Mẫu 1
Lời giải chi tiết:
Phân tích về hình ảnh của vua Quang Trung trong tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ là người anh hùng áo vải đã đánh tan hơn 25 vạn giặc Thanh xâm lược ra khỏi lãnh thổ của nước ta. Hình ảnh của vị anh hùng dân tộc Tây Sơn đã được mô tả rất đầy đủ và sinh động trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm tác giả Ngô gia văn phái.
Nguyễn Huệ là người anh hùng có nguồn gốc nhân dân, nhưng lại có tài năng ưu việt và dũng mãnh phi thường. Nhóm tác giả của “Hoàng Lê nhất thống chí” đã sử dụng lời của một người trong triều để mô tả Quang Trung như sau: “Không biết rằng Nguyễn Huệ là một anh hùng lão luyện, gan dạ và có tài lãnh đạo quân đội. Xem ông di chuyển từ bắc vào nam, không ai có thể đoán biết. Ông bắt Hữu Chính như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt ông. Thấy ông chỉ cử động tay, nhấc mắt, ai cũng đã sợ hãi, lòng xiêu vẹo, sợ ông hơn cả sấm sét”. Mặc dù lời giới thiệu của người trong triều đó vẫn xem Nguyễn Huệ như một “đối thủ” nhưng không thể giấu nổi sự ngưỡng mộ trước tài năng vượt trội của ông. Nếu một người đứng ở phía đối lập có thể ca tụng ông đến như vậy thì có thể hiểu Nguyễn Huệ là một nhân vật tài năng đến đâu. Qua đoạn trích hồi thứ mười bốn trong “Hoàng Lê nhất thống chí”, nhóm tác giả đã thể hiện được tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ không chỉ trong việc ra quyết định mạnh mẽ, dũng cảm, trí tuệ sáng suốt, tinh tế mà còn trong việc có tầm nhìn xa trông rộng và tài chiến lược, sử dụng binh lính vượt trội hơn người.
Đầu tiên, khi đọc hồi thứ 14 của tác phẩm, ta có thể thấy rõ Nguyễn Huệ là một người có những hành động quyết đoán và mạnh mẽ. Điều đó được thể hiện khi Nguyễn Huệ nhận được tin quân Thanh đã tiến vào Thăng Long và “vua Lê chấp nhận phong hiệu”. Một vùng đất rộng lớn, địa vị quan trọng của đất nước bị chiếm đóng, nhưng Nguyễn Huệ không sợ hãi, không lưỡng lự, “quyết định tự mình đứng lên cầm quân và ra đi ngay”. Điều đó cho thấy sự quyết đoán mạnh mẽ của vị anh hùng áo vải. Tuy nhiên, sau khi nghe lời khuyên “để yên cho kẻ phản trắc và giữ lòng người”, ông quyết định lên ngôi hoàng đế. Chỉ trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ đã thực hiện nhiều việc lớn từ “đưa ra tuyên cáo trước trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đổi niên hiệu” và “ra lệnh xuất quân”, tuyển mộ binh lính, duyệt binh ở Nghệ An,…
Không chỉ thế, ông còn là một người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén. Điều đó được thể hiện khi ông phân tích tình hình của chúng ta và địch, về tình hình lực lượng cũng như chiến lược đánh giặc. Khi tuyển mộ binh ở Nghệ An, khi ông nhận thấy lòng quân còn chưa vững, ông đã đưa ra lời phủ dụ, “cưỡi voi” ra tận “doanh” để “an ủi quân lính”. Lời phủ dụ của Nguyễn Huệ mang ý nghĩa sâu sắc, hùng tráng và mạnh mẽ như một bài hùng hồn từ Trần Quốc Tuấn. Ông đã khẳng định chủ quyền dân tộc, tiết lộ âm mưu, tội ác của quân giặc nhằm kích thích lòng căm thù giặc sâu sắc ở quân lính. Đồng thời, ông đã đề cập đến những nhân vật anh hùng chống giặc, bảo vệ độc lập dân tộc như “Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành”,… cùng với lịch sử chống quân xâm lược phương Bắc của dân tộc ta để khích lệ lòng tự hào của các tướng sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến tinh thần quân đội, kích thích tinh thần yêu nước, lòng trung hiếu và sức mạnh của dân tộc ta. Cuối cùng, trong phần phủ dụ, Quang Trung kêu gọi binh lính hãy đứng lên chống giặc cứu nước và nghiêm túc nêu rõ kết cục của những kẻ phản trắc. Sự sáng suốt, nhạy bén của Quang Trung còn được thể hiện qua việc sử dụng con người. Hai tướng sĩ của ông là Sở và Lân trấn thủ đất Thăng Long nhưng thất bại, “mang gươm trên lưng” đến gặp ông để “xin chịu tội”. Với tội danh như vậy, có thể đã bị truy tố tử hình, nhưng vua Quang Trung đã hiểu rõ điểm mạnh, điểm yếu của tướng sĩ, khen ngợi đúng người, đúng việc rồi giao lại nhiệm vụ cho hai tướng sĩ của mình. Đó là cách thu phục lòng người rất thông minh của vị anh hùng Quang Trung.
Hơn nữa, Quang Trung còn là một vị vua có tầm nhìn xa trông rộng. Khi quân giặc chỉ mới tiến vào nước ta, chưa hề động quân, chưa chiếm lấy tấc đất nào của ta, thì vua Quang Trung đã tuyên bố mạnh mẽ như một lời thề rằng: “lần này ta ra, tự mình cầm quân, chiến lược tiến đánh đã được tính toán trước. Chỉ trong mươi ngày có thể đuổi được quân Thanh”. Ông cũng đã tính đến việc quân địch thất bại sẽ “mang nhục mà trả thù” nên cần phải có một chiến lược ngoại giao đúng đắn để dân chúng yên tâm, tránh xa khỏi chiến tranh, bạo loạn. Một vị vua mà chưa từng tham gia trận chiến đã có những kế hoạch cho sự phát triển bền vững của đất nước, lo lắng, mang lại hạnh phúc cho dân chúng thì quả thật là một vị vua có tầm nhìn xa trông rộng. Và đúng như vậy, Quang Trung đã viết nên trang sử hào hùng của dân tộc ta, không ai có thể so sánh được.
Cuối cùng, thông qua hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí”, ta có thể thấy được Quang Trung còn là một người có tài dụng binh như thần, rất thao lược. Hai trận đánh Rạch Gầm – Xoài Mút, Đống Đa – Ngọc Hồi đã trở thành những trận đánh vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, khiến cho quân Thanh phải khiếp sợ. Trước hết là cuộc hành quân thần tốc của vua Quang Trung, từ 25 tháng Chạp ở Huế, chỉ sau năm ngày đã đến Tam Điệp, cách Huế 500km. Phải nói rằng chưa từng có một cuộc hành quân nào khiến chúng ta kinh ngạc như thế, lại nói khi đó, hành quân chỉ dựa vào sức người, không có phương tiện hỗ trợ, vậy mà đến đêm 30 tháng Chạp, ông đã đến Bắc, sẵn sàng tiến công tiến đánh quân địch. Quang Trung vừa đánh giặc vừa hoạch định kế hoạch và hứa với quân lính của mình rằng: mùng 7 tháng Giêng sẽ ăn tết trong kinh thành Thăng Long. Quang Trung luôn tự mình lên sách lược tấn công, tổ chức binh lính, tự thân dẫn dắt các chiến dịch tiến công, cũng như cưỡi voi đi đốc thúc quân lính,… Nếu không phải là một vị vua thao lược, liệu Quang Trung có thể làm được những điều phi thường, đánh bại hơn 20 vạn quân Thanh xâm lược hay không?
Qua đoạn trích trong hồi 14 của “Hoàng Lê nhất thống chí”, nhóm tác giả đã tái hiện lại cho chúng ta thấy bức tranh về vị vua tài năng Quang Trung trong cuộc chiến tốc độ phá quân Thanh. Với tài năng, phong thái của mình, vua Quang Trung đã khắc ghi tên mình vào trang vàng lịch sử dân tộc, ghi dấu lại truyền thống kiên cường, không khuất phục của dân tộc ta, để lại dấu ấn vĩnh cửu như một nhân vật kiệt xuất mà ai cũng phải nể trọng.
Mẫu 2
Lời giải chi tiết:
Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.
Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà hoàng thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn”' nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ. Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân:' Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn...'. Trong khi nói những lời ấy chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp, chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là “giặc' thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.
Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo “chính thống” phần nào bị quan điểm “chính thống” chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người anh hùng áo vải Tây Sơn. Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác.
Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn Huệ tự mình đốc suất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bời vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ:' Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa?... Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.
Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc...'. Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí hết sức khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình 'Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn', 'bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng’ .
Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: 'Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh'. Nhưng ông cũng luôn luôn để phòng hậu hoạ: “ Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt'. Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ' để 'dẹp việc binh đao” đó cũng là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: “Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả'. Đó là cái giỏi cũng là cái tâm của người cầm quân.
Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong Hồi thứ mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) của nhóm Ngô gia văn phái hết sức sinh động. Qua đó người đọc có thể hình dung được chân dung của người anh hùng áo vải Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần' mà còn là một tướng quân giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được mọi người kính phục, yêu mến.
Mẫu 3
Lời giải chi tiết:
Vua Quang Trung, hay còn gọi là Nguyễn Huệ, là một nhà lãnh đạo vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong lịch sử. Ông được biết đến với tài năng quân sự xuất chúng và tinh thần kiên cường, quyết đoán. Với tuổi đời chỉ mới 39, Quang Trung đã dẹp Bắc giặc Nam, xoá sổ Thanh xâm lược, từ đó mở ra kỷ nguyên mới của đất nước. Mỗi chiến công của ông đều ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng dân tộc.
Được biết đến là một người hành động nhanh nhẹn và quyết đoán, Quang Trung không ngần ngại ra quyết định và hành động ngay lập tức khi nghe tin giặc xâm lược. Ông tổ chức cuộc họp quân sự, lên kế hoạch chiến lược và triển khai hành quân một cách nhanh chóng. Mỗi bước đi của Quang Trung đều được suy nghĩ kỹ lưỡng, nhằm mục đích bảo vệ và phục hồi sức mạnh cho dân tộc.
Không chỉ là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ, Quang Trung còn sở hữu trí tuệ sáng suốt và tầm nhìn xa trông rộng. Ông luôn đưa ra những quyết định cân nhắc, dựa trên việc phân tích kỹ lưỡng tình hình và sức mạnh của đối thủ. Quang Trung cũng biết cách thuyết phục và động viên tinh thần quân dân, đồng thời sử dụng ngoại giao để duy trì hoà bình và ổn định cho đất nước.
Với sự tài ba trong chiến thuật quân sự, Quang Trung đã chiến thắng giặc Thanh trong thời gian ngắn ngủi. Ông luôn tìm cách tận dụng điểm yếu của đối thủ và sáng tạo ra những chiến thuật linh hoạt, khiến cho kẻ địch không thể đối phó.
Với vẻ đẹp dũng mãnh và tài trí sáng suốt, Quang Trung đã trở thành biểu tượng của lòng yêu nước và tinh thần kiên cường của dân tộc Việt Nam.