Nguyễn Bính (1918 - 1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính, từng lấy tên Nguyễn Bính Thuyết. Ông sinh tại làng Thiện Vịnh, xã Đông Hội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông sinh ra trong gia đình nhà nho nghèo, mất mẹ sớm và phải lên Hà Nội kiếm sống từ năm 10 tuổi. Nguyễn Bính bắt đầu sáng tác thơ từ năm 13 tuổi và sớm bộc lộ tài năng. Năm 1943, ông vào Nam Bộ tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau đó, năm 1954, ông ra Bắc và tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực báo chí văn nghệ.
Trong khi các thi sĩ cùng thời bị ảnh hưởng bởi thơ phương Tây, Nguyễn Bính lại quay về với hồn thơ dân tộc. Thơ ông mang tính chất mộc mạc, duyên dáng, đậm đà hương vị dân gian, thể hiện những hình ảnh quê hương thân thương, tràn đầy tình cảm và gắn bó. Do đó, Nguyễn Bính được coi là thi sĩ đồng quê, với nhiều tác phẩm được lưu truyền rộng rãi.
Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Bính trước Cách mạng: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1941), Mười hai bến nước (1942), Cây đàn tì bà (truyện thơ - 1944); sau Cách mạng: Ông lão mài gươm (1847), Gửi người vợ miền Nam (1955), Tiếng trống đêm xuân (truyện thơ - 1958), Đêm sao sáng (1962), Cô Son (chèo - 1961), Người lái đò sông Vị (chèo - 1962).
Tập thơ Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính nổi tiếng với bài thơ Tương tư, mang đậm chất thơ quê hương.
Bài thơ diễn tả tâm trạng của chàng trai trong tình yêu.
Tương tư không chỉ đơn giản là nỗi nhớ mà là tập hợp nhiều cảm xúc phức tạp, với những thay đổi không ngừng.
Tâm trạng tương tư trong bài thơ biến chuyển qua các cung bậc cảm xúc chính như sau:
Nỗi nhớ tràn đầy:
Nhớ về thôn Đông khi ngồi ở thôn Đoài
Chín phần nhớ mong người một phần
Mưa gió là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi vì yêu nàng
Suy tư, giận hờn:
Hai thôn thuộc cùng một làng quê
Vì sao bên kia không sang bên này?
Nỗi than vãn:
Ngày nối ngày trôi qua
Lá xanh hóa vàng theo thời gian
Nỗi trách móc:
Cách trở là tại con đò ngang
Không sang là vì chẳng đường sang
Nhưng chỉ cách nhau một đầu đình
Có xa bao nhiêu mà tình đã xa xôi
Tương tư thức bao đêm liền
Biết ai hiểu thấu, hỏi ai biết được?
Hồi hộp, mơ mộng:
Bao giờ nước lặng đò mới gặp?
Hoa phòng ốc bướm bụi đời gặp nhau
Khao khát xa xôi:
Nhà em có giàn trầu xanh mát
Nhà anh có hàng cau thẳng tắp
Thôn Đoài nhung nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giàn trầu thôn nào?
Sự phức tạp trong tâm lý khi yêu theo quy luật
Sự thể hiện tình cảm của chàng trai trong bài thơ có nét bất hợp lý. Trong tình yêu, thường chàng trai chủ động tiến tới, nhưng trong bài thơ, chàng trai lại đóng vai thụ động, chờ đợi tình yêu. Điều này thể hiện sự thụ động nhưng lại pha lẫn hờn trách. Đó là điều bất hợp lý bề ngoài.
Dù vậy, trong điều bất hợp lý ấy lại có lý của nó. Đó là cái lý về chiều sâu của tâm trạng.
Trước tiên, đây là bài thơ, tác giả tạo ra một tình huống trữ tình để diễn tả nỗi niềm, không phải bị ràng buộc bởi thực tế. Thi sĩ cần đặt chàng trai vào vai thụ động để bộc lộ tâm trạng tương tư của một người quê mùa, chất phác.
Thứ hai, lời trách này không phải vì ghét, không giống như sự quy trách nhiệm thông thường, mà là trách vì yêu. Do nhớ mong nhiều, bị nỗi nhớ giày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hững hờ, nên sinh ra trách hờn, không phải do ghét bỏ. Nói cách khác, trách chỉ là cách bày tỏ tình yêu.
Cách tác giả thể hiện thời gian
Tâm trạng chờ đợi sốt ruột và mệt mỏi gắn liền với sự trôi chảy của thời gian. Nổi bật là cách ngắt nhịp, lặp lại, giọng kể lể, và việc dùng không gian biến đổi để diễn tả thời gian.
Câu lục: Ngày nối tiếp ngày
Nhịp 2/2/2 truyền thống trong câu lục bát được biến đổi thành 3/3: Ngày qua ngày lại qua ngày. Ý và từ vế sau lặp lại vế trước. Cách ngắt nhịp này tạo ra điểm nhấn ở chữ *lại* đầu vế sau, gợi cảm giác thời gian trôi chậm chạp, ngày nối tiếp ngày một cách nhàm chán và vô vọng. Việc ngắt nhịp, lặp lại vế câu và điểm nhấn ở chữ *lại* tạo ra giọng thơ như lời than thở chán ngán, thể hiện hình ảnh chàng trai với tâm trạng mòn mỏi chờ mong.
Câu bát: Lá xanh hóa thành cây lá vàng
Câu thơ thể hiện sự tinh tế trong cách miêu tả thời gian và tâm trạng. Thời gian trong câu thơ trên diễn ra chậm chạp qua lời kể, nhưng đến câu sau lại trở nên sống động hơn. Thời gian mang màu sắc, thể hiện qua sự chuyển đổi từ lá xanh sang lá vàng. Ngày anh bắt đầu chờ đợi, lá còn xanh, nay đã ngả vàng, nhưng vẫn chỉ là vô vọng. Thời gian và tâm trạng không tìm được điểm chung; thời gian chậm lại, tâm trạng càng trĩu nặng; tâm trạng gấp gáp, thời gian càng chậm rãi. Chữ 'nhuộm' là điểm tinh tế nhất trong cách diễn tả, gợi lên sự chậm chạp của thời gian. So sánh với chữ 'nhuốm' trong câu thơ của Nguyễn Du:
Người cưỡi ngựa người chia áo
Rừng phong vào thu đã nhuốm màu quan san.
Chữ 'nhuốm' thể hiện sự thay đổi màu sắc đang xảy ra, chưa hoàn tất. Sắc màu vật chất thay đổi chủ yếu trên bề mặt. Trong khi đó, chữ 'nhuộm' diễn tả sự thay đổi đã hoàn toàn hoàn thành. Thời gian đủ lâu để chuyển đổi màu sắc hoàn toàn. Ngoài ra, chữ 'nhuộm' để ngỏ chủ thể, ai là người nhuộm? Không hẳn là thời gian hay sự chuyển màu của lá; đó chính là nỗi nhớ nhung. Nỗi nhớ làm cho lòng người khô héo, đã nhuộm thành vàng úa. Người đang yêu và cây lá có sự đồng điệu kỳ lạ. Cây là chứng nhân, đồng minh và nạn nhân của nỗi nhớ, thậm chí là hiện thân của nó. Cây đó có thể xem là cây nhớ nhung. Sự tinh tế và ý nhị trong cách thể hiện của Nguyễn Bính là đây.
Bài thơ vẽ lên cảnh làng quê trong mơ.
Nỗi nhớ của chàng trai và câu chuyện tình của đôi trẻ trở nên đậm nét quê hương hơn nhờ gắn bó với cảnh vật và vùng quê.
Các chi tiết trong bài thơ như địa danh, cảnh sắc, cây cỏ... gợi nhớ đến những vùng quê bao đời như thôn làng Đoài, Đông, bến đò, đầu đình, hoa bướm, giàn trầu, hàng cau...
Những chi tiết này tạo nên không gian quê hương cho nhân vật trữ tình thể hiện nỗi nhớ, đồng thời là phương tiện diễn tả tâm trạng nhớ nhung một cách tự nhiên và ý nhị. Nhờ đó, tình và cảnh mới hòa quyện vào nhau.
Nguyễn Bính khéo léo thể hiện tâm trạng
Hình ảnh chàng trai thôn Đoài nhớ cô gái thôn Đông trở thành biểu tượng cho sự nối kết giữa hai làng quê. Nó không chỉ là một lối diễn đạt bóng gió mà còn tạo nên hai nỗi nhớ song hành, gắn liền với hai người và hai địa danh. Người nhớ người, thôn nhớ thôn. Chính nhờ sự kết nối này mà không gian của bài thơ tràn ngập nỗi nhớ nhung.
Nghệ thuật sử dụng chất liệu ngôn ngữ mộc mạc, dân dã: thôn Đoài, thôn Đông cùng với thành ngữ chín nhớ mười mong; cách dùng số từ một, chín, mười. Cách sắp xếp câu thơ độc đáo: đưa đối tượng ra hai đầu câu, tạo ra khoảng cách (Thôn Đoài... thôn Đông, Một người.... một người). Cách dùng ngôn ngữ mang hương vị làng quê, phù hợp với việc thể hiện nỗi nhớ nhung.
Mytour