Câu chuyện về vua Quang Trung đại phá quân Thanh đã trở nên rất quen thuộc trong dân gian Việt Nam. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết rằng nhiều chi tiết trong câu chuyện này không được lấy từ nguồn sử sách trực tiếp.
Đó là vì nhiều thông tin về sự kiện đại phá quân Thanh thường được lấy từ một tác phẩm văn học, cuốn sách mang tên Hoàng Lê Nhất Thống Chí của dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, Hà Nội. Để hiểu rõ hơn về sự kiện này, việc đọc lại sách này là cần thiết.
Tuy nhiên, mục đích của tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí không phải là viết về chiến thắng của Quang Trung. Ai muốn tìm hiểu, hãy đọc lại đoạn mở đầu của cuốn sách để hiểu rõ hơn về nội dung của tác phẩm.
Trận Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh thất bại
Rời Thăng Long, Chiêu Thống lẩn ra ngoài.
Rõ ràng, theo tác giả, đây là một đoạn trích kể về vua Lê, ông nhìn từ góc độ của vua Lê, tuân thủ tinh thần 'Hoàng Lê thống nhất'. Do đó, trong đoạn trích này của tiểu thuyết, ai được gọi là 'vua' phải là Lê Chiêu Thống, nếu có quân đội được gọi là 'nghĩa binh' (quân chính thống) thì đó chỉ có thể là 'quân đội nhà Lê (trong khi lực lượng thực sự gọi là binh lính, quân lính của Tây Sơn không có từ 'nghĩa' bên cạnh).
Ở cuối đoạn trích, tác giả cũng ghi lại cuộc gặp giữa mẹ con vua Lê với người thổ hào tại một sơn trại ở vùng Hòa Lạc. Đây không phải là một tình huống hài hước, mà là một bức tranh về lòng hiếu thảo, trung trực của vua dù gặp khó khăn.
Trong đoạn này, có cả niềm vui và nỗi buồn, cả bữa cơm gà dành cho vua mà vội vàng thết đãi, cả con đường rút chạy của vua... tác giả muốn nhấn mạnh: mặc dù triều đại đã suy tàn, lòng người vẫn còn, và dù vua Lê gặp khó khăn, lòng trung thành vẫn còn trong con người...
Ý là, về mặt chính trị, tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí ủng hộ phong trào Tây Sơn. Nhưng họ Ngô đã không thể đánh bại chính họ. Tình yêu chính trị không thể thắng lợi trước sự thật và lòng trung thành. Tình cảm chính trị không thể chi phối văn chương.
Có lẽ người viết Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí đã không ngờ rằng, với tác phẩm nghệ thuật này, họ đang viết một bản án cho chính chế độ mà họ luôn kính trọng? Và liệu Lê Chiêu Thống có nhận ra rằng họ đang sáng tác một khúc ca dành cho những người kết thúc số phận lịch sử của nhà Lê.
Điều đó là sự thật. Một sự thật rất thú vị khi ta tiếp nhận, thưởng thức và suy ngẫm về tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Tuy nhiên, tác giả của những trang viết này là một nhà văn, một nghệ sĩ. Tư cách nghệ sĩ không cho phép ông kể sự thật một cách phiến diện, đơn giản. Câu chuyện bắt đầu từ phía ngược lại.
Đội quân xâm lược nhà Thanh thường được mô tả như một đạo quân hung dữ, với sức mạnh lay chuyển, phá hủy, không gì có thể đối đầu: 'Khi Tôn Sĩ Nghị dẫn quân ra cửa ải, vượt rừng, qua núi như đi trên đất bằng, ngày đêm không lo lắng, tiến thẳng đến Thăng Long, không mất một mũi tên, như đi vào nơi không người.' Đối mặt với một đạo quân như vậy, như chống lại một đạo binh, không có gì khác ngoài việc trứng chọi đá. Hơn nữa, tác giả còn thêm vào: 'Chưa bao giờ những người cầm quân được dễ dàng như vậy.'
Nhưng sự dễ dàng đó lại khiến những người có kinh nghiệm, biết suy luận phải nghi ngờ. Từ lâu, con người đã biết rằng mọi thứ đều có thể thay đổi đến mức cần thiết. 'Cùng tắc biến' (đến tận cùng, mọi thứ phải thay đổi). Nhưng biến chuyển theo chiều ngược lại.
Và mầm mống của sự biến đó, tác giả không để người đọc phải chờ đợi lâu. Cổ nhân từ xa xưa đã dạy: 'Thắng không kiêu', Nhưng quân đội của Tôn Sĩ Nghị chưa từng thắng trận nào mà không vội vã kiêu ngạo: 'Các binh lính rời khỏi đội ngũ, lang thang, không có kỷ luật ... Các tướng tá hàng ngày cứ tổ chức tiệc tùng, không quan tâm đến quân lính.' Mầm mống của sự thất bại đã nảy nở từ đó.
Bằng những lời của một người cung nhân từ phủ Trường Yên, câu chuyện trở nên rõ ràng hơn. Không biết những lời này có chính xác và sâu sắc đến đâu về mặt lịch sử, nhưng về mặt văn học, chi tiết này thực sự hấp dẫn. Không chỉ vì những lời của người cung nhân đã phác họa ra chiến thắng của vua Lê, mà còn vì mối nguy hiểm đối với triều đình Lê đã như một ngọn lửa âm ỉ bên trong bức tường lâu đài.
Những lời đó không chỉ tạo ấn tượng về một Nguyễn Huệ bách thắng, một Nguyễn Huệ kiêu hùng, từ trước khi hắn xuất hiện trên trang sách: Hắn di chuyển từ Bắc vào Nam, tựa như một pháp sư, không ai có thể dự đoán được. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn ...
Khi hắn tháo gươm, ánh mắt của mọi người đều trở nên bối rối, sợ hơn cả sấm chớp. Họ lo sợ rằng không lâu nữa hắn sẽ trở lại, và tổng đốc Tôn sẽ đưa ra quân đánh lại, nhưng địch làm sao mà đối phó? Âm thanh của một chiến thắng hùng vĩ dường như đã truyền lên từ lời cảnh báo của người cung nhân.
Thú vị về phần văn hóa trong câu chuyện của người cung nhân có thể được nhìn thấy từ điều này: Một phụ nữ tầm thường, bị vua ruồng bỏ, xa cung cấm đã lâu, nhưng vẫn hiểu biết về binh tình nhiều hơn cả một Thái hậu 'mẫu nghi thiên hạ' cao sang, quyền quý. Khi bà Thái hậu kể chuyện cho vua, vua nói với Tôn Sĩ Nghĩ, chúng ta vỡ lẽ: những người nắm quyền binh sự kiêu căng kia, không hiểu biết về phụ nữ!
Vậy là một phụ nữ vô danh đã có khả năng mở ra một thế giới triều đình, vua quan, tướng tá về chiến lược, tình hình, cách quản lý quân đội. Lời của người cung nhân đã khiến Thái hậu phải 'sửng sốt' và vua Lê 'kinh hãi'. Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí nhận ra và muốn chúng ta hiểu rằng: Không gì có thể biến những kẻ yếu đuối kia thành người mạnh mẽ trong tinh thần và hành động.
Bọn họ chẳng làm gì, dù có lo lắng, có giận dữ và trách mắng nhau. Vì lo sợ và những lời la mắng cũng chỉ kéo qua. Và họ tiếp tục nằm lười ra trên giường, tự đấu tranh trong ý nghĩ: 'Cần phải suy nghĩ cẩn thận, không nên hành động vội vã và chờ đến mùa xuân, vào ngày mùng sáu sẽ ra quân, thế là cũng không còn lâu nữa'...
Nhà văn đã cho chúng ta thấy một dấu hiệu của sự suy tàn khác của triều đình Lê Chiêu Thống. Đó là bản chất của một chế độ không còn khả năng hành động, không có đủ sức mạnh, ý chí và quyết tâm để thực hiện điều đó. Trong khi những kẻ cướp nước bán nước đang lãng phí thời gian, rải rác điều đó trong sự kiêu căng và lười biếng, người anh hùng Tây Sơn lại nhanh chóng thực hiện một loạt nhiệm vụ khổng lồ.
Thực sự, nếu quân Thanh không hành động trong khi quân Tây Sơn đang chuẩn bị mỗi ngày. Phía quân Thanh yên lặng và đứng yên: Ngược lại, phía Tây Sơn thì tình hình thay đổi từng ngày. Điều này không phải là tình cờ, khi truyện chuyển sang thời gian tiếp theo, liên tiếp: 'Ngày 20 tháng ấy (tháng 11 âm lịch, năm Mậu Thân 1788). Khi rút lui về Tam Điệp, vào ngày 24 Tuyết, họ đã đến Phú Xuân'.
Chỉ một tháng sau, Nguyễn Huệ đã hoàn thành mọi việc, 'ra lệnh xuất quân, vào ngày 25 tháng chạp'. Bốn ngày sau đó 'vào ngày 29, họ đến Nghệ An'. Hơn mười nghìn quân lính được chọn lựa ngay sau đó, được sắp xếp gọn gàng. Cuối cùng, vào ngày 30. Quân đã đến Tam Điệp và vào buổi tối của ngày đó, năm vị anh hùng đầy mạnh mẽ đã đổ dồn lên Bắc Hà, sau khi đã kịp tổ chức tiệc khao quân, ăn Tết trước.
Chúng ta đang chứng kiến văn chương của Hoàng Lê Nhất Thống Chí như một chiếc máy hoạt động ở công suất tối đa, một hơi thở mạnh mẽ, nhanh chóng, một dòng máu chảy mạnh mẽ trong suối huyết, một sức sống đầy năng lượng, phấn chấn. Tác giả của Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí thuộc về một dòng họ danh giá nhất ở miền Bắc. Trong khi Nguyễn Huệ có nguồn gốc từ người mặc áo ở miền Trung.
Tuy vậy, văn phái Ngô gia không vội vã xem lãnh tụ Tây Sơn như một kẻ võ biện, một nông dân thiếu học. Ngược lại, con trai của Ngô Thì vượt qua nhiều định kiến để tiết lộ sự thật về một Quang Trung hiểu biết và thông minh. Hãy lắng nghe một lời khích lệ của Hoàng đế Quang Trung trong cuộc duyệt binh lớn tại Nghệ An.
Chúng ta đã nhận ra từ những lời van này, bản chất cao quý của một nhà lãnh đạo, giọng nói an ủi của một vị tướng, và sự bất khuất, tự hào của một người lãnh đạo. Chắc chắn chỉ có trí tuệ và lòng dũng cảm mới có thể hiểu và biểu hiện được những phẩm chất ấy trong một bài nói diễn cảm.
Tuy nhiên, tác giả dần dần làm cho chúng ta hiểu rằng hai loại tự tin đó rất khác nhau. Tự tin của quân Thanh là tự tin kiêu ngạo và mù quáng, không biết gì về đối thủ, không hiểu gì về tình hình. Trong khi tự tin của Tây Sơn được đảm bảo thông qua sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ lực lượng đến chiến thuật. Vì vậy, khi chiến dịch bắt đầu, đó là cuộc đối đầu giữa sự anh dũng và hoảng loạn.
Chiến dịch kỳ diệu ấy, trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, được kể lại bằng ngôn ngữ bình thường của truyện, của văn xuôi. Và dù không dài, khi in vào sách giáo khoa, nó vẫn là những trang giấy quý giá, vì nó ghi lại không chỉ sự thật mà còn làm cho chiến thắng hôm nay trở nên sống động nhất trong lịch sử Việt Nam.
Người đọc có thể dễ dàng hình dung ra một chuỗi trận đánh liên tiếp, mỗi trận đều hùng tráng và đặc biệt, không giống nhau. Có trận đánh ở hai sông, sông Gián và sông Thanh Quyết, từ 'Nghĩa binh' của Lê Chiêu Thống đến sự hoảng sợ của quân Thanh khi gặp quân Tây Sơn và phải tháo chạy, bị bắt một cách dễ dàng.
Trận Hà Hồi chứng kiến sức mạnh vượt trội của binh uy vua Quang Trung, đủ để khiến đồn trúng dẫn lên. Quân Thanh chỉ còn chống cự một lần tại Ngọc Hồi, nhưng sự kháng cự đó yếu ớt và ngắn ngủi. Chúng bắn không trúng mục tiêu và tự mình phải hứng chịu hỏa lực khi gió đổi hướng.
Hoàng Lê Nhất Thống Chí nhấn mạnh sự khác biệt to lớn giữa Tôn Sĩ Nghị - Lê Chiêu Thống và Quang Trung. Với quân Thanh, vũ khí chỉ là cái trang trí, không gì khác ngoài việc tự mình tự đốt.
Ngược lại, với quân Tây Sơn, thậm chí cả những vật dụng hàng ngày như ván, rơm cũng trở thành vũ khí. Quân Thanh chỉ cần chạy thôi cũng đủ chết hàng vạn người. Trận Ngọc Hồi, đội quân xung kích của Quang Trung chỉ khoảng sáu trăm người nhưng vẫn phá được tuyến phòng thủ mạnh nhất.
Điều quân cướp nước và bán nước có là vũ khí đông đảo nhưng không có ý chí chiến đấu, tinh thần sẵn sàng cho chiến đấu. Tác giả thể hiện sự hèn nhát của chúng qua việc không lo lắng về bất trắc cho đến khi lửa cháy lên.
Tác giả rõ ràng chỉ ra sự hèn nhát của quân cướp nước và bán nước trong Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê Nhất Thống Chí, để ghi lại cho muôn đời sau chê cười họ.
Các chi tiết cụ thể, sinh động mà được nêu ra ở đây, thật sự hùng hồn hơn bất kỳ lời nghị luận nào. Quang Trung, dù là vua, nhưng vẫn tự mình cưỡi voi dẫn quân. Trong khi đó, Tôn Sĩ Nghị, dù làm tổng chỉ huy, nhưng đã sợ hãi tháo chạy trước khi xung trận, đến mức 'Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp'.
Quân lính dưới quyền chỉ biết chạy theo, không có ý chí chiến đấu, và cuối cùng, họ phải chịu đòn trừng phạt. Quân Thanh chạy mà chết nhiều đến mức một dòng sông lớn như Nhị Hà còn phải tắc nghẽn, không chảy được. Mẹ con vua Lê phải bỏ rơi, vượt sông bằng thuyền, leo đào mới gặp được Tôn Sĩ Nghị, và họ phải tỏ ra biết ơn: 'Đều là ơn của tướng quân ban cho!'.
Tác giả của Hoàng Lê Nhất Thống Chí phải công nhận rằng sức mạnh duy nhất trong trận chiến chỉ có thể tìm thấy ở quân đội Tây Sơn, sức mạnh đó bắt nguồn từ nhân dân. Họ sử dụng ván phủ rơm dấp nước để tạo thành lá chắn, thành tường chống đạn, một sự khôn ngoan đầy kỳ lạ mà không thể tìm thấy ở bọn quý tộc, quyền quý.
Và sự phấn khích, đồng lòng của muôn dân, không ngại khó nhọc, không tiếc hi sinh, đó chính là nguồn lửa rực rỡ bùng cháy từ tinh thần yêu nước của quần chúng. Sức mạnh vô song của nhân dân cộng với trí tuệ xuất chúng của người lãnh đạo đã khiến đội quân của họ, những người mặc áo vải bình thường, trở nên vĩ đại, uy nghiêm đến mức chấn động trời đất, biến hóa xuất quỷ nhập thần, 'tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên'. Và Hồi thứ mười bốn này của Hoàng Lê Nhất Thống Chí sẽ thật sự trở thành một khúc ca, với những câu văn khiến ta không thể quên được Bình Ngô Đại Cáo.
Trong hồi truyện đó, tác giả sẽ cũng nhắc đến việc Lê Chiêu Thống phải bỏ trốn khỏi Thăng Long. Rồi tác giả sẽ kết thúc hồi truyện này bằng hai dòng thơ, như muốn gợi ra rất nhiều cảm xúc, nỗi oán trách.
Bờ cõi đã được định rồi
Nước non buồn khi chia ly
Nhưng có lẽ công sức của họ Ngô đã vô ích. Tình cảm xót xa chắc chắn không thể truyền đạt được cho đại đa số độc giả. Bởi trước đó, tác giả đã thành công quá mức trong việc tái hiện hình ảnh của một triều đại đã qua: một triều đại cần phải chia tay, phải tiễn đưa với sự vui vẻ thay vì đau buồn. Tác giả cũng đã thành công quá mức trong việc tạo ra cảm giác: chiến thắng hùng vĩ này thực sự thuộc về người xứng đáng, đó là quân đội Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của anh hùng dân tộc Quang Trung.
Nguồn: Tìm kiếm cẩn thận