- ... Ở nơi này, việc duy trì lòng thiện đạo vững vàng thật khó khăn, và cuối cùng, mọi việc dẫn đến sự mong manh của cuộc đời tốt lành.
- ... Cảnh ngục tù thật đáng xót, nhìn thấy kẻ tù lại nhẹ nhàng cúi đầu...: “Người say mê này xin kính lạy vị quan trên”.
Cấu trúc của câu chuyện rất đơn giản nhưng không hề lỏng lẻo, ngược lại, mỗi chi tiết, mỗi tình huống đều được xây dựng chặt chẽ, và những tình huống này gắn kết với nhau theo quy luật nhân quả. Câu chuyện tập trung vào ba tình huống chính xoay quanh quan điểm của người làm ngục và tù nhân Huấn Cao.
Nhận được thông báo về việc giao sáu tên tù tội phạm nguy hiểm, quản ngục đã có nghi ngờ, trong số đó có một người nổi tiếng về việc viết chữ đẹp, vì thế anh ấy chuẩn bị sẵn sàng để đón tiếp những tù nhân này.
Những kẻ bị kết án đến, và quản ngục tiếp đón họ. Quan điểm của quản ngục về việc đối đãi với Huấn Cao là khá đặc biệt, ông ta tự mình đến thăm và khi nghe tin rằng sáu tên tù sẽ được giải thoát, quan ngục nhờ một nhà thơ nổi tiếng đến, và nhận được từ Huấn Cao những lời khuyên cũng như một món quà là bài thơ viết tay.
Những chi tiết đó liên kết với nhau tạo thành dòng văn mạch màu mỡ nhờ cách diễn đạt từng câu, từng đoạn văn, đặc biệt là việc sử dụng từ ngắn gọn, chính xác, truyền đạt ý một cách tự nhiên.
Các từ liên quan đến các chức vụ được sử dụng trong câu chuyện cho thấy nhà văn đã nghiên cứu kỹ về chủ đề này trước khi bắt đầu viết. Đa số các chức danh đó được sử dụng trong thời kỳ phong kiến nhà Nguyễn. “Phiến trát” là tài liệu chính thức, “đốc bộ đường” chỉ quan tổng đốc cửu phẩm (chín phẩm), và cao nhất là nhất phầm: “Thẳng, thập” chỉ đứng đầu một đội quân gồm 10 người, “ti Nết” là chuyên viên pháp luật.
Theo quan điểm của nhà văn, việc miêu tả con người hoặc cảnh vật đều phải có những đoạn văn tốt, đẹp, phù hợp với tình huống nhân văn:
'... Quan ngục ngồi băn khoăn, bóp thắt ánh mặt trời...” - Người ngồi đây, đầu đã bạc hoa râm, râu đã chuyển sang màu xám. Những vết nếp nhăn trên khuôn mặt trước kia trở nên mờ nhạt. Ở đây, bây giờ đã trở thành mặt nước bình yên của mùa xuân, yên bình, im lìm và êm đềm: quan ngục hiền lành, trân trọng đạo lý, và tôn trọng tài năng. Đó là hình ảnh của một người đang đối mặt với tình huống khó khăn.
- “..” Sau đó, cái gông bị giật mạnh, va vào cổ năm tù nhân sau, làm cho họ nhăn mặt. Một trận mưa rơi đã làm ướt những điểm nâu đen trên mặt đất xanh...” : Hình ảnh của cuộc hành quyết, nơi mà những kẻ tù phải trải qua sự đau đớn và sỉ nhục trước khi đối diện với cái chết vì tội phản nghịch.
Bên cạnh những nhân vật phụ như lính canh tù và nhà thơ, truyện còn có hai nhân vật chính ban đầu họ cùng chung một đường lối. Viên quan ngục biết rõ Huấn Cao là quan trông coi việc học tập ở phủ, huyện. Có lẽ vì chống đối chính quyền nên bị kết tội phản nghịch chăng?
Dù đã trở thành hai nhân vật khác lạ, đối đầu nhau, nhưng nhân vật thuộc hai lối tư tưởng đó đều mang tâm hồn nhân ái. Họ tôn trọng lẫn nhau, mọi xung đột chỉ là hiểu lầm và sau khi giải quyết, họ luôn đồng cảm, sẵn lòng giúp đỡ nhau, đặc biệt là Huấn Cao. Điều này khiến cho chi tiết tâm lý của họ gắn liền với nhau, làm cho câu chuyện trở nên sâu sắc hơn trong cách diễn đạt nghệ thuật.
Dựa vào lời giới thiệu của quản ngục, Huấn Cao không chỉ giỏi viết chữ, mà còn có tài bẻ khóa và trốn thoát khỏi nhà lao? Thực sự là tài năng vượt trội. Đồng thời, ông đã từng bị bắt vào tù hơn một lần...
Khi đến nhà tù, “Huấn Cao, lạnh lùng, đầu có vẻ nặng nề, cúi mình hướng đầu thang gông xuống mặt đất đá, đánh mạnh một cái.” Người này có sức mạnh, trí tuệ và quyết đoán hơn người khác. Nhưng đó chỉ là về bề ngoại.
Về mặt tâm lý, qua bút pháp của Nguyễn Tuân, nhân vật này cũng đặc biệt trong nhiều điểm. Trước hết là tội ác được ghi trong “phiến trát”: phản nghịch, bị kết án tử hình. Là người chống lại chế độ phong kiến. Một người “phản nghịch” nhưng lại nổi tiếng và được mọi người kính trọng thì chắc chắn phải có những điểm đặc biệt. Nhà văn thông minh khi khơi dậy sự tò mò, khám phá về nhân vật trong độc giả.
Vậy Huấn Cao có những đặc điểm nào?
Đầu tiên, Huấn Cao không thể không tự hỏi tại sao lại nhận rượu uống trước bữa ăn của tù nhân mặc dù mình là một nhà thơ giàu gầy. Tuy nhiên, ông ta vẫn nhận và ăn thịt, coi đó như là một việc tự nhiên trong tình trạng sẵn lòng của mình trước khi bị giam giữ. Điều này cho thấy sự bình tĩnh của con người, sự hiểu biết về hậu quả của công việc mình làm. Là một người trông coi việc giáo dục cấp huyện, phủ, Huấn Cao chắc chắn hiểu rõ tính cách uy vũ bất năng khuất của người trí thức. Ngay khi bước vào tù, Huấn Cao đã thể hiện tính cách ấy khi một cách tự ý ra lệnh cho bạn đồng tội của mình “dỗ gông” trừ rệp! Ông ta vẫn bình tĩnh, tự do thể hiện sự tự lập ngay cả khi nghe thấy tin là sẽ bị kết án tử hình. Gã tù này rất thông minh và tỏ ra khinh bạc. Khi quản ngục đến thăm, Huấn Cao vẫn giữ nguyên tư thế lạnh lùng. Khi biết ý định của viên quan coi ngục, ông ta cũng chỉ đơn giản trả lời một cách khinh bạc:
“Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây”.
Thông qua mô tả của nhà văn “Huấn Cao đã đợi một trận bão tố của sự trả thù và bị sỉ nhục bởi sự tàn bạo của quản ngục” Biết nhưng vẫn nói. Nói để làm gì? Để kiểm tra lòng tốt của viên quan kia, để nếu ông ta thật sự kính trọng thì cũng sẽ không bị tác động. Điều đó cho thấy tính cách của người có tinh thần nhân văn.
Và cuối cùng, Huấn Cao biết trân trọng những người hiền lành, biết trọng những người yêu nghệ thuật đẹp. Dù Nguyễn Tuân không tiết lộ nhiều về nhân vật, nhưng có lẽ Huấn Cao cũng tự hỏi trong lòng khi được quản ngục đối xử với lòng nhân từ.
Và khi đã đối diện với tên quản ngục, mặc dù bị hắn khinh bạc và đánh giá cao, Huấn Cao vẫn không gặp khó khăn từ những hành động độc ác của hắn. Thậm chí, Huấn Cao còn được ưu đãi hơn. Và “Ông Huấn lại càng ngạc nhiên hơn nữa: cả năm đồng chí của ông đều được đối xử như vậy” chắc chắn Huấn Cao không thể không tự hỏi. Cho đến khi ông nghe “tiếng đập cửa buồng giam và tiếng nói rối rít kể cho các tù nhân nghe” và hiểu được tâm trạng của viên quản ngục, và nghe viên quản ngục ngập ngừng báo tin cho ông biết sẽ bị kết án tử hình” thì Huấn Cao mới nhận ra lý do tại sao ông và các đồng chí của mình được đối xử đặc biệt trong tù. Nguyễn Tuân đã để cho Huấn Cao “im lặng một lúc”. Ông suy nghĩ về quản ngục trước khi đáp lại lòng tốt của họ. Giọng điệu của câu nói cũng chứa đựng sự khí khái nhưng lại mang tính thân thiện: '... Tôi không bao giờ viết câu đối vì vật chất hay quyền lợi… Tôi trân trọng lòng biệt nhất của các bạn. Không biết liệu một người như thầy quản có sở thích cao quý như thế không...”.
Nhưng việc trân trọng những người hiền lành không chỉ làm theo một ước muốn, dù đối với quản ngục thì đó là một việc quan trọng, nhưng đối với Huấn Cao, đó chỉ là một phần nhỏ của ý nghĩa cuộc sống. Huấn Cao mong muốn con người hiểu rằng giá trị của cái đẹp làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn, cao quý hơn. Chính vì vậy mà Nguyễn Tuân đặt những nhân vật này gặp nhau trong một bối cảnh “chưa từng có” với những sắc màu phong phú, huyền bí nửa thiêng nửa ma quái. Và sau khi “Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm chữ trên tấm lụa trắng căng trên tấm ván” xong. Nguyễn Tuân cho nhân vật đóng vai người tù “giúp quản ngục đứng thẳng lên”. Hình ảnh này có ý nghĩa lớn. Trong tình thế đó, việc quản ngục giúp Huấn Cao mới thực sự có giá trị, nhưng tại sao lại có sự thay đổi trong hành động? Sự thay đổi đó mang ý nghĩa sâu sắc về tâm hồn con người. Lí tưởng đúng làm nên sức mạnh của con người. Trong nhà tù, Huấn Cao đã khuyên:
“Ở đây mọi thứ đều lộn xộn. Tôi khuyên ông nên rời khỏi đây... ở đây khó giữ được lòng nhân ái cho vững vàng và sau cùng cũng đến những ngày mất đi lòng nhân ái suốt đời”.
Nhân vật Huấn Cao qua bút pháp của Nguyễn Tuân là một người có trí tuệ và đạo đức, sống không bị thời kỳ làm phiền. Còn quản ngục thì sao?
Tuổi đã chớm già, tóc đã bạc, và rạn nứt trên khuôn mặt…” : tuổi tác đã đến. Bằng một số chi tiết về ngoại hình, Nguyễn Tuân đã tạo nên phần quan trọng trong đặc điểm của con người. Từ những đặc điểm đó, Nguyễn Tuân đã đưa ra nhận xét của mình về con người đó: “Trong một tình huống khắc nghiệt, con người sống bằng lòng tàn nhẫn, nhưng tính cách nhân từ và lòng biết trọng người của viên quản ngục này là một điểm sáng trong một thế giới tối tăm. Viên quản ngục là một âm thanh thanh nhã trong một bản giao hưởng mà âm nhạc xã hội đều xáo trộn” : so sánh làm nổi bật vẻ đẹp tinh thần của viên quản ngục. Nguyễn Tuân đã làm rõ hơn sự tương phản giữa tâm hồn và hoàn cảnh sống của viên quản: “Thượng đế đôi khi thử thách những con người thuần khiết trong một xã hội đầy bẩn thỉu. Và những người thật lòng, phải đối diện với cuộc sống ẩn chứa những thử thách” . Câu văn này không chỉ khen ngợi viên quản ngục mà còn chỉ trích xã hội hiện đại. Vậy, cái thuần khiết của viên quản ngục là gì? Đó là:
Đam mê nghệ thuật đẹp: “...Từ ngày xưa, ước mơ của quản ngục này là có một ngày được treo ở nhà một bức tranh do Huấn Cao viết '... Tù nhân viết một từ, quản ngục lại cẩn thận đánh dấu ô chữ với một đồng tiền kẽm...” - một dấu hiệu của sự tôn trọng với từ ngữ cao quý, tôn trọng vẻ đẹp trong con người, dù đó là một tù nhân như Huấn Cao. Nhưng ông ta vẫn ở đây vì sao? Bởi vì “chọn sai nghề mất rồi...”.
Tỉnh táo từ đầu, khi biết Huấn Cao đến, quản ngục khôn ngoan trong câu chuyện để tìm hiểu thái độ của thầy thơ. Trong đêm đó, “Quản ngục băn khoăn ngồi suy nghĩ”, ông ta đã suy nghĩ, tìm hiểu sâu hơn về lời của thầy thơ để rồi dự đoán: “chắc là ông lão này cũng không tồi... Một người biết trân trọng khí phách, biết thông cảm, biết trọng vọng tài năng, ông ta không phải là người xấu hoặc tinh quái”. Biết điều đó nhưng vẫn cẩn trọng thăm dò một cách sâu sắc mà không vội vàng. Là người biết chữ như ông ta nhất định biết lời khuyên của cố nhân: “Vội vàng chẳng đạt được gì”.
Khi biết thầy thơ đồng tình với mình, quản ngục mới dám mời Huấn Cao thưởng thức rượu thịt.
Tiếp cận Huấn Cao một cách dè dặt với thái độ “nhúm núm”. Bị Huấn Cao đuổi ra ngoài một cách khéo léo, ông ta lại lịch sự: “Xin phép rút lui” như một tướng tá đối với vua, một quan nhỏ đối với quan lớn chứ không phải dùng quyền lợi của một quản ngục đối với một tù nhân. Huấn Cao đã chờ đợi sự trả thù đúng mực đó. Nhưng quản ngục đã không hành động “Anh ấy cũng hiểu rồi, những người gây rối luôn gây ra rắc rối, đếm trên đầu họ cũng không kể hết, huống chi mình chỉ là một viên gạch nhỏ trong ngăn đựng tù”.
Có thể ông là một người tỉnh táo. Được Huấn Cao viết và được tù nhân khuyên bảo, quản ngục có lẽ đã nhận ra vị trí của mình nên '... xúc động, cúi đầu trước tù nhân, gật đầu một cách biểu thị, hai tay chắp lại nói một câu mà nước mắt nhỏ dòng trên khuôn mặt: Người say mê này thật sự xin lỗi, nhưng có lẽ đó chỉ là lời nói, nhưng văn chưa chắc đã đóng cửa ở phần kết thúc của câu chuyện ngắn này? Chuyện gì sẽ xảy ra với tù nhân, với quản ngục? Có ba khả năng sẽ xảy ra:
- Người bị kết án và giam giữ ở đó. Quản ngục vẫn tiếp tục công việc của mình thì ông ta là người lừa dối...
- Người bị kết án và giam giữ ở đó. Quản ngục xin từ quan...
- Quản ngục cùng với nhóm tù nhân trốn tránh...
Trong ba khả năng đó, khả năng thứ hai có thể xảy ra vì quản ngục từng suy nghĩ rằng ông đã chọn sai đường. Việc xin từ quan về để thú vị có thể là một cách chờ đợi thời cơ thuận lợi. Và luật lệ bất công vẫn tồn tại trong xã hội.
III. Chữ của người bị kết án là một câu chuyện ngắn tuyệt vời, phản ánh tài năng của Nguyễn Tuân trong văn học trước Cách mạng Tháng Tám. Sự tài năng đó được thể hiện qua lối viết tinh tế, mạch lạc, qua cách xây dựng câu chuyện chặt chẽ, qua những tình huống độc đáo và lôi cuốn nhưng vẫn không vượt quá khung việc tạo dựng nhân vật. Hình ảnh của Huấn Cao trong truyện thể hiện các đặc điểm độc đáo của một người tuân thủ đạo đức, kể cả đối với quản ngục. Tinh thần truyền thống trọng đạo đức hơn tiền tài của hai nhân vật đối lập trong hoàn cảnh sống đã vượt qua cả họ, vượt qua hoàn cảnh khó khăn của mỗi người để tạo ra một thái độ độc đáo trong việc nhận và trao đổi, điều này thực sự phản ánh chính xác với tựa sách Vang bóng một thời.