Yêu cầu
Đánh giá về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận - Ngôn ngữ Văn 11
Giải đáp chi tiết
Tràng Giang là một trong những bài thơ đặc sắc của nhà thơ tài năng Huy Cận và thể hiện rõ bản chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã nhiều lần kể lại quá trình sáng tác của mình. Cảm hứng thơ được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ ngoại ô Hà Nội. Ngày nay, vùng này đã trở thành nội thành đông đúc với nhiều tòa nhà cao tầng, biệt thự, nhưng vào thời điểm Huy Cận viết Tràng Giang và một vài chục năm sau đó, nó vẫn là một vùng đất hiu quạnh, yên bình, đẹp và buồn như đã được mô tả trong bài thơ.
Huy Cận đã chia sẻ rằng ông đã thử sử dụng nhiều hình thức thơ khác nhau cho bài thơ này, nhưng sau cùng ông đã chọn thơ bảy chữ, mang đậm phong cách của thơ Đường. Ông cũng cho biết rằng hình ảnh 'Lớp lớp mây cao đùn núi bạc' được lấy cảm hứng từ bản dịch thơ của Đỗ Phủ 'Mặt đất mây đùn cửa ải xa'. Ý kết được lấy từ bản dịch của Tản Đà 'Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai' để miêu tả nỗi buồn trong lòng ông: 'Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà'. Chính thể thơ bảy chữ của thơ Đường đã tạo nên sự kết hợp cảm xúc đồng chiều đó. Huy Cận cảm thấy buồn hơn Thôi Hiệu. Ông nhận thức rằng mình đứng trên vai người khác, có thể cao hơn nhưng không chắc chắn có đạt được đẳng cấp cao hơn. Đọc Tràng Giang, ta có thể cảm nhận được sự buồn của Hoàng Hạc, nhưng không chỉ ở câu kết như nhiều người nghĩ.
Bài thơ này mang vẻ đẹp cổ điển, trang trọng, mở ra một không gian rộng lớn nhưng cũng chứa đựng sâu trong lòng mình nỗi buồn. Nỗi buồn mơ hồ nhưng sâu sắc, không rõ nguyên nhân cụ thể. Bàng bạc vì không rõ sắc thái, không nóng bỏng nhưng vẫn lưu luyến như một nỗi buồn không đối tượng: trời rộng nhớ sông dài. Câu đề từ đã đề cập đủ đến nội dung của bài thơ. Nỗi buồn trong lòng người được miêu tả chi tiết. Cảnh vật đều gợi lên nỗi buồn, nỗi buồn được lan tỏa từ tình cảm. Huy Cận nói: Đây là bài thơ của tâm hồn. Tâm hồn ông luôn mang một nỗi buồn thế hệ, một tâm trạng nhớ quê nhà, thân phận nhỏ bé, một linh hồn nhỏ bé mang trên mình nỗi buồn thời gian. Tâm hồn của Huy Cận nhạy cảm với không gian rộng lớn, yên bình và u sầu. Riêng với ông, người đã từng 'nghiêng tai kì diệu' để lắng nghe vũ trụ và lòng mình, sự kết hợp giữa không gian trời đất và lòng người đã tạo ra những bài thơ đầy ý nghĩa.
Chữ 'tràng' trong Tràng Giang không phổ biến trong ngôn ngữ hàng ngày nhưng Huy Cận lại sử dụng... Có người giải thích rằng điều này để tránh nhầm lẫn với sông Trường Giang ở Trung Quốc. Tuy nhiên, chỉ dựa trên âm thanh (không phải nghĩa của từ) thì 'giang' có âm thanh gần giống nhau, tạo ra cảm giác rộng lớn, trải rộng hơn là 'trường'. 'Trường' chỉ mô tả chiều dài, trong khi 'tràng' mở ra. Mặt sông rộng lớn, dẫn đến việc sóng sông, ban đầu thấp dần, chỉ như một gợn nhẹ trên bề mặt nước. Sự rộng lớn và yên bình tạo ra cảm giác buồn, sâu thẳm. Tình trạng này được ám chỉ bằng cụm từ 'điệp điệp', cảm giác buồn trong lòng người. Câu đầu tiên thực sự buồn. Tuy nhiên, câu thứ hai: 'Con thuyền xuôi mái nước song song' không phải là một câu thơ buồn, ngược lại, nó là một câu thơ vui vẻ. Nói về sự hòa hợp, gắn kết của thuyền và nước. Câu này không gây ra cảm giác buồn. Hơn nữa, nó là một câu thơ vui vẻ. (Chữ 'song song' chỉ là một phép ẩn dụ để nói về sự tương phản với sự buồn trong câu tiếp theo). Sự vui vẻ này dẫn đến cảm giác buồn trong câu sau. Tạo ra một mối liên kết: sự vui vẻ chỉ tồn tại trong khoảnh khắc và sự buồn là điều tất yếu, đó là khi thuyền đến bến, nước vẫn tiếp tục trôi, trôi một mình, lạc lõng giữa những ngã rẽ của cuộc sống, và đó là lúc nỗi buồn về nhào lạc. Hình ảnh của sông nước đã trở thành một phần của con người. Thuyền trên nước, buồn về nhào lạc. Một từ, một cảm xúc... cho thấy cách nhìn nhận cuộc sống của Huy Cận khá giống với Xuân Diệu (hoa nở để tàn - Trăng trong để mờ - Bèo hợp để tan - Người gần để xa). Thuyền và nước chạy song song, một khoảnh khắc của sự vui vẻ, sau đó là một trạng thái của nỗi buồn. Từ hình ảnh nỗi buồn dẫn đến câu kết thú vị:
Củi một cành khô, lòng vấp ngã hàng dòng.
Trên sông Hồng, đặc biệt là trong mùa lũ, bạn có thể nhìn thấy cả cây trôi, thân gỗ trôi, và những vật dụng khác nổi chìm trong sóng đục và phù sa. Cảnh này gợi lên cảm giác tang thương. Tuy nhiên, không phải làm Huy Cận cảm thấy sửng sốt với bài thơ này. Ông nói rằng ông phải chọn hình ảnh sao cho phản ánh được thực tế của cuộc sống con người. Chọn củi hơn là gỗ, chọn một cành khô hơn là những cây xanh tươi. Một cành khô mất mạch chỉ là đắt đỏ, đồng thời liên kết với sự buồn của người trên trăm ngả.
Phần một của bài thơ tập trung vào việc miêu tả mặt sông. Chi tiết sinh động, ngôn ngữ sống động và nằm ở trung tâm của chủ đề. Phần hai mở ra để nhìn xung quanh: những hòn đảo nhỏ, làng quê xa xôi, bầu trời cao xa, bờ sông rộng... Tất cả tạo ra một không gian mở, cho phép tâm hồn tan chảy vào sự lặng yên. Một âm thanh xa vọng tự nơi đâu đó, mơ hồ như tiếng vang của một kỷ niệm về quê nhà. Sự mơ hồ của âm thanh là cách mô tả sự yên bình. Phần này mở ra không gian. Trời dần dần trở nên sâu và xa: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Điều này tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ. Chiều mở ra rộng lớn: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu'... Không màu sắc, không âm thanh, không hoạt động. Mọi thứ đều im lặng, ngấm vào trong cảm giác cô liêu.
Cảnh vật mở ra vô hạn, dễ dàng để mơ mộng. Huy Cận rồi quay trở lại miêu tả bên bờ sông, nơi bắt đầu của bài thơ: “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Sự im lặng được đẩy đến mức người biến mất. Hai phần trước có thuyền, có chợ. Nhưng bây giờ, trên sông chỉ còn bèo, hàng loạt bèo, hàng loạt. Không có thuyền, không có cầu bắc, không có công trình nào của con người, chỉ có sự yên bình của thiên nhiên. Nỗi buồn lan tỏa qua cảnh vật. Buồn lan tỏa ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Sau đó, nó cao lên: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc'. Một lần nữa, nó trải qua cánh chim nhỏ và rơi vào lòng người, ở nơi không gian không có dấu vết con người, khiến lòng người nhớ về quê hương, nhớ về gia đình. Sự trôi dạt của cảnh vật khiến con người nhận thức thêm về bản chất bất định của cuộc sống, thèm khát sự ấm áp của tình thân. Bài thơ kết thúc với nỗi nhớ về nhà. Sự logic trong những bước chuyển của tâm hồn được đánh giá cao trong bài thơ này. Có lẽ vì vậy, Huy Cận tự mình miêu tả: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn'.