TOP 16 bài văn phân tích hình tượng vua Quang Trung CỰC HAY, bao gồm 2 bản tóm tắt chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp học sinh hiểu rõ hơn về tài năng, trí tuệ sáng suốt và nhạy bén của người anh hùng áo vải Quang Trung.
Tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí thường được học ở môn Văn 9 kì 1, Văn 8 Chân trời sáng tạo tập 2, Văn 8 Kết nối tri thức tập 1 dưới danh xưng Quang Trung đại phá quân Thanh. Cùng tham khảo bài viết dưới đây của Mytour để cải thiện vốn từ vựng và hoàn thiện bài văn của bạn một cách nhanh chóng:
TOP 15 bài phân tích về hình tượng vua Quang Trung
- Sơ đồ tư duy Phân tích hình tượng vua Quang Trung
- Dàn ý phân tích hình tượng vua Quang Trung (2 mẫu)
- Phân tích hình tượng vua Quang Trung ngắn gọn
- Phân tích hình tượng vua Quang Trung siêu hấp dẫn
- Phân tích hình tượng vua Quang Trung xuất sắc (11 mẫu)
- Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
- Phân tích hình ảnh vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí
Sơ đồ tư duy Phân tích hình tượng vua Quang Trung
Dàn ý phân tích hình tượng vua Quang Trung
1. Giới thiệu
Cuốn tiểu thuyết lịch sử 'Hoàng Lê nhất thống chí' của tác giả Ngô Gia Văn Phái không chỉ tái hiện hiện thực xã hội thời đó mà còn thành công trong việc vẽ nên hình ảnh vĩ đại của anh hùng Quang Trung, đặc biệt qua hồi thứ 14 của tác phẩm.
2. Thân bài
* Quang Trung Nguyễn Huệ là một nhân vật mạnh mẽ và quyết đoán trong mọi hành động
Khi nghe tin địch đã tiến đến kinh thành: Ông 'quyết định tức thì dẫn quân ra trận'
Chỉ trong thời gian ngắn một tháng, ông đã thực hiện được nhiều công việc đáng chú ý: 'thề nguyện trước trời đất', lên ngôi vua, ra lệnh xuất quân...
* Có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén trong mọi tình huống:
- Tiết lộ tất cả tội ác của đối phương để nhắc nhở nhân dân, đưa ra các ví dụ dũng cảm để tăng thêm sức mạnh cho binh lính.
- Biết cách thuyết phục những người dễ lòng, dễ thay đổi.
- Tán dương, chỉ trích, thưởng phạt đúng người đúng việc.
Có tầm nhìn xa rộng lớn khi nói như đinh đóng cột 'chiến lược chiến đấu đã được xác định trước', cách ngoại giao sau khi chiến tranh kết thúc...
Sở hữu tài thao lược, sử dụng binh lính như thần: Chỉ huy cuộc hành quân với tốc độ của thần thánh.
* Hình ảnh của một vị vua tài năng nổi bật lên rõ ràng khi chính ông tham gia vào trận đánh, dũng cảm đối diện với mũi tên của đối thủ.
3. Kết thúc
Nhờ bút pháp tài tình, tinh tế của Ngô Gia Văn Phái, nhân vật Quang Trung Nguyễn Huệ đã được mô tả thật sự chân thực, đẹp đẽ, tài năng và dũng mãnh.
....
Đánh giá về hình tượng của vua Quang Trung một cách súc tích
'Bây giờ áo vải đã nhuộm màu cờ đỏ
Giúp đồng bào xây dựng đất nước, hoàn thành hàng loạt công trình'
Những bài thơ được Công chúa Ngọc Hân viết để tôn vinh anh hùng Nguyễn Huệ được miêu tả thông qua ngòi bút tài tình, lôi cuốn của Ngô Gia Văn Phái, vẽ nên hình ảnh vua Quang Trung oai phong, mạnh mẽ, và anh dũng một cách chân thực trong cuộc chiến vĩ đại đánh bại quân Thanh trong hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí”.
Quang Trung xuất hiện với hình ảnh một người lãnh đạo quyết đoán và mạnh mẽ. Tác phẩm khởi đầu với hình ảnh ông hành động mạnh mẽ, nhanh chóng, có mục tiêu và quyết đoán. Khi biết tin quân Thanh đã chiếm Thăng Long, ông không do dự, ngay lập tức ra lệnh xuất quân. Trong vòng một tháng, Quang Trung đã thực hiện nhiều việc lớn như tế cáo trời đất, lên ngôi vua, và chiến đấu... Chỉ mới khởi binh đã hứa mừng chiến thắng.
Ngoài ra, Quang Trung còn được miêu tả với vẻ đẹp của trí tuệ. Ông thông minh và nhạy bén. Khi đất nước đối diện với nguy cơ từ quân Thanh, ông đã quyết định lên ngôi hoàng đế và đặt niên hiệu là Quang Trung. Ông đã lên kế hoạch kỹ lưỡng để tập hợp các phái nội bộ, thu hút các tài năng và giữ lòng dân đồng lòng.
Trước khi ra quân ở Nghệ An, Quang Trung đã chỉ ra sự khác biệt giữa người phương Bắc và người nước ta. Ông đã phân tích tội ác của quân Thanh đối với nhân dân và đã khích lệ tướng sĩ bằng các ví dụ dũng cảm từ lịch sử như Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành,... Lời dụ của Quang Trung đã thuyết phục được nhiều người tài. Ông cũng dự đoán được sự thay đổi của một số người và cảnh báo quân lính về lòng trung thành.
Các sự kiện trong triều đình cũng không làm Quang Trung bất ngờ. Trong buổi hội quân ở Tam Điệp, ông đã hiểu rõ việc rút quân của hai tướng Sở và Lân. Do quân ta còn ít và không đủ sức đối đầu với quân Thanh, ông đã quyết định rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Sở và Lân không bị trừng phạt nhưng được khen ngợi. Ông cũng đánh giá cao Ngô Thì Nhậm và sử dụng Nhậm như một vị tướng tài ba.
Quang Trung được mô tả là người có tầm nhìn xa và chiến lược rất rộng lớn. Dù chỉ mới bắt đầu chiến đấu, nhưng ông đã biết rõ phương pháp chiến đấu và cả kế hoạch ngoại giao. Ông được coi trọng là một vị tướng tài ba hơn hẳn so với người khác. Cuộc di chuyển của quân đội dưới sự chỉ huy của Quang Trung đã làm cho chúng ta kinh ngạc khi vừa di chuyển, vừa chiến đấu, thậm chí còn vượt xa hơn so với dự kiến. Dù di chuyển xa và liên tục như vậy, nhưng nhờ vào sự kỷ luật và quy định chặt chẽ, đội quân vẫn giữ được trật tự, tiến triển không ngừng.
Vua Quang Trung thể hiện sự quyết đoán và mạnh mẽ trong chiến trận. Ông không chỉ là một người lãnh đạo trên giấy tờ mà còn thực sự là một tổng chỉ huy chiến dịch. Dưới sự lãnh đạo tài tình của ông, quân đội Tây Sơn đã giành được những chiến thắng hùng hậu, áp đảo đối thủ bằng sức mạnh quyết liệt của mình. Trong cảnh khói mù mịt, hình ảnh của vua trên lưng voi dũng mãnh với chiếc áo bào đen bị phủ bởi khói súng đã trở nên sáng ngời giữa trận địa.
Một đoạn trích sống động và ấn tượng mô tả về hình ảnh vua Quang Trung thông qua ngôn từ, hành động, và cử chỉ quyết đoán và mạnh mẽ. Bối cảnh của chiến trường hùng tráng là nền tảng hoàn hảo để anh hùng hiện lên. Sử dụng ngôi kể thứ ba đã làm cho câu chuyện trở nên chân thực và khách quan hơn.
Các tác giả của Ngô Gia Văn Phái với tài năng của mình đã tôn vinh hình ảnh của vua Quang Trung - một biểu tượng quan trọng của dân tộc, thể hiện sức mạnh và bản lĩnh của người Việt Nam. Anh hùng Nguyễn Huệ đã trở thành niềm tự hào vĩ đại của dân tộc, biểu tượng cho truyền thống đấu tranh kiên cường chống lại xâm lược ngoại bang.
Phân tích hình ảnh vua Quang Trung vô cùng xuất sắc
Nhóm Ngô Gia Văn Phái đến từ làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, là một tập thể tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì. “Hoàng Lê nhất thống chí” viết bằng chữ Hán kể về sự thống nhất của triều vương nhà Lê khi Tây Sơn đánh bại Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở việc tái hiện sự thống nhất của triều vương nhà Lê, mà còn mô tả một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Với quan điểm lịch sử chính xác và lòng tự hào dân tộc, nhóm tác giả của “Hoàng Lê nhất thống chí” đã thể hiện chân thực hình ảnh của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua những chiến công thần tốc đánh tan quân Thanh, cũng như sự thảm hại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua Lê Chiêu Thống.
Nguyễn Huệ được mô tả là một người có hành động mạnh mẽ và quyết đoán. Trong đoạn trích, ông luôn thể hiện sự quyết đoán và nhanh nhảu, không do dự khi phải hành động. Ngay khi nghe tin quân giặc chiếm thành Thăng Long và mất rất nhiều đất đai, ông không chần chừ mà quyết định sẽ tự mình đi cầm quân ngay lập tức. Trong thời gian ngắn, ông đã thực hiện nhiều công việc lớn lao như “tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế, gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và tổ chức các cuộc duyệt binh ở Nghệ An. Ông cũng đã phủ dụ tướng sĩ và lập kế hoạch cho chiến dịch tiếp theo, cho đến khi chiến thắng quân Thanh.
Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén. Ông hiểu rõ về tình hình thời cuộc và sự đối đầu chiến lược giữa chúng ta và địch. Trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An, vua Quang Trung đã khẳng định chủ quyền của dân tộc ta và lên án hành động xâm lược phi nghĩa của quân giặc. Lời phủ dụ đã nhắc nhở về truyền thống đấu tranh anh dũng, kiên cường của cha ông, kêu gọi quân lính cùng đồng lòng hiệp sức, tuân thủ các quy định nghiêm ngặt. Ông cũng thể hiện sự nhạy bén trong việc xử lý các tướng sĩ tại Tam Điệp, khen ngợi và chỉ trích đúng người đúng việc.
Với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng, Quang Trung đã viết nên trang sử hào hùng cho dân tộc. Dù chỉ mới bắt đầu chiến đấu và chưa giành lại được bất kỳ lãnh thổ nào, nhưng ông đã sẵn sàng cho chiến lược tiến công và cả kế hoạch ngoại giao sau khi đánh bại một đối thủ lớn gấp 10 lần quốc gia của mình. Với tài năng quân sự, Nguyễn Huệ đã tổ chức một cuộc hành quân nhanh chóng và hiệu quả từ Huế đến Tam Điệp. Ông dự định sẽ kết thúc cuộc hành quân và vào ăn Tết ở Thăng Long vào mùng 7 tháng Giêng, nhưng thực tế đã vượt xa hơn so với dự kiến.
Hình ảnh Quang Trung trong chiến trận rất lẫm liệt. Ông không chỉ là một hoàng đế trên giấy tờ mà còn là một tổng chỉ huy chiến dịch thực thụ, lãnh đạo mọi khía cạnh của cuộc chiến. Đội quân của Quang Trung không chỉ là những người lính xuất sắc, mà còn là những người đã trải qua những ngày hành quân gian khổ mà không có thời gian nghỉ ngơi. Dưới sự chỉ huy tài tình của ông, họ đã thắng lớn trong nhiều trận đánh và thể hiện sức mạnh vượt trội của mình.
Chiến thắng Đống Đa năm Kỷ Dậu (1789) là một trang sử lịch sử đầy sáng tạo trong cuộc đấu tranh chống xâm lăng của dân tộc. Nó minh chứng cho sức mạnh vĩ đại của lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng đối với kẻ thù ngoại xâm. Chiến thắng này đã ghi dấu tên tuổi vĩ đại của vua Quang Trung trong lòng người dân và trở thành nguồn cảm hứng vĩnh cửu cho thế hệ sau:
Bên bờ áo vải nay cờ đào,
Đất nước hùng cường, dân tự hào công lao.
(Ai tư vãn – Ngọc Hân công chúa)
Phân tích hình tượng vua Quang Trung từ góc độ mới
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 2
Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải của Tây Sơn là niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam. Với tài năng quân sự xuất sắc, ông đã đánh bại hàng chục nghìn quân Thanh, làm cho kẻ phản bội và bán nước phải trắng tay và xấu hổ. Trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, phần thứ mười bốn của nhóm Ngô gia văn phái đã miêu tả rất đầy đủ nhân cách của Nguyễn Huệ, làm cho chúng ta ngưỡng mộ sự vĩ đại của người anh hùng áo vải từ Tây Sơn.
Chân dung nguyên thủy của Nguyễn Huệ, được trình bày qua lời của một người phụ nữ hầu hạ trong cung vua, trò chuyện với hoàng hậu. Mặc dù cô vẫn coi Nguyễn Huệ như 'kẻ thù', và gọi ông là 'hắn', nhưng cô không thể giấu được sự ngưỡng mộ với tài năng phi thường của Nguyễn Huệ. Một đoạn trong lời trò chuyện của cô hầu:' Nguyễn Huệ là một vị anh hùng tài ba, mạnh mẽ và có khả năng lãnh đạo quân đội. Khi ông đi từ Bắc vào Nam, ông hoàn toàn ẩn nấp như một bóng ma, không ai có thể đoán trước được. Ông bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết lợn...'. Mặc dù cô hầu có lựa chọn từ ngữ cẩn trọng, phù hợp, nhưng thái độ thán phục của cô đối với tài năng của Nguyễn Huệ đã là đủ để thấy rằng ông đã đạt được thành công đến đâu.
Ngay cả những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái, mặc dù theo 'phong trào chính thống', nhưng trước tài năng của Nguyễn Huệ, họ vẫn không thể không ngợi khen ông một cách trung thực và khách quan. Bằng cách mô tả trực tiếp cuộc hành quân tốc độ của Nguyễn Huệ, tác giả đã làm cho mọi người thấy được tài năng quân sự xuất sắc của anh hùng áo vải Tây Sơn. Khi quân Thanh đe dọa Thăng Long, Nguyễn Huệ đã quyết định tìm lời khuyên từ mọi người, thực hiện nghi lễ tại núi Bân, tế cáo trời đất và lên ngôi vua dưới tên Quang Trung. Sau khi hoàn thành nghi lễ, ông mới ra lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ rằng mặc dù có tài năng vượt trội, Nguyễn Huệ biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác.
Tính cách đặc biệt của ông cũng là một điều đáng để chúng ta nể phục và học tập. Việc Nguyễn Huệ chọn thời điểm Tết Nguyên đán để tiến quân vào Thăng Long chứng tỏ phần nào về tài năng quân sự của ông. Bởi vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ bị lơ là nhất. Nguyễn Huệ hiểu rõ sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài lãnh đạo quân đội mà còn có khả năng thuyết phục. Trong lời kêu gọi của mình, ông đã khích lệ tình yêu đất nước, căm thù kẻ thù và tôn vinh truyền thống chống ngoại xâm:' Quân Thanh đã xâm lược đất nước của chúng ta, đã đến Thăng Long, các người đã biết chưa?... Người phương Bắc không giống chúng ta, họ đã cướp bóc đất nước của chúng ta nhiều lần, giết hại dân ta, vơ vét của cải của chúng ta mà không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.
Thời kỳ Hán có Trưng Nữ Vương, thời kỳ Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, thời kỳ Nguyên có Trần Hưng Đạo, thời kỳ Minh có Lê Thái Tổ, các vị này không thể nhìn thấy tàn bạo của kẻ thù mà không làm gì. Họ đã giành lòng tin của nhân dân, lên đường với quân đội chỉ cần chiến thắng một trận là đủ để đuổi chúng về phương Bắc...'. Lời kêu gọi của Quang Trung có sức thuyết phục không kém Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí rất khâm phục ở Nguyễn Huệ là khả năng lãnh đạo. Ví dụ điển hình là việc giữ Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình 'Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn', 'bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng’ .
Nguyễn Huệ cũng dự đoán chính xác những sự kiện sắp xảy ra. Ông tự tin nói rằng: 'Khi này tôi cầm quân tiến vào, phương lược tiến đánh đã được lập trước, chỉ cần mười ngày có thể đuổi được quân Thanh đi'. Nhưng ông cũng luôn cẩn thận với hậu quả: ' Khi quân Thanh thất bại, họ nhất định sẽ muốn trả thù. Do đó, cuộc chiến không bao giờ kết thúc'. Và ông đã lên kế hoạch chọn người 'kheo léo trong lời' để 'dẹp việc chiến tranh” đó cũng là Ngô Thời Nhậm. Từ cách suy nghĩ của vua Quang Trung, chúng ta thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn quan tâm đến lợi ích của nhân dân. Ông không muốn nhân dân phải chịu đựng nỗi đau từ chiến tranh. Trong khi tiến quân, ông cũng chọn cách bảo vệ quân sĩ: 'Vua đã yêu cầu lấy sáu chục tấm ván, mỗi ba tấm ghép lại thành một bức, sau đó phủ kín bên ngoài bằng rơm. Khi quân Thanh nổ súng, đạn bắn ra nhưng không gây thương tích cho bất kỳ ai'. Đó là cách làm xuất sắc cũng như tâm hồn của một vị lãnh đạo quân sự.
Việc Quang Trung tiêu diệt quân Thanh trong Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí được miêu tả sống động. Từ đó, độc giả có thể hiểu được hình ảnh của anh hùng áo vải Quang Trung không chỉ là một nhà quân sự thiên tài 'xuất quỷ, nhập thần', mà còn là một lãnh đạo quân sự giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc sâu sắc. Ông là biểu tượng của sự quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam, đối lập hoàn toàn với những vị vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi là một người được mọi người kính trọng và yêu mến.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 2
Quang Trung – Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, một anh hùng dân tộc kiệt xuất. Hình ảnh của vua Quang Trung biểu hiện tinh thần quyết đoán, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Với chỉ 39 tuổi, Quang Trung đã tham gia 22 năm chiến đấu để thống nhất đất nước và bảo vệ độc lập của nước. Mỗi chiến công trong cuộc đời của Quang Trung là một cột mốc quan trọng trong lịch sử của dân tộc.
Khi nói về vua Quang Trung, chúng ta phải nói về một anh hùng quyết đoán và mạnh mẽ. Ngay khi nghe tin quân địch xâm lược Thăng Long, ông đã tức giận và tổ chức họp mặt các tướng lĩnh để 'cầm quân đi ngay'. Trong vòng một tháng, Nguyễn Huệ đã thực hiện nhiều việc lớn: 'Tế cáo trời đất', 'lên ngôi hoàng đế', 'đốc suất đại binh' ra Bắc, gặp gỡ 'người cống sĩ ở huyện La Sơn', tuyển mộ quân lính và tổ chức các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phụ trách tuyển chọn tướng lĩnh và lập kế hoạch chiến lược. Quang Trung là một người hành động liên tục, không ngừng làm việc, quyết đoán trong mọi quyết định, xứng đáng là một vị lãnh đạo trên hàng vạn người.
Vua Quang Trung còn được biết đến là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén trong mọi tình huống. Ông có tầm nhìn xa trải, mưu cao trí lược, và khả năng nhìn nhận tổng thể giúp ông định hình tình hình và thời đại ông sống. Ông đã sử dụng sự sáng suốt đó để giữ cho tình hình ổn định và thu hút lòng người. Ông phân tích tình hình quân địch, đánh giá thế lực hai bên để đưa ra các quyết định chính xác. Quang Trung đã lôi kéo những tướng lĩnh dưới quyền bằng cách nhắc nhở họ về những điểm yếu của họ, đồng thời tha thứ cho họ. Ông làm điều đó một cách sáng suốt, thu hút tinh thần của mọi người.
Đối với Quang Trung, tư duy chiến lược quyết đoán, quyết thắng và tầm nhìn xa rộng là vô cùng quan trọng. Ông đã mạnh mẽ khẳng định rằng chỉ trong vòng mười ngày có thể giành lại Thăng Long, nói là làm, điều này được coi là một trong những trận đánh anh hùng nhất trong lịch sử kháng chiến chống xâm lược của dân tộc. Ông còn sử dụng ngoại giao một cách tài tình để bảo vệ hòa bình và cuộc sống của nhân dân. Trên chiến trường, ông tổ chức các trận đánh rất linh hoạt, sáng tạo, kết hợp nhiều kế binh khôn ngoan, phối hợp nhuần nhuyễn giữa các cánh quân, luôn giữ vị thế chủ động, khi cần phòng ngự, và luôn tận dụng điểm yếu của kẻ địch khiến chúng bất lực. Khả năng chiến lược của ông không thể phủ nhận: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc, trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, sử dụng kế gậy để đập lưng quân địch, đồng thời phản kích chốt quân địch khiến chúng rối bời và hoảng sợ.
Xây dựng hình ảnh vua Quang Trung với vẻ mạnh mẽ, trí tuệ và lòng dũng cảm, là biểu tượng của anh hùng dân tộc Việt Nam, không khuất phục.
Phân tích hình ảnh vua Quang Trung - Mẫu 3
Nguyễn Huệ, vị tướng tài ba đã dùng chiến thuật thông minh để chiếm Phú Xuân. Nguyễn Huệ, vị chỉ huy lão luyện đã đánh bại ba vạn quân Xiêm xâm lược tại Rạch Gầm - Xoài Mút trong một trận thủy chiến kinh hoàng. Nguyễn Huệ, anh hùng áo vải đã lật đổ chế độ của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và kết hôn với công chúa Ngọc Hân, gieo rắc nỗi kinh hoàng trong Bắc Hà. Nguyễn Huệ - vua Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược, tạo ra Gò Đống Đa lịch sử vĩnh cửu.
Đọc Hồi thứ 14 'Hoàng Lê nhất thống chí', hình ảnh của anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ đã in sâu vào lòng người, để lại ấn tượng mạnh mẽ không phai mờ.
Những tác giả, những người con nổi bật của dòng họ Ngô tại Tả Thanh Oai đã mượn lời của những cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tâu với Thái Hậu, rất khách quan, để giới thiệu Nguyễn Huệ với sự tâm phục và kinh sợ. Vì ở phía bên kia, phe đối địch, nên từ 'hắn' mà người cung nhân này dùng để chỉ Nguyễn Huệ vẫn làm nổi bật vị chiến tướng trăm trận trăm thắng.
'Không ai không biết rằng, Nguyễn Huệ là một anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn từ Bắc vào Nam, không ai có thể đoán trước. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một ai dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn chỉ bằng tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hắn hơn cả sấm sét.'
Cần phải hiểu rằng vào thời điểm đó, Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh đã bao vây Thăng Long, xem thường nước ta, coi chúng ta chỉ là một phần của quốc gia của họ, Lê Chiêu Thống đã được Thiên triều phong làm vua của An Nam, nhưng với cái nhìn sắc bén, người cung nhân cũ đã chỉ ra sự thất bại chắc chắn của những kẻ xâm lăng và bè lũ bán nước: 'E rằng chẳng bấy lâu nữa, hắn sẽ xuất hiện lại, tổng đốc Tôn sẽ dẫn quân về phía Bắc để chống lại chúng, lúc đó kẻ thù sẽ ra sao?' Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm 1789 đã chứng tỏ rằng lời nói ấy là một dự báo tinh thần, một chân lí lịch sử đầy uy nghi.
Nguyễn Huệ là một người 'biết lắng nghe và quyết đoán'. Ngày 24 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788) nhận được báo cáo từ Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Huệ 'nổi giận lắm' muốn 'cầm quân đi ngay' nhưng trước khi ra quyết định 'hãy chính vị hiệu', ông đã lắng nghe để 'giữ lấy lòng dân' rồi mới ra quyết định xuất quân tiêu diệt bọn xâm lược Bắc. Việc tổ chức nghi lễ ở núi Bân, tế cáo trời đất, tôn thờ thần sông, thần núi, lên ngôi hoàng đế mang hiệu là Quang Trung đã thể hiện cái tầm nhìn chiến lược của người anh hùng áo vải khi đất nước đối diện với nguy cơ bị xâm lăng.
Cứu nước như cứu lửa. Ngày 25 Nguyễn Huệ vẫn còn ở Thuận Hóa đã dẫn quân tới Nghệ An: gặp cống sĩ Nguyễn Thiếp, tuyển thêm một vạn binh, tổ chức lễ duyệt binh lớn và truyền hịch tiến hành đánh giặc để kích thích tinh thần chiến binh và ba quân 'đoàn kết hiệp sức, để đạt được thành công lớn', nghiêm túc cảnh báo những kẻ 'ăn ở hai lòng ... sẽ bị tiêu diệt ngay lập tức', vạch trần sự tàn bạo tham lam của kẻ từ phương Bắc để kích thích lòng căm hận, kêu gọi tướng lĩnh noi gương Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ... để dọn sạch quân xâm lược khỏi đất nước.
Chỉ trong hơn một ngày đêm, Nguyễn Huệ đã dẫn quân ra tới Tam Điệp để hợp kê với quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở. Ông ra lệnh cho tướng sĩ ăn tết trước, hẹn gặp vào mùng 7 tại Thăng Long để mở tiệc mừng, sau đó chia quân ra thành năm nhóm binh lớn 'gọi quân lên đường ra Bắc'.
Nguyễn Huệ thật sự là một người 'lão luyện, dũng mãnh và tài năng trong việc chỉ huy quân đội.' Ông đã tận dụng yếu tố bất ngờ để đánh bại kẻ thù: bắt sống toàn bộ quân giặc do thám tại sông Thanh Quyết và đồn Hà Hồi, bao vây tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, hàng vạn giặc bị giết 'máu chảy thành sông, xác nằm đầy đồng'. Ở đầm Mực làng Quỳnh Đô, quân Thanh bị bao vây, 'quân Tây Sơn dùng voi làm giày đạp cho giặc chết hàng vạn người.' Trong một trận đánh 'rực lửa' tại Khương Thượng, xác giặc chất đống cao như núi. Nguyễn Huệ tiến công mạnh mẽ, như 'tướng từ trên trời xuống, quân từ dưới đất lên', khiến Tôn Sĩ Nghị 'làm sao bảo mật, ngữ còn chưa kịp đóng yên, người còn chưa kịp mặc áo giáp... và lẻn đi hướng Bắc.' Trưa ngày mùng 5, Nguyễn Huệ và quân đội đã tiến vào Thăng Long trước kế hoạch hai ngày.
Trí tuệ quân sự - chính trị của Nguyễn Huệ rất sâu sắc và thông minh. Trong quá trình tiến quân đánh đuổi kẻ thù Thanh, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm, 'người giỏi lời nói', để 'kết thúc nỗi loạn binh đao', mang lại 'niềm vui cho dân chúng.'
Chiến thắng Đống Đa năm Kỷ Dậu (1789) là một trang sử chống lại sự xâm lược vô cùng tỏa sáng của dân tộc chúng ta. Nó thể hiện sức mạnh vượt trội của tình yêu nước và quyết tâm đánh bại kẻ thù ngoại xâm của dân tộc. Nó đã tạo ra một tượng đài lộng lẫy, hùng vĩ cho người anh hùng áo vải - vua Quang Trung để mọi người dân ta đều tự hào và ngưỡng mộ:
'Bây giờ áo vải cờ đào,
Giúp dân xây dựng nước non công việc gì'
('Ai tư vấn' – Công chúa Ngọc Hân)
Việc xây dựng và vẽ nét hình tượng của người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành tựu đặc biệt. Điều này khiến cho tác phẩm văn học 'Hoàng Lê nhất thống chí' trở nên sâu sắc với tinh thần yêu nước, tinh thần anh hùng của Đại Việt.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 4
Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm viết về những sự kiện lịch sử, với nhân vật chính là anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông mang trong mình vẻ đẹp của một anh hùng dân tộc trong cuộc chiến vĩ đại đánh đuổi quân Thanh, với lòng dũng cảm, trí tuệ, và tầm nhìn xa rộng thì Quang Trung thật sự là một hình tượng tuyệt vời trong lòng người Việt Nam.
Một cá nhân hành động mạnh mẽ và quyết đoán: Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn là người hành động một cách mạnh mẽ, quyết đoán, và nhanh chóng, có mục tiêu rõ ràng và quyết tâm. Khi nghe tin quân địch chiếm thành Thăng Long, mất đi một phần lớn lãnh thổ mà ông không bao giờ do dự, 'quyết tâm cầm quân đi ngay'.
Sau chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã thực hiện nhiều công việc đáng kinh ngạc: 'Phê phán trời đất', 'lên ngôi vua', 'giao chỉ huy quân lớn' để đi Bắc gặp 'người tài ở huyện La Sơn', tuyển mộ quân lính và tổ chức các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, thu phục tướng sĩ, lập kế hoạch hành quân, đánh giặc và dự phòng với nhà Thanh sau chiến thắng.
Ngoài ra, ông còn có trí tuệ sắc bén, nhạy bén:
Sắc bén trong việc phân tích tình hình và thế tương quan chiến lược giữa chúng ta và đối phương. Đưa ra những lời khuyên có thể xem như một bài diễn văn ngắn nhưng ý nghĩa sâu sắc, giàu ý và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lòng yêu nước và truyền thống bất khuất của dân tộc.
Sắc bén nhạy bén trong việc đánh giá và sử dụng con người, thể hiện qua cách xử lý với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân chịu trách nhiệm. Ông hiểu rõ tài năng và hạn chế của các tướng sĩ, đánh giá chính xác và khen ngợi đúng người đúng việc,...
Cùng với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng, Quang Trung đã ghi dấu ấn trong lịch sử vĩ đại của dân tộc. Dù mới bắt đầu cuộc chiến chống lại quân Thanh mà chưa giành được mảnh đất nào, nhưng Quang Trung đã tự tin như đinh đóng cột với 'kế hoạch tiến đánh đã được lên sẵn', và còn lập sẵn kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng quốc gia lớn gấp 10 lần Việt Nam, nhằm chấm dứt xung đột quân sự, đem lại hòa bình cho đất nước và bảo đảm sự ổn định cho nền kinh tế.
Tài nghệ binh phép như thần: Chiến dịch di chuyển nhanh chóng dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung vẫn làm chúng ta kinh ngạc. Bắt đầu từ ngày 25 tháng Chạp tại Phú Xuân (Huế), chỉ trong một tuần, quân đội đã đi đến Tam Điệp cách Huế 500km. Vào đêm mùng 30 tháng Chạp, khi hành quân ra Bắc và tiến công, ông đã dự định sẽ đến Thăng Long ăn tết vào ngày mùng 7 tháng Giêng, nhưng thực tế đã đến sớm hơn hai ngày. Mặc dù hành trình xa xôi và khó khăn nhưng quân lính vẫn gọn gàng, sẵn sàng lắng nghe chỉ huy.
Hình ảnh Quang Trung mạnh mẽ trong trận chiến: Vị hoàng đế Quang Trung không chỉ là một lãnh đạo trên giấy tờ. Ông là một chỉ huy chiến trường thực thụ, lên kế hoạch chiến lược, tổ chức quân đội, tự mình dẫn đầu tiến công, cưỡi voi động viên binh lính, dũng cảm đối mặt với nguy hiểm, lập kế hoạch chiến lược...
Đội quân dưới quyền vua Quang Trung không phải là đội quân đã sẵn sàng cho cuộc chiến, và họ vừa trải qua những ngày di chuyển nhanh chóng mà không có thời gian nghỉ ngơi, tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chỉ huy này, họ đã tham gia vào những trận đánh ấn tượng, đánh bại kẻ thù (bắt sống toàn bộ quân do thám của địch tại Phú Xuyên, giữ bí mật để tạo sự bất ngờ, bao vây làng Hạ Hồi...) Trận Ngọc Hồi thật sự cho thấy tài trí và tính quyết đoán của vua Quang Trung (khói mù trời, không thấy gì ngoài hình ảnh rực rỡ của vua Quang Trung...có sách ghi lại chiếc áo bào đỏ của ông bị đen bởi khói súng...)
Từ những trích đoạn trên, chúng ta thấy một nhân vật nổi bật trong lịch sử: Mạnh mẽ và oai vệ, văn võ song toàn, Quang Trung đã ghi dấu ấn vào lịch sử vĩ đại của dân tộc, làm sáng bừng truyền thống dân tộc, và mãi mãi, tên của anh hùng áo vải Quang Trung vẫn được nhắc đến.
Phân tích về hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 5
“Kẻ thù tàn ác, quân vua hùng mạnh
Một trận chiến oai hùng, toàn bộ bốn phương
Thần tốc hành quân, xông thẳng về phía trước
Giống như thần thánh từ trên trời xuống, không ai dám đương đầu”
(Ngô Ngọc Dụ)
Vua Quang Trung, vị anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Vẻ uy nghi và trí tuệ của vua Quang Trung đã được phản ánh đầy đủ, toàn vẹn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14.
Hồi thứ 14 kể về lần thứ ba ra Bắc Hà của Nguyễn Huệ. Ông đã thực hiện chiến công kỳ diệu nhất trong lịch sử Việt Nam, với tốc độ tiến công chóng vánh, chỉ trong 10 ngày ông đã tiêu diệt toàn bộ quân Thanh, khẳng định lại sự độc lập của đất nước. Trong đoạn trích ngắn này, vẻ uy phong oai vệ, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược của ông đã được thể hiện rõ ràng nhất.
Đọc Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14, ấn tượng đầu tiên về vị anh hùng này là sự sáng suốt và quyết đoán. Ngay khi 20 vạn quân Thanh xâm nhập vào Bắc, chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ mới là vị vua của Bắc Bình Vương và Phú Xuân. Nghe tin cấp báo, ông đã quyết định xuất quân ngay. Mặc dù bị khuyên ngăn, nhưng ông suy nghĩ thấu đáo, quyết định lên ngôi vua trước, để có thể dẫn quân ra Bắc. Ngay sau khi lên ngôi, Nguyễn Huệ - hay còn gọi là Quang Trung - đã ra lệnh xuất quân ngay. Không chỉ vậy, để giành chiến thắng trước một đối thủ mạnh, đòi hỏi phải có một trí tuệ sáng suốt. Quang Trung đã rất mưu lược, sáng suốt khi nhận định tương quan tình hình hai bên, ra lời hịch vừa để khích lệ binh tướng, vừa để răn đe, cảnh tỉnh với những kẻ hai lòng. Ông vô cùng sáng suốt khi nhận rõ bản chất của kẻ định, và khơi dậy lòng yêu nước ở những người chiến sĩ. Trước những lời lẽ đanh thép, sắc sảo của ông tướng sĩ trên dưới một lòng đều nhất nhất tuân lệnh: “xin vâng lệnh không dám hài lòng”.
Không chỉ thế, trí tuệ của ông còn thể hiện qua cách nhận xét về thế mạnh và điểm yếu của tướng sĩ. Ông hiểu rõ khả năng của Sở và Lân, họ chỉ là “những võ sĩ dũng mãnh, chỉ biết đánh khi gặp giặc, không có tài nghệ”. Do đó, ông không trách móc, không kết án họ. Ông chỉ đề cử Ngô Thì Nhậm – một người tài năng về mưu lược để hỗ trợ hai tướng lĩnh. Việc hiểu biết và sử dụng đúng đắn con người đã khiến tất cả binh sĩ đều phấn khích và kính trọng. Nhờ có sự hiểu biết như vậy, ông đã thu phục được lòng tin của mọi người.
Cuối cùng, sự sáng suốt của ông còn thể hiện qua tầm nhìn xa trông rộng. Ông hiểu rõ tình hình, quân Thanh đang đóng quân gần hết Bắc Hà, nhưng ông vẫn tự tin rằng chỉ trong mười ngày sẽ xua đuổi toàn bộ quân Thanh. Tuy nhiên, ông không chỉ lo lắng về việc đánh bại kẻ thù, mà còn nghĩ đến cách ứng xử sau khi đánh bại chúng. Ông đã chọn Ngô Thì Nhậm, để “dùng lời khéo léo dẹp yên binh đao”. Hành động đó cũng là để cho người dân được nghỉ ngơi, có thời gian trong mười năm tới để xây dựng đất nước, củng cố lực lượng quân sự. Như vậy, khi gặp phải xâm lược từ Thanh, chúng ta không còn phải lo ngại gì nữa. Tất cả những việc làm trên đã làm cho ông trở thành một nhà lãnh đạo sáng suốt, được mọi người kính trọng như thần.
Nhưng ông không chỉ dừng lại ở việc là một người sáng suốt, mà trong tác phẩm của Ngô Gia Văn Phái, Quang Trung còn được miêu tả như một người có tài nghệ thuật chiến lược vượt trội. Ngay sau khi ra lệnh xuất quân ra Bắc, ông lập tức lên đường, đồng thời tuyển quân, làm cho quân lực trở nên mạnh mẽ hơn. Ông thực hiện cuộc hành quân nhanh nhất trong lịch sử, khiến cho mọi người đều kinh ngạc, từ Phú Xuân đến Thăng Long chỉ mất bốn ngày, trong khi còn tuyển quân và phương tiện chủ yếu là đi bộ hoặc đi ngựa. Tốc độ hành quân nhanh chóng cũng làm cho kẻ thù bất ngờ.
Ngoài ra, ông cũng biết chọn thời điểm chính xác, tận dụng cơ hội lúc giặc lơ đãng, lo lắng để tiến hành một cuộc chiến lớn, đánh bại toàn bộ lực lượng của chúng. Trong mỗi trận đánh, ông thể hiện sự linh hoạt tuyệt vời, khiến kẻ thù choáng váng, tưởng rằng “tướng từ trên trời rơi xuống, quân từ dưới đất chui lên”. Điều đó dẫn đến chiến thắng tất yếu của quân ta và thất bại đau đớn của kẻ thù. Quang Trung cùng với các tướng lĩnh của mình đã tạo ra một trang sử rực rỡ và hào hùng về việc xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc ta.
Điều đẹp đẽ nhất là khi vua Quang Trung đứng lãnh đạo đội quân tướng sĩ trên chiến trường, vẻ oai vệ, lẫm liệt của ông không thể phủ nhận. Vua Quang Trung thân chinh cầm một mũi tiến công, chỉ huy ra trận. Dưới ánh sáng của buổi sáng, giữa khói súng đạn, người anh hùng cưỡi voi, mặc áo bào hào hùng xông ra trận đấu với kẻ thù. Một hình ảnh uy nghi, lẫm liệt và vô cùng đẹp đẽ. Hình ảnh đó đã trở thành biểu tượng vĩnh cửu của dân tộc Việt Nam.
Trong Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14, tượng của anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ đã được tạo nên với sự thành công rực rỡ. Ông là một người tài ba, một vị vua dũng mãnh và sáng suốt, đã đánh bại quân xâm lược để mang lại độc lập cho dân tộc. Vẻ đẹp trí tuệ của vua Quang Trung cũng là biểu tượng rõ nét của dân tộc Việt Nam.
Phân tích về hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 6
Hoàng Lê Nhất thống chí là một tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng của nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái. Những sự kiện lịch sử được ghi chép một cách chi tiết và đáng tin cậy. Ngoài việc phác họa những sự kiện trong cuộc chiến giành quyền lực giữa nhà Lê và phong trào Tây Sơn, tác phẩm cũng tập trung vào việc tái hiện nhân vật anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ, điều này rõ ràng nhất trong hồi thứ 14.
Trước hết, chúng ta có thể thấy rằng Quang Trung là một người quyết đoán. Mọi hành động của ông đều được suy nghĩ kỹ lưỡng, ông biết mục tiêu cần đạt và quyết tâm hành động để đạt được nó. Điều này được minh chứng bằng các sự kiện cụ thể. Khi biết rằng quân Thanh đang đánh chiếm Thăng Long - vị trí chiến lược quan trọng của quân ta, ông không sợ hãi hay do dự mà tổ chức họp với các tướng lĩnh để đề ra các chiến lược, sau đó tự mình cầm quân lên đường. Có lòng căm thù sâu sắc và ý chí lớn, chỉ có Quang Trung mới có hành động như vậy. Khi nghe lời khuyên từ các trợ thần, ông không ngần ngại mà tức thì 'đắp đàn trên núi Bân', tổ chức lễ tế tôn trọng trời đất và các thần linh, và đưa mình lên ngôi hoàng đế. Khi lên ngôi vua, ông nhận lấy trọng trách lớn lao với dân, với nước, và ngay sau khi lễ tế kết thúc, ông đã cấp tốc xuất quân vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân.
Không chỉ là một lãnh đạo quyết đoán, giàu mưu lược, Quang Trung Nguyễn Huệ còn biết đánh giá cao và sử dụng những người tài. Trước khi quân Thanh xâm lược, Nguyễn Huệ đã tham khảo ý kiến của Nguyễn Thiếp nhằm đề xuất kế sách toàn vẹn nhất. Sau khi đưa quân đến Nghệ An, khi nghe lời khuyên từ Nguyễn Thiếp, ông tổ chức kén lính và chiêu mộ quân sĩ. Khi hoàn tất, ông tổ chức duyệt binh và phân bố quân thành tiền, hậu, tả, trung để đối phó với địch. Sau khi kêu gọi binh lính và tướng sĩ, Quang Trung quyết định tiến công, chỉ đạo kế hoạch và hướng dẫn phương hướng đối phó với quân Thanh trong thời gian ngắn. Những hành động nhanh nhạy, ý chí mạnh mẽ và kiên quyết cho thấy bản lĩnh vượt trội của vị vua dũng cảm.
Trong triều vua Quang Trung, không chỉ có sự quyết đoán mạnh mẽ mà còn là sự thông minh, nhìn nhận sâu sắc. Ông hiểu rõ điểm yếu, điểm mạnh của chúng ta và địch, đưa ra quyết định đúng đắn vào thời điểm phù hợp. Những lời phủ dụ của ông không chỉ sâu sắc mà còn mang đến sự động viên, khích lệ chiến đấu cho binh lính. 'Quân Thanh đã xâm lược chúng ta, đừng nghĩ rằng chúng ta sẽ không nói trước'. Những lời này đã phát ra từ một người tài năng và đầy nhiệt huyết, khiến binh lính vâng lệnh mà không do dự: 'Xin vâng lệnh, không dám phản đối'.
Sự thông minh xuất sắc của ông còn được thể hiện qua việc sử dụng những người tài năng xung quanh. Việc chọn Ngô Thì Nhậm, một người giỏi lý lẽ và khéo lời, để làm tướng và đàn áp loạn đao binh đã mang lại hòa bình cho đất nước. 'Lần này khi ra, quân ta đông và mạnh, chúng ta sợ gì chúng?'. Đặc biệt, cách ông xử lý Sở và Lân trên núi Tam Điệp đã khiến mọi người phải kính trọng.
Nhờ vào sự lãnh đạo thông minh của Nguyễn Huệ, cuộc chiến đã đem lại những chiến thắng nhanh chóng và lợi lạc. Từ Huế đến Tam Điệp chỉ trong vòng một tuần, quân ta đã thực hiện một loạt cuộc hành quân nhanh chóng. Đến Thăng Long vào ngày 30 tháng chạp, ông đã hoàn thành nhiệm vụ vào ngày 5 tháng sau. Tại Phú Xuân, quân ta bắt sống nhiều binh lính Thanh đang trốn chạy. Ở làng Hà Hồi, quân ta vây quanh khiến kẻ địch hoảng sợ, đầu hàng và giao nộp mọi vũ khí, lương thực. Trận đánh tại đồn Ngọc Hồi quyết liệt, quân Thanh không cầm cự được và phải bỏ chạy tán loạn. Quân ta chiến thắng, kẻ Thanh thảm bại, tướng Sầm Nghi Đống thậm chí còn tự vẫn trên trận trường.
Anh hùng Nguyễn Huệ, một nhà chỉ huy tài ba, được vẽ nét rõ nét qua từng trang sách. Điều này khiến chúng ta tự hào về truyền thống yêu nước, về những danh nhân của quá khứ. Từ đó, chúng ta cố gắng học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân mỗi ngày, sống với lý tưởng yêu nước mà tổ tiên chúng ta đã truyền lại.
Phân tích về hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 7
Trường phái văn học của gia đình Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây nổi tiếng với bộ sách bao gồm thơ, phú, và truyện kí, không chỉ xuất sắc về nghệ thuật mà còn có giá trị lịch sử cao. Trong số đó, phải kể đến 'Hoàng Lê nhất thống chí' như một tác phẩm lịch sử to lớn kể lại những biến động của đất nước trong thời kỳ Trịnh Sâm, phong trào Tây Sơn và việc lật đổ nhà Thanh. Trong bức tranh rộng lớn đó, hình ảnh của người anh hùng Quang Trung tỏa sáng.
Hình tượng người anh hùng Tây Sơn được tập trung mạnh mẽ qua hồi 4, hồi 5 và hồi 14. Ở đó, người anh hùng hiện lên với tinh thần mạnh mẽ và tài năng, là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến sụp đổ của triều đại Lê-Trịnh và chiến thắng huy hoàng của nghĩa quân Tây Sơn. Với khí thế mạnh mẽ, hình tượng của người anh hùng Quang Trung toả sáng như các anh hùng vĩ đại khác trong lịch sử.
Một trong những yếu tố quan trọng để trở thành một người anh hùng là tôn trọng 'nhân nghĩa' (như Nguyễn Trãi đã nói trong 'Bình Ngô đại cáo'). Và ở Quang Trung, mọi hành động và suy nghĩ của người anh hùng đều bắt nguồn từ tấm lòng tốt, sự quan tâm đến dân, lo lắng cho quốc gia. Khác biệt với những vị vua bất lương như Lê Chiêu Thống, tình yêu nước mãnh liệt trong tâm hồn của vị tướng tài đã thúc đẩy ông đứng lên và dẫn quân đánh giặc ngay khi nghe tin quân Thanh sắp xâm lược. Tình yêu nước đã truyền cảm hứng cho các binh sĩ thông qua những lời hiệu triệu mạnh mẽ, quyết định, thể hiện quyết tâm cao cùng phát động chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Ông tin vào truyền thống dũng cảm chống giặc của dân tộc Việt Nam từ thời Bà Triệu, Bà Trưng, và tin rằng tội ác của quân giặc không thể tha thứ. Điều này khiến ta nhớ về lời hiệu triệu của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ngày xưa, thúc đẩy tinh thần của binh sĩ. Tình yêu nước đã truyền cảm hứng cho cả dân tộc từ xa xưa.
Không chỉ yêu nước và quý trọng dân, Quang Trung còn là một nhà lãnh đạo tài ba. Sự thông minh, tầm nhìn xa trông rộng của ông không chỉ giúp ông nhận biết đúng thời cơ và lập kế hoạch chiến lược hiệu quả mà còn giúp ông dự đoán được phản ứng sau khi giành chiến thắng. Nhờ vào sự sáng suốt, ông hiểu rằng quân đội dân chủ là trụ cột của chiến thắng, vì vậy ông khuyến khích tinh thần chiến đấu của binh sĩ, thậm chí cho họ ăn Tết trước khi bước vào trận đấu. Đặc biệt là cuộc hành quân và chiến thắng nhanh chóng trước quân Thanh chỉ trong 5 ngày đã làm kinh ngạc mọi người, chứng tỏ tài năng quân sự và trí tuệ đáng kinh ngạc của người anh hùng này.
Ở Quang Trung, không thiếu đi chính trực của một người anh hùng. Ông thể hiện sự quyết đoán, quyết tâm và hành động nhanh chóng khi nghe tin đánh giặc. Chỉ trong vòng một tháng, ông đã hoàn thành các nghi lễ và tập hợp đủ quân số cần thiết để chiến đấu, thể hiện quyết tâm và khả năng lãnh đạo tốt trong chiến trận chống lại quân Thanh.
Quang Trung là một vị tướng gan dạ, dũng cảm. Ông trực tiếp mặc giáp, cưỡi voi, hùng dũng ra trận, không chỉ chỉ đạo quân mà còn trực tiếp chiến đấu, dẫn đầu đội mũi giáo vào tấn công kẻ thù. Anh hùng này, với lòng gan dạ, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ hòa bình cho đất nước, làm phấn chấn khí thế cho nghĩa quân Tây Sơn, khiến quân địch sợ hãi và thất bại nhanh chóng.
Với sự kết hợp của tâm, tài, chí, và dũng, Quang Trung là tâm hồn của nghĩa quân Tây Sơn và là biểu tượng của tinh thần dân tộc trong thời đại ấy. Như Nguyễn Trãi đã nói: 'Mỗi thời đại đều có anh hùng của riêng mình'. Họ là Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, và giờ đây là Quang Trung. Dù khác nhau về thời đại, nhưng những anh hùng này đều mang trong mình tinh thần dũng cảm và sự tự hào của dân tộc, để lại những truyền thống vĩ đại cho thế hệ sau.
Hình tượng của anh hùng áo vải Nguyễn Huệ là biểu tượng của một thời kỳ hoàng kim trong lịch sử dân tộc, khuyến khích ý thức dân tộc và nhắc nhở mọi người phải tiếp tục truyền thống, bảo vệ đất nước.
Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 8
Hoàng Lê nhất thống chí là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết bằng chữ Hán ghi lại những sự kiện quan trọng trong lịch sử của gia đình Ngô. Tác phẩm này đã để lại ấn tượng sâu sắc về một con người Việt Nam - một người tài năng yêu quê hương và dành trọn cuộc đời để phục vụ nhân dân. Đó chính là Quang Trung - anh hùng của dân tộc, người có công lớn trong việc đánh bại quân Thanh. Đặc biệt, qua hồi thứ 14 của Hoàng Lê nhất thống chí, Quang Trung hiện lên với một tinh thần lớn lao và chiến lược thông minh.
Quang Trung, một anh hùng mang nhiều tài năng, nhưng điều đầu tiên phải nói đến là tính mạnh mẽ và quyết đoán mỗi khi ông hành động. Trong suốt đoạn trích này, ông hiện lên như một người có tính cách mạnh mẽ, quyết đoán trong mọi quyết định. Khi nghe tin quân giặc đến gần Thăng Long, ông tức giận, triệu tập các tướng lĩnh và quyết định ra trận ngay. Sau đó, ông lên ngôi vua, ra lệnh xuất quân, chỉ trong vòng một tháng đã thực hiện được nhiều công việc lớn.
Bên cạnh quyết đoán, Quang Trung cũng là người có trí tuệ sắc bén, nhạy bén trong mọi tình huống. Ông có cái nhìn tổng quan về trận chiến, về tình hình thời cuộc khi ông lên ngôi vua với mục tiêu làm sao để đảm bảo sự ổn định và giữ lòng tin của nhân dân. Ông phân tích tình hình của quân địch, nhận biết thế lực hai bên để đưa ra các quyết định phù hợp. Ông còn kể lại những tội ác của quân giặc để khuyến khích tinh thần của tướng sĩ và nhân dân. Ông cũng biết cách thuyết phục những người 'yếu lòng', dễ bị thay đổi. Ông sử dụng lời khen và lời phạt một cách công bằng, ta thấy điều đó qua ví dụ của Sở và Lân.
Có thể nói, ông là người có tầm nhìn xa trông rộng, như khi ông khẳng định rằng 'phương lược chiến đấu đã được xác định từ trước', và ông còn nhìn xa hơn khi nghĩ đến các biện pháp ngoại giao sau chiến tranh để đất nước hồi phục và ổn định. Ông tạo điều kiện cho sự phát triển của đất nước và sau này 'chúng ta sẽ không sợ gì cả'.
Vua Quang Trung là một vị tướng với khả năng thao lược vượt trội và sử dụng binh lính như một đấng thần. Chúng ta không thể không kinh ngạc trước sự chỉ huy và tốc độ của quân lính khi đi vào trận đánh. Trong thời gian ngắn mà quân đội của ông vẫn tuân theo mọi chỉ huy của ông.
Trải qua cuộc hành quân khắc nghiệt và xa xôi, nhưng dưới sự chỉ huy của Quang Trung, đội quân đã đánh bại quân địch một cách hoàn toàn nhờ vào những chiến lược tài tình của ông. Vị vua tài năng thể hiện sức mạnh đích thực khi ông trực tiếp tham gia vào trận đánh, tiến công, cưỡi voi, và dẫn đầu trước những đợt tấn công của quân địch.
Dưới bàn tay tài ba của Ngô gia văn phái, người đọc đã cảm nhận được hình ảnh của một vị vua kiên cường, dũng mãnh và tài năng. Vua Quang Trung đã ghi danh trong lòng dân tộc, mang lại hòa bình cho nhân dân và ông xứng đáng là một biểu tượng bất tử trong lòng người Việt Nam.
Hãy cùng khám phá chi tiết về hồi thứ mười bốn của sử thi Hoàng Lê nhất thống, bên cạnh việc phân tích nhân vật Quang Trung trong đoạn trích từ Hoàng Lê nhất thống chí. Bạn có thể tham khảo thêm các phần: Phân tích và đánh giá về hồi thứ mười bốn của sử thi Hoàng Lê nhất thống, Tóm tắt nội dung Hoàng Lê nhất thống chí, Nghệ thuật tạo dựng nhân vật vua chúa trong Hoàng Lê nhất thống chí, Phân tích hồi thứ mười bốn để chứng minh quan điểm: Hoàng Lê nhất thống chí... những trang văn sáng tạo và sâu sắc để củng cố kiến thức cho bản thân.
....
Đào sâu vào hình tượng của vua Quang Trung trong sử thi Hoàng Lê nhất thống chí
Tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” là một tác phẩm văn học được viết theo cách chia thành các chương và hồi, mang đậm giá trị lịch sử. Nó phản ánh một cách sống động và phong phú về xã hội Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Trong tác phẩm này, Ngô gia văn phái đã khắc họa một bức tượng của nhân vật lịch sử, người anh hùng áo vải - Quang Trung Nguyễn Huệ.
Hình tượng anh hùng Nguyễn Huệ được vẽ nên trong tác phẩm là một người con của dân tộc, sở hữu trí tuệ và chiến lược lớn lao, kèm theo khả năng chỉ huy quân đội xuất sắc. Ông là một người mạnh mẽ và quyết đoán, luôn hành động dứt khoát và mạnh mẽ. Ngay khi nghe tin quân Thanh xâm lược và chiếm lĩnh Thăng Long, Nguyễn Huệ đã lập tức động viên toàn bộ binh lính, dẫn đầu quân đội tiến vào chiến đấu. Thấu hiểu rằng tình hình quốc gia đòi hỏi sự quyết đoán, ông không ngần ngại đứng lên lãnh đạo quân đội chống lại kẻ thù.
Trước khi tiến hành chiến dịch tiêu diệt quân Thanh, Nguyễn Huệ đã tìm đến La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp để thảo luận về chiến lược. Điều này cho thấy dù là một vị lãnh đạo quyết đoán và tài năng, ông vẫn trân trọng ý kiến của những bậc hiền tài, thu thập ý kiến từ những người có kinh nghiệm, thể hiện sự thông minh của mình trong quân sự. Ông đã thông thạo tình hình quân số của đối thủ, với gần 30 vạn quân. Nhận thấy sự chênh lệch lực lượng giữa hai bên, ông đã triển khai kế hoạch tăng cường binh lực, tổ chức cuộc duyệt binh quy mô lớn nhằm tăng cường sức mạnh cho quân đội. Ông đã lên kế hoạch tấn công địch bằng cách tập hợp và phân chia quân lực thành bốn nhóm: tiền, hậu, tả, hữu. Những mưu lược này không chỉ nâng cao sức mạnh quân đội mà còn chuẩn bị tốt cho chiến thắng lớn sau này. Với những lập luận sắc bén và sự hiểu biết sâu sắc, ông đã tạo động lực và lòng tự hào cho toàn bộ quân đội, kích thích tinh thần chiến đấu và lòng yêu nước của dân tộc.
Là một nhà lãnh đạo, Nguyễn Huệ rất coi trọng tính kỉ luật, thi hành quy định nghiêm ngặt đối với quân đội, trừng phạt nghiêm khắc những kẻ phản bội đất nước. Quân đội dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ đã di chuyển nhanh chóng do ông đã sắp xếp chiến lược để quân lính luân phiên tiếp tục di chuyển, mỗi ba người một nhóm tiếp tục tiến về phía trước. Điều đặc biệt là quân đội Tây Sơn di chuyển rất nhanh chóng. Cách tiếp cận với vũ khí của kẻ thù của quân đội cũng rất đặc biệt, với việc sử dụng khiên được phủ bên ngoài bởi rơm ướt, làm cho hỏa tiễn của địch trở nên không hiệu quả.
Các tác giả Ngô gia văn phái đã tạo ra một hình tượng chân dung sắc nét và chân thực về anh hùng Nguyễn Huệ, một vị anh hùng thông minh và oai phong. Mặc dù họ làm việc dưới triều đại Lê, họ đã đứng ra ca ngợi vị vua Quang Trung như vậy, từ đó tác phẩm trở nên có giá trị hơn nhiều.
Phân tích về hình tượng vua Quang Trung trong sử thi Hoàng Lê nhất thống chí
Hình tượng người anh hùng đã thâm nhập sâu vào tâm trí của nhân dân, xuất hiện trong văn học với hình ảnh quen thuộc của anh hùng dân tộc. Trong văn học hiện đại, chúng ta thấy hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng, anh hùng của thế kỷ XX trong các tác phẩm văn học và thơ ca của những nhà văn, nhà thơ cách mạng. Trong văn học trung đại, chúng ta lại được chiêm ngưỡng hình ảnh của những anh hùng đã viết nên lịch sử vẻ vang của dân tộc, trong đó có hình ảnh của người anh hùng áo vải Quang Trung được tái hiện trong các tác phẩm văn học lịch sử của thời đại hào hùng của dân tộc. Hình ảnh của người anh hùng dân tộc Quang Trung hiện lên vô cùng cao đẹp trong hồi thứ mười bốn của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”. Đó là một con người có tinh thần cao quý, trí tuệ thông minh và tài năng chiến lược.
“Hoàng Lê nhất thống chí” là một tác phẩm văn xuôi bằng chữ Hán có quy mô lớn và đạt được thành công lớn cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Với nội dung về những sự kiện lịch sử diễn ra trong khoảng ba mươi năm cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX (cuối triều Lê đầu triều Nguyễn), tác phẩm đã tạo ra hình ảnh của nhân vật anh hùng Quang Trung với sự kiện đặc biệt trong hồi thứ 14: Quang Trung đại phá quân Thanh.
Hình ảnh vua Quang Trung xuất hiện với bức tranh một vị hoàng đế sáng suốt, hành động quyết đoán.
Khi 20 vạn quân Thanh xâm chiếm kinh thành Thăng Long, Nguyễn Huệ vẫn chỉ là Bắc Bình Vương đang ở Phú Xuân. Nghe tin, ông quyết định “trì chí giữa lòng dân trước”, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ lòng dân trước khi thực hiện bất kỳ hành động quan trọng nào. Chính sự nhận thức sâu sắc này đã giúp ông đưa ra quyết định đúng đắn và hiệu quả, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và ngay sau đó lên đường ra trận. Hành động sáng suốt của ông không chỉ thể hiện qua việc lên ngôi hoàng đế mà còn qua cách thức tiếp cận với lòng dân và đối đầu với quân Thanh.
Quang Trung không chỉ là người hành động quyết đoán mà còn là nhà mưu lược thông thái. Trước khi ra trận, ông đã khích lệ tướng sĩ bằng những lời sáng tạo và phân tích sắc bén về tình hình và đối thủ. Ông đã hiểu rõ bản chất của kẻ thù và khéo léo khích lệ tướng sĩ bằng việc tôn vinh truyền thống chiến đấu của dân tộc, gợi lên lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết. Lời lẽ sắc bén và phân tích chính xác của ông đã góp phần làm nên chiến thắng vang dội trong cuộc kháng chiến chống lại quân Thanh.
Không chỉ có khả năng mưu lược trong việc triển khai binh lính, Vua Quang Trung cũng thể hiện sự sáng suốt, cẩn trọng khi điều hành tướng lĩnh. Trong vai trò hoàng đế, việc đánh giá đúng vị trí của mỗi người là điều rất quan trọng. Qua phân tích của ông về Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, những người có thể bị coi là có tội “quan thua chém tướng” nhưng Quang Trung đã hiểu rõ khả năng của họ và nhấn mạnh rằng tướng lĩnh của ông đều có “tinh thần dũng cảm, chỉ biết đánh khi gặp giặc, không biết làm chuyện khác”. Do đó, ông đã chỉ định Ngô Thì Nhậm hỗ trợ cho họ. Thông qua sự sáng suốt và hiểu biết sâu sắc về tướng lĩnh của mình, Quang Trung không chỉ không trừng phạt họ mà còn động viên họ “biết lo xa, biết làm cho kẻ địch tự nghiệm”. Nhờ vào sự sáng suốt này, Quang Trung đã tạo ra một lực lượng tinh nhuệ và tổ chức đoàn kết, tương tự như Lê Lợi thuở xưa:
“Dân tộc ta từ khắp nơi đều quy tụ, cùng xây dựng nền nông nghiệp, dựng cờ hiệu tự hào.
Các tướng sĩ chúng ta đều hướng tới một mục tiêu, làm việc hòa thuận, chia sẻ niềm vui của quê hương”
Với tài năng và trí tuệ phi thường, Quang Trung có tầm nhìn xa trông rộng, điều này là rất quan trọng trong việc đạt được sự tự tin và chiến thắng cho nhân dân. Mặc dù quân Thanh đã chiếm hết đất Bắc Hà nhưng nhờ sự sáng suốt và tự tin, Quang Trung đã có thể đẩy lùi họ chỉ trong “mười ngày”. Nhưng mục tiêu lớn của Quang Trung không chỉ là đánh bại kẻ thù mà còn là “dùng lời lẽ khôn ngoan để làm dịu binh sĩ”, do đó Nguyễn Huệ đã thông minh chọn Ngô Thì Nhậm để làm giao dịch với nhà Thanh sau này. Tầm nhìn của ông còn rộng lớn hơn. Ngay cả khi đang ngồi trên lưng voi trước khi ra trận, Quang Trung đã lập kế hoạch cho mười năm sau, cho thấy ông là một nhà chính trị, một nhà lãnh đạo văn hóa, một anh hùng tài trí có tầm nhìn chiến lược sâu sắc. Điều này chứng tỏ Quang Trung là người sáng suốt, một phẩm chất cần thiết cho một vị tướng lĩnh mà không phải ai cũng có.
Không chỉ là một nhà quân sự nhanh nhẹn và quyết đoán, việc điều binh và chỉ huy dưới bút của tác giả “Ngô gia văn phái” đã vẽ lên hình ảnh của một tướng tài thao lược vượt trội. Điều này rõ ràng nhất trong cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy.
Đó là sự nhanh nhẹn của một nhà chiến lược quân sự xuất sắc. Dưới sự chỉ huy sáng suốt của Quang Trung, đội quân của ông đã trở nên mạnh mẽ hơn từng ngày. Sự sáng suốt trong việc đánh giá tình hình và bắt kịp cơ hội, tổ chức chiến dịch thần tốc với sự táo bạo chưa từng có trong lịch sử. Trong một khoảng thời gian ngắn, từ ngày 25 tháng Chạp rời Phú Xuân (Huế), đến ngày 29 đã đến Nghệ An, vượt qua khoảng cách hơn 350km qua núi, đèo. Sau đó, chỉ trong vòng một ngày, họ đã tập hợp, tổ chức và duyệt binh. Ngày tiếp theo, họ tiến quân đến Tam Điệp (khoảng 150km). Và đêm ngày 30 đã “lập tức lên đường” tiến quân ra Thăng Long. Tất cả điều này chỉ trong vòng 7 ngày, dù phải đi bộ. Thậm chí, sách còn ghi nhận rằng vua Quang Trung còn sử dụng biện pháp khiêng võng, mỗi lúc hai người khiêng thì một người được nghỉ, lần lượt suốt đêm ngày. Từ Tam Điệp đến Thăng Long (khoảng hơn 150km), vừa tiến quân vừa đánh giặc, vua Quang Trung đã lên kế hoạch chỉ trong 7 ngày, dự định mồng 7 Tết sẽ đến Thăng Long. Trên thực tế, họ đã thực hiện kế hoạch sớm hai ngày: vào trưa mồng 5 đã đến Thăng Long. Nhờ vào khả năng quân sự và tài năng chỉ huy của mình, Quang Trung đã thu hút hơn một vạn quân mới từ trung quân, đồng thời giữ được quân tinh nhuệ từ Thuận Quảng ra, tổ chức chúng ở bốn doanh tiền, hậu, tả và hữu.
Sự tài thao lược của Quang Trung được thể hiện rõ khi ông chọn cách tấn công bất ngờ, nhận biết được sự kiêu căng của đối phương và tổ chức cuộc tấn công một cách thông minh, phối hợp giữa các phần quân. Kết quả của sự tài thao lược này được thấy rõ tại các trận địa như Hà Hồi, Ngọc Hồi, khiến quân Thanh không kịp đối phó. Cuộc tấn công bất ngờ và nhanh chóng của quân Tây Sơn khiến Tôn Sĩ Nghị không kịp cảnh báo. Điều này khiến quân Thanh thấy như một “tướng từ trời rơi xuống, quân từ dưới đất chui lên”. Thất bại của quân Thanh là hậu quả không tránh khỏi. Như trong “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã viết:
“Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ trong đầm máu đen.
Quân địch xâm lược, hai đạo tan tành, không kịp rút lui,
Quân giặc bị vây bắt, như hổ đói vẫy đuôi xin sự sống còn”
Quang Trung cùng với quân đội của mình đã ghi dấu một trang sử vĩ đại cho dân tộc, một chiến thắng nhanh chóng với sự mưu lược thông minh và sự tài năng chỉ huy xuất sắc của ông.
Hình ảnh của vua Quang Trung trong hồi thứ 14 không chỉ là của một người trí tuệ sáng suốt, quyết đoán và mưu lược hơn người, mà còn là của một anh hùng kiên cường trong trận chiến. Quang Trung, dẫn đầu đội quân, đã chỉ huy cuộc tấn công nhanh chóng nhưng vẫn giữ phong thái ung dung và tỉnh táo. Quang Trung tự tin tuyên bố “10 ngày đánh đuổi” quân Thanh, cho thấy sự thông minh và khả năng thống trị trong mọi tình huống. Phong thái tự tin và ung dung của một nhà tài thao lược đã tôn lên vẻ đẹp hùng hồn của ông. Dưới sự mô tả hùng vĩ trong các tác phẩm lịch sử, ta có thể thấy hình ảnh của Quang Trung, mạnh mẽ và quyết đoán, dẫn dắt đội quân với từng bước chân tiến vào Thăng Long:
“Ba quân vững vàng tiến lên
Hàng trăm dòng người chật đường mừng đón tiếp”
Trong lịch sử phong kiến của Việt Nam, có nhiều vị vua đã tự tay dẫn đội quân ra trận đánh giặc, đồng thời đưa ra quyết định quân lược, chỉ huy chiến dịch một cách dứt khoát và dẫn đầu mũi tiến công ấn tượng, nhưng chỉ có một Quang Trung. Trong ánh sáng mờ nhạt của buổi sáng sớm, giữa làn khói mù phủ kín bầu trời từ những tiếng súng đạn, Quang Trung với dáng vẻ kiêu hùng và quyết đoán đã tạo nên một hình ảnh hùng hồn trong trận chiến, vượt ra khỏi tầm vóc của một anh hùng thường thấy, hình tượng này bỗng trở nên rực rỡ, trở thành biểu tượng cao quý của một vị vĩ nhân. Hình ảnh này đã được ghi lại trong sách vở, “mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu”, tấm áo bào đỏ của vua Quang Trung bị đen từ khói súng. Hình tượng của người anh hùng này đã trở thành một biểu tượng tinh thần về anh hùng với sự kiêu hãnh và quyết đoán trong văn học cổ Việt Nam, trở thành một tượng đài vĩnh cửu trong văn học dân tộc. Đây là hình tượng của một anh hùng thực sự, một người có đủ phẩm vị để các tác giả của Trường Ngô Gia không thể không ghi chép những chiến công vĩ đại của vua Quang Trung và hiện thực nhà Lê yếu đuối, nhưng cố gắng đối mặt với những trận đánh đầy cam go để trở thành những người ghi chép lịch sử chân thành và hiệu quả, viết nên những trang sử đầy hào hùng của dân tộc.
Vẻ đẹp của Quang Trung trong bài ca về chiến thắng còn tồn tại trong những câu thơ của Ngô Ngọc Du, một nhà thơ thời đại:
“Kẻ thù tàn bạo điên cuồng
Vua chỉ huy một cơn giận oai phong
Chạy như gió, dẫn quân tiến thẳng về phía trước
Chẳng có ai dám đứng lên đối mặt…”
“Hoàng Lê nhất thống chí” ở hồi thứ 14 là một sự đóng góp vô giá của Trường Ngô Gia văn phái về những tư liệu hào hùng trong lịch sử dân tộc bằng cách miêu tả vẻ đẹp của hình tượng anh hùng áo vải Quang Trung. Như một tia sáng trong những khoảnh khắc ban đầu mờ mờ nhưng vẫn tỏa sáng rực rỡ, hình ảnh của vị vua anh hùng ngày càng cao lớn, bao phủ và đi sâu vào tâm hồn chúng ta với vẻ đẹp của sự thông minh, tài năng, và vị thần hào hùng. Trong chúng ta ngày nay vẫn còn tồn tại một huyền thoại về anh hùng thông minh, tài trí, vị vua anh dũng, sáng suốt của dân tộc.
...