đọc đến đây, độc giả khó mà cảm nhận được sự không thoải mái của những người lính. Họ cam lòng làm tất cả vì đất nước yêu dấu.
Với ngôn ngữ thơ giản dị nhưng đầy hình ảnh sinh động, Trần Đăng Khoa đã sử dụng nhiều từ ngữ mô tả để làm cho người đọc hiểu rõ hơn về cuộc sống và con người ở vùng đảo xa xôi. Hình ảnh những con người mạnh mẽ, đầy tinh thần và tình yêu thương trở nên sống động. Cách tác giả mô tả như một bức tranh, chúng ta có thể tưởng tượng được họ, với vẻ đẹp tinh tế và đầy mê hoặc!
Trình diễn hình ảnh đặc sắc