Năm 1939, Vũ Trọng Phụng đã tròn 24 tuổi. “Ông vua phóng sự đất Bắc” đã cho ra đời năm tác phẩm vĩ đại: “Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ”, “Vỡ đê”, và “Cơm thầy cơm cô”. Tác phẩm của ông được đánh giá là “tốt nhất trong văn xuôi Việt Nam kể từ khi có chữ quốc ngữ”. Trong số đó, “Số đỏ” với nghệ thuật mỉa mai tài tình, được coi là một kiệt tác bất hủ trong văn chương thời kỳ đó. Vũ Trọng Phụng đã tấn công cực kỳ sắc sảo vào xã hội trí thức tư sản đang theo đuổi lối sống “Âu hóa” văn minh rỗng tuếch, đầy độc hại và lố lăng. Chỉ với 200 trang, “Số đỏ” đã phơi bày những thứ xấu xa, bẩn thỉu như mẹ Tây, ma cà rồng, cảnh sát, tu viện, đoàn người đi học, bao gồm cả các nghệ sĩ, bác sĩ, giới báo chí... Vũ Trọng Phụng đã từng tuyên bố: “Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy là khốn nạn, tham lam, phản bội, phụ nữ hư hỏng, đàn ông dâm dật, xã hội lố lăng...”. Chương XV với tiêu đề là “Hạnh phúc của một tang gia” đã mang lại cho người đọc cảm giác như được thú vị như một màn hài kịch trong bộ “Trò đời dở” của xã hội thực dân thời phong kiến.
Tiêu đề chương XV là một điều ngược đời đầy thú vị, đắng cay. Một gia đình tang thương, ở đây là một tang gia đau thương. Nhưng vẫn hạnh phúc. Gia đình ba đời này, khi ông Tổ qua đời ở tuổi hơn 80, làm cho lũ con cháu “sung sướng lắm!”.
Vũ Trọng Phụng đã thành công trong việc tạo ra một tình huống điển hình để phơi bày những mặt xấu trong cái gia đình trưởng giả này, làm sáng tỏ những cặn bã, những tệ hại của xã hội vẫn đầy bất công vào thời điểm đó.
Cha mất, ông mất, “con cháu vô tâm cũng hưởng lạc được'. Đây là cơ hội hiếm có để khoe khoang, phô trương giàu có, tỏ ra xa hoa trước mọi người. “Người ta hân hoan vui vẻ đưa giấy cáo phó, thuê xe tang, tổ chức đám tang...'. Niềm vui lan tỏa: “cả tang gia ai cũng hạnh phúc”.
Người con trai lớn - cụ Hồng - liền hút một lượng lớn thuốc phiện, rồi vui vẻ mỉm cười. Dù cha mất, cụ rất vui, nhưng tay đàn em vẫn lắm lời trách móc: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Trong trạng thái mê mê, cụ “nhắm mắt lại để mơ mộng' về khoảnh khắc hạnh phúc “nhất: mặc quần áo hàm xô, cầm gậy, đồng thời ho và khóc” để khiến mọi người phải kinh ngạc: “một đám tang như thế, một cái gậy như thế” ... sau đó bất ngờ chỉ vào: “úi, cậu con trai nhỏ đã già như vậy kìa...”. Con trai đã “hiếu kỳ” với cha như vậy! Đó là một tình huống châm biếm đầy tinh quái. Tinh thần buông lỏng, đạo lí suy đồi đến tận cùng, từ cha đến con.
Hai đứa cháu của cụ Tổ xuất hiện trong đám tang với nhiều điểm châm biếm lố lăng. Văn Minh đi du học 6-7 năm mà không có bất kỳ bằng cấp nào về quê hương mà hắn mở cửa hàng may để ủng hộ cho việc “Âu hóa” để “phô diễn phần kín của phụ nữ”. Cha ông mất, đứa cháu đắc thủ này đắn đo suy nghĩ về việc chia tài sản, hào hứng với việc “bức thư kia đã đến giai đoạn thực hành chứ không phải là lý thuyết xa xôi nữa”. Cậu Tú Tân thì trổ tài mở ảo ảnh trong bụng, có dịp khoe khắp nơi với việc sửa chữa “mấy chiếc máy ảnh mà mãi không được sử dụng'. Khi đưa tang, cậu chạy lên và xuống, tổ chức, đạo diễn mỗi lúc hạ đàn từng người như “dùng gậy', “ngả đầu”, “cong lưng”, “lau mắt”, như vậy, như vậy để cậu chụp hình. Y “vô duyên trong chiếc áo trắng' như một thằng hề!
Vũ Trọng Phụng đã mô tả đám tang cụ Tổ bằng nhiều nét hoạt bát, châm biếm sâu sắc về sự thối nát của cuộc sống của giới thượng lưu. Một đám tang “đẹp đẽ”, nhưng thực ra chỉ là một sự kiện. Có xe tang quay, có hát hò và múa lúa. Có rất nhiều hoa, câu đối, vài trăm người tham gia. Thực sự là một đám tang “theo lối Ta, Tàu, Tây”. Do đó, bầy con cháu thì vui vẻ, trong khi “người chết trong quan tài cũng phải cười nếu không gật đầu...”. Sử dụng điều phi lý để phơi bày sự thối nát, độc hại là một nét vẽ rất sắc sảo, độc đáo trong nghệ thuật châm biếm của Vũ Trọng Phụng.
“Có nhiều khách” sang trọng và “lịch lãm” đến tham dự tang cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm nửa, là “những người đẹp”, là bạn của Tuyết và Phó Đoan.. Họ không đến đưa tang mà là để “nói chuyện vui vẻ, đánh giá lẫn nhau, chỉ trích nhau, hẹn hò với nhau. Bọn đàn ông, bạn của cụ cố Hồng đến tham dự tang để khoe “ngực đầy những huy chương” của “nước mẹ' hay của những người quen. Khi mô tả về bộ râu của những quan khách này, tác giả “Số đỏ” đã sáng tạo ra những chi tiết, ngôn từ và giọng điệu châm biếm đắng cay. Một cách nói chế nhạo, châm biếm thật tinh quái. Trên mặt và cằm các ông lớn khoe “tài” khoe “đức” ấy “đếm từng sợi râu, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc nâu, hoặc lùn hay dày, lẻo méo...”. Độc giả không thể nhịn được cười khi đọc phần mô tả về bộ râu đó. Đằng sau bộ râu đó là những mặt người tha hóa vô luân.
Vũ Trọng Phụng đã sử dụng phương pháp “phục bút” khi mô tả sự xuất hiện của Xuân Tóc Đỏ. Tuyết mặc trang phục “Ngây thơ” đi mời khách và cung cấp thuốc lá cho quan khách với “vẻ buồn lãng mạn rất phổ biến một gia đình có tang”. Cô rất hạnh phúc khi thấy “anh Xuân” đã đến và “nháy mắt để bày tỏ lòng biết ơn”. Xuân Tóc Đỏ đã đến đám tang một cách cực kỳ tráng lệ, với sáu chiếc xe, đến từ chùa Bà Banh, và từ sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn... đã khiến cụ bà rất hạnh phúc khi nói: “Ối, nếu không có những thứ đó thì là thiếu sót, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!”. Xuân không chỉ không giận mà còn đến phúng viếng rất nhiều, khiến cho đám tang cụ Tổ trở nên “đáng kính nhất tất cả”.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán “mọc sừng” nhờ vào “sừng hươu” đó mà được bố vợ thêm vài nghìn đồng bạc, trong khi khóc thét: “Hứt! Hứt! Hứt...” để thể hiện lòng biết ơn vẫn còn giữ chữ “tín” với ân nhân. Ông đã “đưa một tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư vào tay” Xuân. Cuộc trao đổi hay trả ơn diễn ra rất công bằng và kín đáo! Xuân và ông Phán “mọc sừng” giống như là một cặp đôi hoàn hảo, hai diễn viên đỉnh cao. Đây là tình huống cao trào nhất trong màn hài kịch “đám tang gương mẫu”. Chính ở đây, sự giả dối và thô bỉ của giới “thượng lưu” đã đạt đến mức độ vô duyên. Những con người “chó” trong xã hội “chó” là thế đấy!
Tóm lại, qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”, Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc kỹ năng viết kịch và nghệ thuật diễn tả. Tài năng của tác giả “Số đỏ” là đã phóng đại những bức tranh châm biếm, những tình huống lố lăng thông qua phong cách của nghệ thuật trào phúng, làm cho người đọc vừa cười vừa nhận ra những sự thật ẩn sau đó; Câu chuyện đầy kịch tính với những tình huống phi lý đến ghê người đã lật mặt nạ của bọn đạo đức giả!
Tiếng cười trong “Số đỏ” là tiếng cười châm biếm có giá trị tố cáo và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Đám tang cụ Tổ thật sự là một màn hài kịch, với các diễn viên là bầy con cháu và quan khách, đã tiết lộ toàn bộ bản chất lố lăng và độc hại của xã hội đang bị nhiễm “Âu hóa” một cách hoàn toàn.