Dưới đây là Mytour giới thiệu bài văn mẫu Đánh giá về khổ thơ đầu bài Tương tư của Nguyễn Bính mà chúng tôi đã công bố. Tài liệu bao gồm dàn ý chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu xuất sắc của học sinh trên khắp cả nước. Với tài liệu này, các bạn sẽ có nhiều tư liệu để tham khảo, nâng cao kiến thức và chuẩn bị cho các bài kiểm tra, kỳ thi học kỳ 2 sắp tới. Hãy tham khảo thêm các dạng bài văn khác trong chuyên mục Văn 11.
Dàn ý đánh giá về khổ thơ đầu bài Tương tư
1. Mở đầu
Giới thiệu bài thơ: Tương tư là minh chứng rõ ràng cho phong cách thơ của Nguyễn Bính, bài thơ thể hiện tình yêu và nỗi nhớ sâu sắc của chàng trai khi anh ta băn khoăn vì không nhận được sự đáp lại từ người con gái mà anh ta yêu. Khổ thơ đầu tiên tái hiện một cách sống động tình yêu đầy mộc mạc và tinh tế của chàng trai.
2. Nội dung
– Mở đầu bài thơ, tác giả Nguyễn Bính đã đề cập đến một tình yêu chân thành và nỗi nhớ sâu sắc của nhân vật trữ tình dành cho cô gái mà anh ta yêu.
– Trong hai câu thơ đầu tiên, Nguyễn Bính đã sử dụng hình ảnh hoán dụ về “thôn Đoài” và “thôn Đông” để mô tả nỗi nhớ.
– Sự diễn đạt tình cảm tế nhị đã thể hiện sự mộc mạc và chân chất trong tình yêu của chàng trai quê.
– Mức độ của tình cảm được biểu đạt qua câu thành ngữ “chín nhớ mười mong” thể hiện sự nhớ nhung, khao khát mãnh liệt trong tâm trí của người đang yêu.
– Tình yêu đơn phương được diễn đạt với sự tế nhị, tinh tế, có thể kích thích cảm xúc trong lòng người đọc một cách dễ dàng.
– Không chỉ thể hiện nỗi nhớ của người đang yêu mà tác giả Nguyễn Bính còn tóm tắt căn bệnh tương tư như một trạng thái phổ biến, tự nhiên trong tình yêu.
– Nắng mưa là quy luật tự nhiên không thể thay đổi, giống như tương tư là trạng thái tâm trí tự nhiên, tất yếu trong lòng người.
–> Tương tư là một trạng thái đặc biệt của cảm xúc, là sự đập nhịp của trái tim, là sự ảo mộng, tưởng tượng về những khoảnh khắc lãng mạn.
– Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông lan tỏa khắp bài thơ như biểu tượng cho những tâm trạng về tình yêu.
– Lời thơ đơn giản, chân thành kết hợp với nhịp thơ nhẹ nhàng như lời thổ lộ tận tâm, cuồng nhiệt nhưng cũng đầy xót xa, rối bời trong tình yêu.
3. Kết thúc
Sau bốn câu thơ đầu, Nguyễn Bính đã mô phỏng một cách sống động nỗi nhớ, tương tư của chàng trai dành cho người yêu.
Đánh giá về khổ thơ đầu bài Tương tư - Mẫu 1
Nguyễn Bính từ lâu đã nổi tiếng với thơ đồng quê giản dị, những câu thơ được tạo ra từ những nguyên liệu mộc mạc nhất. Mặc dù đã trải qua nhiều giai đoạn, nhưng thơ của Nguyễn Bính vẫn được độc giả hưởng ứng nồng nhiệt. “Tương tư” là một trong những bài thơ viết về tình yêu đôi lứa, thấm đượm tình cảm trong sáng và chân thật.
Những bài thơ của Nguyễn Bính không giống với thơ hiện đại, chúng giống như những câu ca dao, dễ dàng đi vào lòng người. Tương tư trở thành hiện tượng, diễn đạt một cách trực tiếp tình cảm của đôi lứa. Câu thơ lục bát như lời hát của những cặp đôi yêu nhau. Đó là hình ảnh của những người thầm yêu nhau, đứng bên bờ đình, nói lời ngọt ngào với nhau:
“Hôm qua tát nước bên đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà”
Những câu thơ ấy nhẹ nhàng và sâu lắng, như lời ru dịu dàng của tình yêu đưa đẩy những cảm xúc từ lúc ban đầu thấm vào lòng độc giả. Khiến cho độc giả cảm thấy như thể họ chính là nhân vật trong bài thơ. Và những câu thơ khác cũng đầy ý nghĩa và sâu xa:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Tát nước dưới ánh trăng làm tan ánh trăng tròn trịa cũng đúng, nhưng chính điều đó mới là lý do khiến họ quen biết nhau. Những điều nhỏ nhặt khó hiểu nhưng lại làm cho những cặp đôi tìm đến nhau thật lạ thường. Đó chính là bệnh khó chữa nhất, bệnh tương tư, chỉ có thuốc tình yêu mới có thể chữa lành. Và từ đó có bài Tương tư của Nguyễn Bính
Trong bài thơ, những đặc điểm dân gian khiến tứ thơ của Nguyễn Bính, tìm được sự đồng cảm và tiếp đón nồng nhiệt của đông đảo độc giả. Tương tư với thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt giàu tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác. Cũng trong bài thơ, những hình ảnh như : thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi, chân quê từ nhà ra ngõ,bến nước hữu tình,con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải vàng, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay, ven đê là ruộng dâu, bãi cháy, bãi đất, vườn chè, bên ao bèo, bên giếng khơi, giậu mồng tơi xanh rờn…
Chữ “tôi” trong bài thơ của Nguyễn Bính rất đáng yêu. Thôn Đoài và thôn Đông là nơi nhà “Nàng” và nhà “Tôi” đang ở, cũng là cách nói cụ thể hóa, hai thôn chính là hai cầu nối cho nàng và tôi gần nhau hơn. Sử dụng hoán dụ – nhân hoá kết hợp với thành ngữ và nghệ thuật phân hợp số từ – vị ngữ “chín, mười, nhớ mong = chín nhớ mười mong” góp phần làm cho tứ thơ trở nên bình dị mà hồn nhiên, đằm thắm. “chín nhớ mười mong một người” giống như tâm trạng “ bổi hổi bồi hồi” hay tâm trạng của cô gái trong bài ca dao “ khăn thương nhớ ai,không chỉ đầy ắp, da diết trong lòng chàng trai đa tình mà còn tràn ngập cả xóm thôn, cả thôn Đông lẫn thôn Đoài. Vì yêu cho nên tương tư đã thành “bệnh”, thật đáng thương,… cũng như bệnh nắng mưa của trời vậy. Cách so sánh “bệnh giời” với bệnh tương tư “của tôi yêu nàng”, tác giả Nguyễn Bính đã diễn tả hồn nhiên, thú vị về nỗi buồn tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Gần thì thương, xa thì nhớ,đấy là những cảm xúc thường thấy của tình yêu
Những câu nói tiếp theo, việc vận dụng lối nói ước lệ ẩn dụ trong ca dao (bến, đò) trong thơ văn truyền thống (hoa khuê các, bướm giang hồ) thể hiện một nỗi ước mong, khao khát về tình yêu hạnh phúc của lứa đôi rất thiết tha. Để từ đây, tác giả bộc lộ những khát khao trọn vẹn và được đáp trả trong tình yêu đó. Cái tôi trữ tình của chàng trai đa tình, nỗi buồn tương tư, nỗi khát khao ước mong về hạnh phúc “của tôi yêu nàng”, trở thành “cái chung” của nhiều chàng trai, cô gái khác. Tương tư không chỉ là cảm xúc của nhân vật trữ tình “ tôi” trong tương tư mà bài thơ còn nói hộ bao nhiêu người khác. Chính vì thế, cho tới nay, mỗi khi muốn bày tỏ tình ý với người khác,người ta hay nói bóng gió bâng quơ một câu như ý nhắn nhủ với người họ yêu rằng họ cũng đang tương tư vì một ai đó
“Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Những đoạn thơ trong bài Tương Tư không chỉ thơ mộng mà còn đầy lãng mạn, không có gì có thể làm thay đổi cảm xúc lâng lâng nhớ nhung ấy, dù có trải qua bao nhiêu thời gian. Tương tư mang trong mình những nỗi buồn, hờn giận và trách móc nhưng những cảm xúc đó lại trở thành một phần quan trọng của tình yêu, tạo nên sự đáng yêu và khao khát trọn vẹn trong lòng lứa đôi, đặc biệt là trong những mối tình đơn phương.
Cảm nhận về khổ thơ đầu trong bài Tương tư - Mẫu 2
Nguyễn Bính, thi sĩ của vùng quê, như nhà văn Tô Hoài từng nhận xét: “Chỉ có quê hương mới làm nên từng chữ, từng câu thơ của Nguyễn Bính. Trên con đường hơn nửa thế kỷ sáng tác, mỗi khi những đường nét gắn bó kia đẫm mồ hôi và nước mắt, day dứt không yên, lúc ấy xuất hiện những bài thơ tình yêu tuyệt vời của Nguyễn Bính”. Để nói đến phong cách thơ bình dị, mộc mạc, đậm chất quê hương của Nguyễn Bính, chúng ta không thể không nhắc đến Tương tư.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn thời đại, Nguyễn Bính đam mê với đề tài tình yêu. Tuy nhiên, cách biểu hiện của ông lại theo một lối riêng. Trong khi những nhà thơ lãng mạn khác hướng về phương Tây và chịu ảnh hưởng từ nghệ thuật phương Tây, Nguyễn Bính lại hướng về nghệ thuật dân tộc, chịu ảnh hưởng từ thơ ca dân gian. Với Tương tư, Nguyễn Bính khởi đầu chủ đề tình yêu bằng một nỗi nhớ:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người”
Trong cuộc sống hàng ngày, tương tư đồng nghĩa với nỗi nhớ nhung một cách đơn phương, bí mật của con người đối với đối tượng mà họ cảm thấy quý mến hoặc yêu thích. Đó chính là lý do tại sao tình yêu thường bắt đầu từ nỗi nhớ, và trong bài thơ Tương Tư cũng thế. Đó không chỉ là sự nhớ, mà còn là “chín nhớ mười mong”, là sự nhớ thương đầy khắc khoải. Dù nhà thơ đã gói gọn nỗi nhớ trong bốn từ “chín nhớ mười mong”, nhưng thực tế nỗi nhớ càng trở nên rộng lớn hơn, phong phú hơn.
Nỗi nhớ đó chính là tương tư, chính là biểu hiện của tình yêu! Hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khẳng định điều đó! Bởi vì yêu nên mới “chín nhớ mười mong”, bởi vì yêu nên mới tương tư, chờ đợi:
“Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Ở đây, nỗi nhớ đã được chỉ rõ. Đó là nỗi nhớ của tình yêu, nỗi nhớ của một chàng trai dành cho một cô gái. Chàng trai đang yêu này có gốc rễ sâu sắc với vùng quê nơi sinh sống. Vì thế, cảm xúc yêu thương và nỗi nhớ cũng mang hơi hướng của quê hương, tính chất bình dị và chân thực. Thơ của Nguyễn Bính, lãng mạn và gần gũi nhưng vẫn đậm đà tinh thần dân dã, nhớ nhà. Ông ưa thích cách biểu đạt cụ thể hóa những ý trừu tượng của ca dao, chẳng hạn như chuyển thành con số (yêu nhau tam tứ núi cũng trèo), trong khi vẫn giữ cấu trúc tinh tế của thơ:
Một người chín nhớ mười mong Một người
“Một người” xuất hiện ở hai đầu câu thơ, tạo ra một khoảng cách, diễn đạt sự xa cách, nhớ mong một cách độc đáo và tinh tế! Tâm trạng của người yêu đơn phương được mở ra, liên kết với trời đất. Dù trời cao kia có nắng có mưa, nhưng “tôi” đây vẫn giữ trong lòng một nỗi yêu thương và nhớ mong về “nàng”.
Có lẽ đây chính là hai câu thơ được nhiều người nhớ nhất, nhiều người nhắc đến nhất trong Tương Tư của Nguyễn Bính. Bởi chúng không chỉ thể hiện tâm trạng của chàng trai thôn quê trong bài thơ này mà còn là nỗi niềm chung của nhiều chàng trai khác đang yêu, đại diện cho tâm tư của họ.
Chỉ trong bốn câu thơ, người đọc đã cảm nhận được cái tình yêu mộc mạc, trong trẻo của Nguyễn Bính. Tình yêu đó, tình thương đó, rất nhiều, nhưng lại nhẹ nhàng, ấm áp, đậm chất quê hương.
Cảm nhận về khổ thơ đầu tiên của Tương Tư - Mẫu 3
Thơ của Nguyễn Bính mang màu sắc dân gian, gợi nhớ về tinh thần xưa của dân tộc, hiện hữu trong những câu thơ giản dị, mộc mạc nhưng đầy ý nghĩa tình cảm.
Tương tư là một biểu tượng của thơ dân dã của Nguyễn Bính. Bài thơ thể hiện sự nhớ mong, đong đầy của chàng trai làng quê với những màu sắc dân gian phong phú, ấm áp, đẹp đẽ, tạo ra không khí của làng quê trong thi ca. Màu sắc dân gian không chỉ tạo ra không gian làng quê cho bài thơ mà còn là đặc điểm của phong cách thơ của Nguyễn Bính.
Một tác phẩm chứa đựng nhiều yếu tố dân gian thường được thấy trong ca dao, dân ca. Ca dao dân ca là kho tàng vô tận của người lao động bình dân, nó chứa đựng tất cả cảm xúc và suy nghĩ của họ.
Bài thơ Tương tư là một sản phẩm của thời kỳ Thơ mới. Thơ mới mở ra một thế giới mới, phản ánh cái tôi cá nhân của tác giả một cách chân thực, phong phú, không kìm kẹp. Nguyễn Bính không chỉ tập trung vào sâu sắc, huyền bí của tình yêu như nhiều nhà thơ khác, mà còn đánh thức cái hồn bình dị của dân tộc, phản ánh trong ca dao hàng nghìn năm.
Bài thơ mở đầu với lời của chàng trai:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Một cảm xúc nhung nhớ, tương tư ấy mang đến nhiều cung bậc đẹp đẽ. Sự chân thành trong lời kể vừa tự nhiên lại cẩn thận. Rõ ràng, tình yêu của tôi dành cho nàng là một điều rất trong sáng, thánh thiện, giống như trong ca dao dân ca:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em nhận thì cho anh xin”
(Ca dao)
Đó không phải là quên chiếc áo mà chính là lý do để gặp gỡ, trò chuyện, thổ lộ tâm tình. Hoặc một cách tỏ tình khác đẹp đẽ, tinh tế hơn:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”
(Ca dao)
Hình ảnh chàng trai che giấu trong biểu tượng “thôn Đoài”. Tình cảm không được bày tỏ mạnh mẽ: “ngồi nhớ”, không phô trương hay trần trụi. Người xưa như vậy, nhẹ nhàng, kín đáo nhưng lại sâu sắc, nồng nàn: “chín nhớ mười mong”.
Đọc thơ Nguyễn Bính cảm thấy nhẹ nhàng và thanh lọc tinh thần. Khung cảnh làng quê giản dị và mộc mạc được thể hiện trong Tương tư cùng với tình yêu đôi lứa chân thành, đậm chất quê hương.
Cảm nhận về khổ thơ đầu bài Tương tư - Mẫu 4
Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào Thơ mới, những vần thơ của ông thường mang đậm dấu ấn của làng quê với những hình ảnh giản dị, lời thơ chân thành, da diết. Tương tư là bài thơ điển hình cho phong cách thơ của ông, là lời của chàng trai đang yêu với nỗi nhớ da diết, băn khoăn vì không nhận được sự đáp lại của cô gái mình yêu. Khổ thơ đầu tiên tái hiện một cách sống động tình yêu mộc mạc mà không kém phần tinh tế, ý nhị của chàng trai.
Mở đầu bài thơ, tác giả Nguyễn Bính đã nhắc đến một tình yêu chân thành với nỗi nhớ sâu sắc của nhân vật trữ tình dành cho cô gái mình yêu:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
Nỗi nhớ là tâm trạng thường trực của những người đang yêu. Trong hai câu thơ đầu tiên, Nguyễn Bính đã hình tượng hóa nỗi nhớ thông qua hình ảnh hoán dụ về “thôn Đoài” và “thôn Đông”. Sự biểu đạt tình cảm mang tính tế nhị đã thể hiện được cái mộc mạc, chân chất trong tình yêu của chàng trai quê. Tình yêu của hai người được đặt trong không gian của làng quê càng gợi ra cái gần gũi, thân thương trong cảm xúc của độc giả.
Mức độ của tình cảm được thể hiện thông qua câu thành ngữ “chín nhớ mười mong” đã thể hiện được nỗi nhớ sâu sắc, thường trực trong tâm hồn của người đang yêu. Đó không chỉ là nỗi nhớ mà còn là sự trông chờ, mong ngóng đến đứng ngồi không yên. Tình yêu đơn phương được thể hiện đầy ý nhị, kín đáo, có thể dễ dàng khơi dậy cảm xúc trong trái tim của người đọc.
Không chỉ thể hiện nỗi nhớ của kẻ si tình mà tác giả Nguyễn Bính còn khái quát căn “bệnh” tương tư như một trạng thái tự nhiên trong tình yêu:
“Ánh nắng và cơn mưa là bệnh của bầu trời
Nhưng tương tư mới là bệnh của trái tim yêu nàng”
Ở hai câu thơ này, Nguyễn Bính so sánh một cách độc đáo, tương tư như là một trạng thái tự nhiên trong trái tim kẻ si tình, giống như quy luật nắng mưa của tự nhiên. Cách ví von này vừa độc đáo vừa mang tính hóm hỉnh về tình yêu. Nắng mưa là điều không thể thay đổi trong tự nhiên, giống như tương tư là trạng thái tâm lí tự nhiên, tất yếu trong con người. Tương tư là sự xao động của trái tim, là sự mơ mộng, tưởng tượng về những khoảnh khắc lứa đôi.
Trong quan điểm của nhà thơ, tương tư không chỉ là một trạng thái tình cảm tự nhiên mà còn là một loại “bệnh”. Cách thể hiện tình yêu của nhà thơ vừa độc đáo vừa đáng yêu. Hình ảnh thôn Đoài và thôn Đông lan tỏa khắp bài thơ như biểu tượng cho những cảm xúc tình yêu. Biện pháp hoán dụ thể hiện đầy ý nhị, tinh tế của nhân vật trữ tình. Lời thơ giản dị, chân thành kết hợp với nhịp thơ chậm rãi như lời tâm sự da diết, say sưa nhưng cũng đầy khắc khoải, bối rối trong tình yêu.
Qua bốn câu thơ đầu tiên, Nguyễn Bính đã tái hiện đầy sinh động nỗi nhớ, tương tư của chàng trai dành cho cô gái mình yêu. Cách thể hiện không phô trương, không quá hoa mỹ mà đầy mộc mạc, chân quê, đây cũng là nét đặc trưng của phong cách sáng tác của ông.