Đề bài: Đánh giá về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận.
1. Tổ chức ý chi tiết
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
Đánh giá về Tràng Giang của Huy Cận
I. Kế hoạch Đánh giá về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
1. Bắt đầu
Giới thiệu về Huy Cận - tác giả và bài thơ “Tràng Giang”
2. Phần chính
- Đánh giá về cảnh đẹp tự nhiên hùng vĩ, mênh mông của sông nước và tâm trạng tác giả.
+ Sóng nước nhẹ nhàng khuấy động nỗi buồn sâu sắc
+ Những từ ngữ như “Tràng Giang”, “điệp điệp” tô thêm sắc thái buồn bã, kéo dài qua không gian và thời gian.
+ “Thuyền về nước lại” gợi lên hình ảnh chia ly, xa cách, không hẹn gặp lại.
- Đánh giá sự trống trải trong cảnh đẹp và sự cô đơn của nhà thơ
+ Khung cảnh trống trải, vắng bóng, thiếu vắng sự sống của con người
+ Không gian bát ngát, yên tĩnh làm nổi bật sự cô đơn trong tâm hồn tác giả
+ Khao khát một chiếc cầu bắc ngang, mối liên kết gần gũi với mọi người và cuộc sống
- Đánh giá tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước của nhà thơ
+ Hình ảnh tráng lệ nhưng u buồn, “bóng chiều sa” tạo bức tranh hoàng hôn buồn bã, “chim nghiêng cánh nhỏ” thể hiện sự nhỏ bé, mong manh.
+ Nỗi nhớ nhà, tình cảm với quê hương rơi rơi như những giọt nước lặn xuống
+ Khao khát được về nhà, quê hương như tìm kiếm một điểm dừng, nơi an nhiên cho tâm hồn cô đơn.
3. Phần kết
Chia sẻ cảm nhận cá nhân về bài thơ “Tràng Giang”
II. Bài mẫu Cảm nhận Tràng Giang của Huy Cận
1. Cảm nhận Tràng Giang của Huy Cận, mẫu số 1 (Chuẩn)
Huy Cận là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới, nổi tiếng với tâm hồn buồn bã, sâu sắc, thể hiện trong bài thơ “Tràng Giang” từ tập thơ “Lửa thiêng”. Trong từng khổ thơ, ông đã thành công tạo nên bức tranh của nỗi buồn da diết khi đặt con người giữa bản ngã và thiên nhiên mênh mông.
Mở đầu bài thơ là những câu thơ sôi động với phong cách cổ điển, tạo nên âm điệu hùng vĩ cho bức tranh thơ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
“Tràng Giang” không chỉ là một dòng sông dài và rộng, mà còn là nơi hiện hữu những sóng nước sống động, đan xen với nỗi buồn sâu sắc. Những hình ảnh như con thuyền đầy cảm xúc chèo qua dòng nước, đối mặt với những biến động của cuộc sống, tất cả tạo nên bức tranh của sự lênh đênh, số phận phó mặc. Hình ảnh củi một cành khô lạc trôi trên dòng nước mênh mông thêm vào đó nỗi buồn về sự tầm thường, nhỏ bé của cuộc sống. Nỗi buồn càng trở nên sâu sắc khi cảnh vật trở nên hoang tàn và quạnh hiu:
“Nhẹ nhàng cồn nhỏ gió thổi lạnh,
Nơi xa lạ, tiếng làng chợ khuất trong chiều
Nắng tắt, trời rực rỡ sắc vàng óng;
Sông dài, trời cao, bến cô liêu.”
Sử dụng từ láy “nhẹ nhàng”, “góc nhỏ” để tạo nên cảm giác dễ chịu, nhưng không khỏi mang theo một tâm trạng buồn lạc quan, không gian xung quanh im lìm, tiếng làng chợ xa vút vào hư không chiều chiều. Hai câu thơ sau đưa người đọc đến một không gian cao vút, rộng lớn mênh mông “trời rực rỡ sắc vàng óng”, nhưng giữa sự mênh mông ấy lại chỉ có “bến cô liêu”, tạo ra sự cô đơn không chỉ là của bến đò mà còn là cô đơn trong tâm hồn con người, người nhỏ bé giữa bao la đất trời.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không chút dấu vết ngang
Không cầu giao thoa niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh nối tiếp bãi vàng”
Mạch cảm xúc tiếp tục từ hai khổ thơ trước, nỗi buồn hiện hữu trong hình ảnh bèo dạt lênh đênh, vô định, thiếu sự giao thoa, không có dấu vết gặp gỡ, chỉ có bờ xanh và bãi vàng nối tiếp nhau, đặt ra nỗi buồn về sự xa cách và chia ly. Thiên nhiên với nhân tạo không hòa mình, chỉ có sự yên bình lặng lẽ, tạo nên không gian trầm lắng và buồn bã.
“Đám mây cao đùn núi bạc liên tục,
Chim nhỏ nghiêng cánh: bóng chiều đậm
Lòng quê dợn dợn dạt dào dòng nước
Không khói hoàng hôn vẫn đong đầy hồi nhớ”
Khung cảnh trời thu với đám mây trắng đọng lên cuối trời, ánh nắng mặt trời phản chiếu làm cho chúng trở thành những ngọn núi màu bạc lấp lánh, tạo nên hình ảnh thiên nhiên tráng lệ. Tuy nhiên, giữa vẻ đẹp hùng vĩ đó vẫn hiện hữu nỗi buồn, cánh chim nhỏ nghiêng mình, hình ảnh đơn côi trong bóng chiều tà gợi nên sự cô đơn, niềm nhớ thương. Nỗi nhớ quê hương dạt dào theo từng dòng nước, không cần khói hoàng hôn, tình cảm vẫn tràn ngập tâm hồn. Nhà thơ khao khát trở về quê hương, tìm kiếm bến đỗ cho tâm hồn trống trải, tìm nơi chia sẻ sự cô đơn.
Bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận chấm phá vẻ cổ điển, đặc biệt là nỗi buồn của một 'cái tôi' cô đơn giữa thiên nhiên mênh mông. Nỗi buồn nhân thế, niềm khao khát hòa nhập với cuộc sống và tình cảm nhớ thương đối với quê hương, đất nước, toả sáng qua từng câu thơ.
2. Bài văn mẫu Cảm nhận Tràng Giang của Huy Cận, mẫu số 2:
Cuộc đời người không tránh khỏi những lúc bước chân lang thang đến những kẽ hở yên bình để lắng đọng tâm hồn. Những khoảnh khắc đó, con người trở nên bé nhỏ giữa không gian vô tận, trước vẻ rộng lớn của vũ trụ. Rồi họ nhận ra rằng kiếp người quá ngắn ngủi, đời người hữu hạn và con người nhỏ bé trước sự vĩ đại của vạn vật. Đọc “Tràng giang' của Huy Cận, cảm xúc trong tôi trỗi dậy với nỗi buồn cô đơn khi nghĩ về cuộc hành trình trôi nổi, lênh đênh.
Bài thơ “Tràng giang” ra đời vào năm 1939, thời điểm mà hồn thơ của Huy Cận mang đậm tinh thần u sầu, chứa đựng nhiều nỗi buồn, tâm tư. Các từ ngữ trong bài thơ trực tiếp phản ánh cái buồn của thi sĩ trước thế giới và suy nghĩ về hành trình tìm kiếm “Thơ mới” của mình.
Tên tác phẩm “Tràng giang' tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về một con sông dài, mênh mông. Tựa đề mang đến không khí hoài cổ khi thi sĩ sử dụng loạt từ Hán Việt. Mặc dù có nhiều người thử thay thế tên tác phẩm bằng “Trường giang', nhưng tôi cho rằng cái tên gốc vẫn chính xác vì khi sử dụng “Tràng giang', con sông không chỉ là dài mà còn rộng. Sông trở nên mênh mông, bát ngát, đồng thời thể hiện sự đối lập giữa thiên nhiên vô tận và con người nhỏ bé. Câu đề tiếp tục khẳng định về một con sông rộng lớn “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài'. Tuy nhiên, cảm giác mang lại là sự lưu luyến, nhớ thương về một con sông trong quá khứ.
Khổ thơ đầu tiên không chỉ vẽ nên bức tranh buồn, cô đơn mà thiên nhiên còn gợi cảnh chia ly, tách rời
“Sóng trải tràng giang nhấp nhô buồn bã
Thuyền lững xuôi dòng mái nước song song
Thuyền về ngược dòng sầu đan xen trăm ngả
Cành củi lạc trôi nhẹ nhàng qua mấy dòng.”
Tác giả mở đầu bằng những hình ảnh phong phú như sóng, thuyền, củi. Sóng nhấp nhô như những nỗi buồn vụt lên, tận cùng nhẹ nhàng nhưng lại đủ để làm cho nhân vật trữ tình trở nên buồn bã. “Điệp điệp' như là đánh thức một loạt nỗi buồn, kéo dài không ngừng. “Thuyền xuôi dòng mái' xuất hiện giữa không gian, đơn côi, lạc lõng, một bức tranh của sự cô đơn. Câu thơ độc đáo trong cách tách rời giữa thuyền và nước, hiện thực hóa sự chia cách. “Thuyền về ngược dòng sầu' có thể hiểu là khi thuyền về, nỗi buồn ngược chiều với nước, khiến nó trở nên gấp bội. Đồng thời, còn là sự tách rời khi thuyền và nước đối diện. Kết thúc bằng hình ảnh “cành củi lạc trôi' – một cảnh buồn, u sầu của cuộc hành trình. “Mấy dòng' khẳng định sự bất định, lênh đênh của củi trên hành trình của mình.
Tác giả bắt đầu với khung cảnh hẹp, nhưng qua khổ thơ tiếp theo, không gian đã mở rộng.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”
Hình ảnh “cồn nhỏ' tạo bức tranh về không gian vắng lặng, trơ trọi. Tính từ “nhỏ' làm cho hình ảnh này trở nên bé nhỏ, chơ vơ, kết hợp với từ láy “Lơ thơ' để diễn tả bức tranh thiếu sức sống trên cồn cát. Không gian trên cồn không chỉ buồn bã mà còn hiu quạnh. Gió mang đến cái “đìu hiu' buồn bã, thê lương, nhấn mạnh khung cảnh u sầu. Câu thơ mô tả không gian trống trải, lạnh lùng, hình ảnh tiếng làng xa vãn chợ chiều như là một câu hỏi lặng thầm về sự vắng bóng của cuộc sống. Mọi thứ chìm trong tĩnh lặng lạnh lẽo.
Không gian mở rộng, cao và rộng, đưa tầm nhìn chiều cao và sâu vào vũ trụ. “Nắng xuống trời lên' tạo nên sự mở rộng theo chiều cao. Nắng chiếu xuống, bầu trời càng cao vút. “Sâu chót vót' nhấn mạnh sự thăm thẳm, hấp dẫn, kéo dài vũ trụ ra ngoài để nhấn mạnh sự bé nhỏ của con người trước bức tranh vũ trụ bao la. Câu cuối cùng tạo bức tranh tự nhiên rộng lớn, bát ngát với “sông dài trời rộng'. “Bến cô liêu' hiện lên như một hình ảnh buồn, lạc lõng, quạnh quẽ. Sự đối lập giữa bé nhỏ và rộng lớn tô đậm nỗi buồn của tác giả khi suy ngẫm về cuộc sống lênh đênh, long đong.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
“Bèo' – sinh vật phù du, chìm nổi, kết hợp với “dạt' làm nổi bật sự chìm nổi của chúng. “Đâu' hỏi về nơi đi về của “bèo'. Hình ảnh bèo lạc lõng, bơ vơ, không điểm tựa được mô tả bằng “hàng nối hàng' như một biểu tượng của số phận chung của chúng. Câu thơ thể hiện sự cô đơn, kiếp sống lênh đênh, không có nơi nương tựa. “Không một chuyến đò' đồng nghĩa với sự vắng bóng của con người, nhấn mạnh nỗi cô đơn nổi lên. Thi sĩ sử dụng từ phủ định để miêu tả sự trống trải của lòng người. “Không đò” là “không cầu', chiếc cầu giản dị mất đi, tạo cảm giác vắng lạnh, thiếu niềm tin, quê hương. Cuối cùng, từ láy “lặng lẽ” làm mờ màu xanh và vàng, tạo nên bức tranh ảm đạm, tê liệt. Hình ảnh “bờ xanh”, “bãi vàng” mất đi vẻ tươi tắn, thân mật ban đầu. Cả khổ thơ là sự biểu lộ về nỗi nhớ quê hương, niềm thương nhớ của tác giả.
“Đám mây cao đùn núi bạc lên,
Chim nghiêng cánh mỏi dưới bóng chiều xa,
Lòng quê dợn dợn, hòa mình với con nước,
Không khói hoàng hôn, nhưng nhớ nhà.”
Với chỉ 4 câu thơ, nhà thơ đã tinh tế kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. “Lớp lớp” hoàn toàn làm nổi bật sự chồng chất, xen kẽ. Câu thơ đầu tiên vẽ nên hình ảnh đám mây tạo thành dãy núi bạc. Đến đây, ta liên tưởng tới bài thơ “Thu hứng” của Đỗ Phủ:
“Mây đùn mặt đất cửa ải xa”
Trong câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”, hình ảnh nhiều lớp mây chồng chất giống như nỗi buồn của thi nhân thấm sâu vào cảnh vật, chất chứa trong tâm hồn như tầng tầng lớp lớp mây kia chồng thành núi bạc. Câu tiếp theo sử dụng thủ pháp cổ điển để diễn đạt tình cảnh lẻ loi, cô đơn của cánh chim trước bóng chiều. Hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” không chỉ gợi lên sự đơn độc mà còn ám chỉ trạng thái mất cân bằng, không rõ nơi trú ẩn, làm nổi bật sự lận đận của kiếp người trước thiên nhiên. Trong không gian buồn bã đó, thi sĩ bất chợt hồi tưởng về quê hương.
“Nước quê hòa mình trong dòng chảy”
“Dợn dợn' làm hiện lên, đánh thức những cảm xúc khó nói. Khi gặp “con nước”, lòng thi sĩ là như bừng tỉnh, nhớ đến quê hương – nỗi nhớ không nguôi. Trong câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà', nỗi nhớ ấy ùa về tự nhiên, không cần sự vật truyền đạt. Trong thơ xưa, Đường thi từng có những tác phẩm thể hiện lòng nhớ quê hương
“Như nhìn thấy hoàng hôn xa vút
Về quê hương, lòng nhói đau thâm.”
(Tú Xương)
Thôi Hiệu thấy khói sóng là thèm khát quê hương, còn Huy Cận đang ở trong quê nhưng lòng buồn bã, nỗi nhớ không tận. Kết hợp Đường thi và Thơ mới, Huy Cận vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông. Người đọc cảm nhận sự bé nhỏ trước vũ trụ, kiếp người ngắn ngủi trước vẻ lớn lao của thế giới. “Tràng giang” là tấm lòng của người con yêu quê hương, yêu đất nước.
Trên đây là một số gợi ý độc đáo từ đội ngũ Mytour để giúp bạn khám phá sâu hơn về nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Tràng Giang - Huy Cân. Khi phân tích, hãy đặt mình vào bối cảnh để mang lại cảm nhận và đánh giá riêng, tạo nên bài thơ độc đáo và sáng tạo hơn. Ngoài ra, bạn cũng cần đặc biệt chú ý đến phần Cảm nhận Tràng Giang và tìm hiểu thêm về Phân tích Tràng Giang cũng như Soạn bài Tràng Giang để củng cố kiến thức về tác phẩm này.
Chia sẻ của chúng tôi là một số lời khuyên sáng tạo để giúp bạn hiểu rõ hơn về nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Tràng Giang - Huy Cân. Khi phân tích, hãy đặt mình vào ngữ cảnh để tạo ra cảm nhận và đánh giá cá nhân, giúp bài thơ trở nên độc đáo và thú vị hơn. Bạn cũng nên tìm hiểu thêm về Cảm nhận Tràng Giang và các khía cạnh khác như Phân tích Tràng Giang hay phần Soạn bài Tràng Giang để làm phong phú thêm kiến thức về tác phẩm này.