Nhiệm vụ
Đánh giá về hình ảnh của người lái đò trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà
Giải thích chi tiết
Tố Hữu đã từng viết:
'Chín năm gầy dựng Điện Biên
Nên vinh hoa đỏ, nên lịch sử vàng'
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội, đất nước chúng ta tiến lên xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, người dân đổ về Tây Bắc, vùng đất hứa. Họ rời bỏ với tiếng hát, sông cầu êm đềm. Balzac đã nói: 'Nhà văn là thư ký trung thành của thời đại', vậy nên Tây Bắc không chỉ là đất hứa kinh tế mà còn là mảnh đất phát triển văn hóa. Nếu Nguyễn Khải có tập truyện 'Mùa lạc', Nguyễn Huy Tưởng có tác phẩm 'Bốn năm sau', Chế Lan Viên có 'Tiếng hát con tàu' thì Nguyễn Tuân có tập tùy bút 'Sông Đà' gồm mười lăm bài kí sáng tác từ năm 1958 – 1960 khi ông đi thực tế trên mảnh đất Tây Bắc.
Tác phẩm 'Người lái đò sông Đà' là tâm điểm của tập tùy bút 'Sông Đà' của Nguyễn Tuân. Được coi là một trong những kiệt tác của ông trong thể loại kí, tác phẩm thành công khi xây dựng hình tượng sông Đà chân thực, sống động và tạo ra hình ảnh Người lái đò sông Đà tiêu biểu cho con người mới trong xã hội chủ nghĩa. Có thể khẳng định rằng với tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã làm nên một điều kỳ diệu trên dòng sông văn chương của mình.
Bước vào thế giới của 'Người lái đò sông Đà' của Nguyễn Tuân, người đọc sẽ bắt gặp hình ảnh chân thực và sống động của con sông Đà được tạo ra bởi nhà văn tài ba này. Dòng sông hiện lên dữ dội nhưng cũng đẹp đẽ, thơ mộng. Tuy nhiên, dòng sông Đà chỉ là nền tảng để Nguyễn Tuân tạo ra hình tượng Người lái đò Lai Châu, một biểu tượng của con người mới trong xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi Người lái đò xuất hiện, bức tranh của Đà Giang mới trở nên hoàn thiện, vì Người lái đò Lai Châu chính là chủ thể của bức tranh thiên nhiên. Điều này là nhờ vào sự nhận thức của Nguyễn Tuân về lí tưởng của Đảng. Trong văn chương, những nghệ sĩ cách mạng, thiên nhiên, dù hùng vĩ và đẹp đẽ đến đâu, cũng chỉ là bối cảnh để thể hiện sự hiện diện của con người. Con người làm chủ thiên nhiên, núi rừng, dòng sông, cuộc sống của mình. Người lái đò Lai Châu là một minh chứng cho điều đó.
Người lái đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả trong tác phẩm là một cụ già 70 tuổi đã dành phần lớn cuộc đời để lái đò trên dòng sông Đà. Ông là một thủy thủ lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông đi lên, ông đi xuống hơn một trăm lần rồi chỉnh tay lái đò không ít hơn sáu chục lần...” trong hơn mười năm gian khổ và nguy hiểm của nghề lái đò.
Đây là một người đã có nhiều kinh nghiệm, am hiểu, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách dùng ánh mắt và ghi nhớ tỉ mỉ như đóng dấu vào lòng đất tất cả những dòng nước của tất cả những con thác khó khăn”. Nguyễn Tuân đã thể hiện sự ngưỡng mộ của mình đối với người này: “Sông Đà, với ông lái đò kia, như một bãi thiên anh hùng mà ông đã thuộc về cả những điểm chấm than, chấm câu và cả những đoạn rừng sâu”. Đây là một so sánh “rất văn chương” đầy hấp dẫn và “rất là Nguyền Tuân”.
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc đầy tri thức ấy đặt trên một thân hình cao to gọn gàng như một cây sừng, một cánh mun” và những cánh tay vẫn giữ được sức trẻ, “quá trẻ trung”, Nguyễn Tuân đã ví von đó như một thứ “vàng mười”. Ông đã đối mặt với những thách thức của sông Đà với sức mạnh của những bãi đá đáng sợ, những rủi ro khó lường: khúc sông quanh co, thấy sóng bọt đã phủ trắng của một bầu trời đá. Đá ở đây vẫn còn đầy năng lượng sau hàng nghìn năm, vẫn giữ nguyên trong lòng sông, như thể mỗi khi có chiếc thuyền nào đi qua, mỗi khi có chiếc thuyền nào sai lạc vào con sóng nào đó thì lại có một vài tảng đá bất động nổi lên để đợi bắt.
Một mình trên chiếc thuyền, ông đã chiến đấu như một chiến binh: '... hai tay nắm chặt cánh chèo để tránh bị sóng cuốn lên khỏi mặt nước. Mặt nước rợn người xung quanh, bao trùm lấy cánh chèo, quật gãy cánh chèo, vũ khí trên cánh tay của mình”, và sóng nước “tấn công vào bụng và hông của thuyền. Có lúc chúng đe dọa làm chìm cả chiếc thuyền. Nước bám vào thuyền như một vòi vĩnh viễn túm vào thắt lưng của thuyền, muốn lật nghiêng chiếc thuyền giữa trận sóng vẫn mạnh mẽ vang vọng trong không gian lớn lao”. Có lúc có vẻ như ông lái đò sẽ bị chìm dưới dòng nước... Những mô tả thực tế và táo bạo này cho thấy sức mạnh kinh hoàng của dòng thác hung dữ đối với con người, chỉ cần một chút lơ mắt, một lỗi nhỏ là phải trả giá bằng sinh mạng.
Nhưng chỉ dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà quan trọng hơn là tài năng của người cầm lái để lái chiếc thuyền đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe vẫn có phanh chân, phanh tay, có thể tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền lao xuống thác thì không có cái phanh nào cả, chỉ có cách lao đi mà không thể lùi lại, nếu không may đụng phải trái tim của dòng nước thì thuyền sẽ bị quay ngang và ụp, nhưng không có cách nào để lùi lại...” dùng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã mô tả sông Đà như một thiên địa biến hóa vô cùng phong phú, mỗi nơi đều có một bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một phương pháp ứng phó riêng. Có những nơi nước sông “bắn lên như nồi đun sôi muốn hất tung cả chiếc thuyền đang bám vào một nắp ấm nước to lớn”. “Nếu có một dòng nước lạm vào thì sẽ chết ngay”. Và cũng có những “lòng nước' xoáy sâu như lòng giếng “cái xoáy đó sẽ tụt xuống, thuyền sẽ vùng mạnh lên, và sau đó biến mất...”...
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm nguy, khó khăn cho con người. Tuy nhiên, “ông lái đò cố kiềm chế nỗi đau, hai chân luôn sẵn sàng, phản ánh trong từng dòng văn thể hiện, tạo nên một sức cuốn hút không thể chối từ. Đó chính là một ca khúc ca ngợi lao động, về con người lao động.
Rõ ràng qua cách diễn đạt về sức mạnh mãnh liệt của dòng sông, Nguyễn Tuân nhấn mạnh một mục tiêu lớn: tôn vinh sự dũng cảm, tài năng của con người, tôn vinh chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt qua bao thác ghềnh, sóng to gió lớn để đưa con thuyền về bến an lành, không chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm nghề lái thuyền trên sông Đà. Cuộc đối đầu giữa con người đã chiến thắng; quay trở lại cuộc sống bình yên: “đó là hết thác. Dòng sông vênh mình vào một bến cát có hang đá lạnh lẽo (...). Sông nước trở nên yên bình. Đêm đó nhà đò sưởi ấm trong hang đá, nướng ống cơm lam...”
Sau mười năm làm nghề lái đò, kể cả sau khi đã nghỉ nghề vài chục năm, trên ngực ông lái đò vẫn còn “bầm tụ” một “cái gói khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, đó cũng là một hình ảnh quý giá của một tấm huân chương lao động tuyệt vời.”
Có thể khẳng định rằng bài kí ' vẫn cầm chặt cái cần lái.. ”. Mặc dù mặt “vẫn méo đi” vì những cú đánh gian khổ, “nhưng trên chiếc thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe thấy rõ tiếng chỉ huy súc tích tỉnh táo của người cầm lái”.
Cảm hứng lãng mạn sâu sắc của 'Người lái đò sông Đà' đã tiết lộ toàn bộ tài năng, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Mọi người yêu mến Nguyễn Tuân vì ông rất tài năng. Mọi người tôn trọng Nguyễn Tuân vì ông là một nghệ sĩ của cái đẹp, nghệ sĩ của hai từ 'tinh khiết'. Tuy nhiên, để nói một cách khách quan, văn của Nguyễn Tuân không phải ai cũng ưa thích, đặc biệt là những bài tùy bút do Nguyễn Tuân viết với những câu văn rất dài cùng với những tư liệu khá khô khan, khó hiểu.