1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
3. Bài mẫu số 3
Bài văn Đánh giá về thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du
1. Nhận định về thơ Độc Tiểu Thanh kí, mẫu số 1:
Nguyễn Du, một đại thi hào dân tộc, với tác phẩm không chỉ giỏi về 'Truyện Kiều' mà còn sáng tạo trong thơ chữ Hán như 'Thanh Hiên thi tập,' thể hiện tâm huyết với nhân quyền và nỗi đau của nhân dân dưới chế độ phong kiến.
Độc Tiểu Thanh kí là một tác phẩm đặc sắc, làm xúc động người đọc bởi tình cảm nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du. Tác phẩm nói về Tiểu Thanh, một người phụ nữ thực sự, sống ở thời Minh Trung Quốc. Phần lớn bài thơ của nàng bị phá hủy, chỉ còn lại Phần Dư, gửi thông điệp đau lòng về số phận bất công của phụ nữ tài năng nhưng không may mắn.
Cảm xúc trải dài qua thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú, Nguyễn Du không chỉ khóc cho Tiểu Thanh mà còn tự thương mình. Mặc dù nói về cuộc đời bất hạnh cách đây 300 năm, nhưng thực chất là tâm sự của nhà thơ với thời kỳ đầy khó khăn.
Bài thơ bắt đầu bằng hai câu mở đầu, hình dung người đọc vào khoảnh khắc Nguyễn Du đối diện với tâm hồn của Tiểu Thanh:
Tây Hồ, nơi hoa uyển nở rộ biến thành khung cảnh hằng khư. Độc điếu trước mặt chỉ còn lại cuốn thư duy nhất. (Tây Hồ đẹp nhưng gò hoang, thổn thức bên dòng giấy rơi).
Phiên bản dịch đã làm giảm sự sắc nét của câu thơ chữ Hán, tuy nhiên, vẫn giữ được tinh thần của Nguyễn Du. Ông không chỉ mô tả vẻ đẹp của Tây Hồ mà còn sử dụng nó để nói về sự biến đổi của cuộc sống. Từ ngôn ngữ hình ảnh, Nguyễn Du kể một câu chuyện về sự thay đổi, nhưng cũng về niềm đau và xót thương của quá khứ.
Những bài Cảm nhận về bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du xuất sắc nhất
Trong không gian huyền bí đó, hình bóng con người hiện lên đơn côi, như họ đã thu lại mọi cảm xúc vào 'độc điếu'. Người thơ đọc một quyển sách một mình (chỉ thư đầu tiên). Trong cô đơn, ông đối mặt với tâm hồn của Tiểu Thanh cách đây ba trăm năm, thể hiện sự kính trọng đầy cảm xúc của cô. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh sự trầm lắng và suy tư sâu sắc trong cô đơn. Cách tiếp cận này thể hiện sự đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh, với 'điếu' là biểu hiện của sự xót thương với quá khứ. Không phải là âm thanh 'thổn thức' như trong dịch, mà là giọt nước mắt yên bình thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ.
Hai câu đề đã rõ ràng thể hiện cảm giác buồn bã và tiếc nuối trong hai câu đầu thơ:
Chi phấn như thần liên quan đến cái chết
Văn chương không mệnh vẫn lưu truyền dư thừa
(Son phấn có thần chôn vẫn mang theo hận thù
Văn chương không mệnh, nhưng còn vẫn tồn tại)
Nhà thơ sử dụng hai hình ảnh 'son phấn' và 'văn chương' để mô tả những nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần của Tiểu Thanh, được thể hiện qua những dòng thơ. Theo quan điểm truyền thống, 'son phấn' - vật trang điểm của phụ nữ mang tính chất tinh thần vì liên quan đến việc làm đẹp. Cả hai câu thơ nhấn mạnh bi kịch trong cuộc sống của Tiểu Thanh, một cuộc sống dựa vào son phấn và văn chương để chống đối bất hạnh.
Sử dụng đối tượng vật để nói về con người. Liên kết những vật vô tri, vô hồn với những từ ngữ như 'thần' và 'mệnh' để mô tả tính cách, số phận con người. Việc nhân cách hóa này thể hiện sự xót xa của nhà thơ về bi kịch của con người thông qua số phận của Tiểu Thanh. Sự kết cục thảm hại của Tiểu Thanh bắt nguồn từ sự đố kỵ, ghen tuông đối với tài năng của người khác. Dù chỉ là những vật vô tri, chúng cũng phải chịu số phận bi thảm giống như chủ nhân: son phấn bể nát, văn chương đốt cháy. Hai câu thơ vạch ra sự tàn bạo của những người vô nhân tính trước mặt những tài năng. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự nhạy bén của Nguyễn Du trước cuộc sống của những người 'hồng nhan bạc phận', liên quan đến quan niệm 'tài mệnh tương đố' của gia trưởng Nho. Cảm nhận rằng vật còn phải chịu đựng, huống chi là con người! Vượt lên trên những tác động của thiên mệnh là tấm lòng đầy lòng trắc ẩn của Nguyễn Du.
Dựa vào số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã tóm gọn quan điểm về con người trong xã hội phong kiến qua hai câu tuyên bố:
Cái kim trống trải nỗi oan trời
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nỗi oan trời chưa bao giờ hỏi thăm
Nhân vận phong kiến ta tự chịu)
Nỗi oan của Tiểu Thanh không chỉ là của riêng cô mà còn là kết quả chung của những người có tài 'kim' và đức chí 'cổ'. Nhà thơ mô tả đó là 'hận sự', một sự hận thù vĩnh viễn mà người ta không thể giải thoát. Trong tư duy này, có vẻ Nguyễn Du còn liên kết với những cuộc đời như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ - những tài năng mà ông luôn ngưỡng mộ, cũng như hàng loạt những người tài năng và bất hạnh khác. Những điều oan trái và đau khổ của nghệ sĩ trong xã hội phong kiến được thể hiện qua những dòng thơ. Cùng lúc, nó cũng là một tuyên bố về sự bế tắc của Nguyễn Du trước thời cuộc.
Khóc người để thương mình, cảm xúc hòa quyện đã tạo ra câu thơ độc đáo 'phong vận kỳ oan ngã tự cư' (Ta tự cho rằng mình cũng là một trong những kẻ chịu oan lạ lùng vì tố chất nhân đạo). Đây là biểu hiện của tình cảm chân thành và đồng điệu của Nguyễn Du, đồng thời thể hiện tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo mà ông tôn trọng và lưu truyền sâu sắc.
Nguyễn Du không chỉ một lần bày tỏ điều này. Ông từng đóng vai nhân vật Kiều để cùng nhân vật khóc, ông từng khẳng định một cách tự tin: 'Thuở nhỏ, ta đã cho rằng mình có tài'. Cách ông nhìn nhận bản thân mình như vậy, hiếm khi có trong thi văn cổ điển Việt Nam trước đó. Việc đặt bản thân vào vị trí 'đồng hội, đồng thuyền' với Tiểu Thanh cho thấy Nguyễn Du mở lời về tâm hồn của mình và sự cảm thông với con người. Những tâm sự chung của những người mang gánh 'kỳ oan' được bày tỏ mạnh mẽ trong lời nói riêng tư, khiến người đọc không khỏi cảm thấy xúc động. Điều này không chỉ là trải lòng của Nguyễn Du mà còn là tâm sự chung của nhiều nhà thơ thời đó.
Kết thúc bài thơ là những suy tư của Nguyễn Du về thời cuộc:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hà hà nhân khấp Tố Như
(Không biết sau ba trăm năm nữa
Người đời sẽ khóc cho Tố Như chăng)
Khóc cho Tiểu Thanh ba trăm năm trước với giọt lệ chân thành từ trái tim đồng cảm, dòng suy tưởng dẫn Nhà thơ đến một mối hồ nghi khó giải tỏa ba trăm năm sau. Tiểu Thanh nhận được lòng tri kỷ của Nguyễn Du, giọt lệ đồng điệu rửa sạch oan khiên. Nhưng nhà thơ tự thấy cô đơn và hồ nghi trong hiện tại. Câu hỏi cho người đời sau là một khát khao tìm kiếm tấm lòng tri âm tri kỷ giữa cuộc đời, như tâm trạng của Khuất Nguyên, Đỗ Phủ.
Nhà thơ tỏ tên chữ 'Tố Như' không để 'lưu danh thiên cổ' mà chỉ là tâm sự tha thiết về cuộc đời. Câu thơ chứa đựng tâm trạng bi phẫn trước thời cuộc. Khóc cho người xưa, nhưng nhà thơ cũng khóc cho chính mình. Giọt lệ chảy quanh hình bóng Nguyễn Du, cô đơn và bi thương trong bóng tối xã hội rẻ rúng tài năng.
Hơn ba trăm năm trôi qua, bài thơ của Nguyễn Du vẫn lưu giữ tấm lòng sâu sắc và chân thành đối với con người. Tình cảm không biên giới, vượt thời gian, bắt nguồn từ 'thương người như thương thân' của dân tộc Việt Nam.
Không cần đợi ba trăm năm nữa, ánh sáng của thời đại mới đã vinh danh tên tuổi Nguyễn Du trong lòng dân tộc. Tên tuổi Tố Như tỏa sáng, góp phần vinh danh dân tộc Việt Nam. Cuộc sống đã thay đổi, niềm vui của dân tộc bùng nổ trước cánh cửa thế kỷ XXI. Thời đại mới giải tỏa những bế tắc của Nguyễn Du và thời đại của ông, tiếp nhận tinh thần nhân bản dân tộc.
""""KẾT THÚC PHẦN 1""""-
Dưới đây là đoạn Đánh giá về bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du. Tiếp theo, học sinh hãy chuẩn bị trả lời câu hỏi trong SGK, Phân tích tâm sự của Nguyễn Du qua Độc Tiểu Thanh kí và soạn Bài văn về Độc Tiểu Thanh kí để phát triển kỹ năng viết văn.
2. Nhận định về bài thơ Độc Tiểu Thanh kí, mẫu số 2:
Trong kho tàng thơ ca đặc sắc của Nguyễn Du, thơ chữ Hán đóng vai trò quan trọng, là nơi Nguyễn Du thể hiện trực tiếp tâm huyết và tình cảm cá nhân, bày tỏ những suy nghĩ sâu sắc. 'Độc Tiểu Thanh kí' không ngoại lệ, là không gian Nguyễn Du chia sẻ tâm tư, chia sẻ niềm đau với số phận tài sắc và bi kịch của Tiểu Thanh.
Bài thơ là sự hòa quyện giữa lòng thương người và tình cảm thương mình, kết hợp sự xót thương cho số phận bạc mệnh và sự kính trọng đối với những phẩm chất cao quý của con người. Điều này thể hiện một khía cạnh quan trọng và sâu sắc trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du.
Trong thơ văn trung đại, không ít hình ảnh của những phụ nữ 'tài hoa bạc mệnh', là nạn nhân của quy luật 'hồng nhan đa truân'. Ví dụ, cung nữ của Nguyễn Gia Thiều là một người đa tài, như được mô tả trong câu thơ:
'Câu cẩm tú đàn anh họ Lý
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương'
và: 'Cờ tiên, rượu thánh ai đang
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm'
Tuy nhiên, họ chỉ kết thúc đau buồn tại nơi cấm địa, nuối tiếc quá khứ, chán nản hiện tại và lo sợ cho tương lai. Nguyễn Du là người duy nhất đã vẽ nên một tầng lớp người mang trọn số phận bạc mệnh: Kiều, Đạm Tiên, và người ca nữ của Long Thành. Số phận của họ thể hiện tâm huyết nhân đạo rộng lớn của Nguyễn Du. Cuộc sống của Tiểu Thanh, một người con gái xa về thời gian và không gian, nhận được sự cảm thông sâu sắc từ nhà thơ. Tài hoa của Tiểu Thanh, đặc biệt là tài văn, cuối cùng cũng chấm dứt khi nàng trẻ tuổi và đầy sức sống bị hại chết. Phần tinh hoa mà nàng để lại bị tiêu tan vì lòng ghen tuông và tàn ác của người vợ. Sự thay đổi đau đớn trong cuộc đời nàng được thể hiện trong cảnh vật:
Hồ Tây hóa thành gò hoang
Thổn thức bên bờ mảnh giấy tan tác
Trong bản gốc, Nguyễn Du sử dụng từ 'tận' như muốn xoá sạch dấu vết của cảnh đẹp Tây Hồ, làm nổi bật vẻ hoang vắng, tàn tạ của gò hoang. Sự biến đổi tang thương của cảnh làm nảy sinh mối thương tâm đối với người. Tây Hồ xinh đẹp giờ chỉ còn là gò hoang, và tất cả những gì còn lại của Tiểu Thanh, tài sắc của nàng, giống như một mảnh giấy tàn, là phần dư cảm. Nhưng chỉ với những điều này, nhà thơ đã đủ để tỏ ra đơn độc trong sự thương cảm, xót xa, khóc cho cuộc sống hồng nhan. Tiểu Thanh và nàng Kiều, cả hai đều phải đối mặt với:
Như thế này: Hồng nhan từ thuở xưa
Có phần nào bạc mệnh chừa cho ai
(Truyện Kiều)
Tài sắc của những người này được khen ngợi như là những giá trị tinh thần tốt đẹp, nhưng bản thân họ lại bị đày đọa, bị đạp đổ. Nguyễn Du, với lòng nhân đạo sâu sắc, thể hiện sự đồng cảm và xót thương chân thành với số phận của Tiểu Thanh. Điều này là một khía cạnh mới mẻ trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du. Đối tượng mà ông thể hiện lòng thương cảm và quan tâm không chỉ là 'thập loại chúng sinh' đói nghèo và đau khổ. Rất nhiều tình cảm của ông dành cho những người tài năng.
Đánh Giá Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du
Số phận của Tiểu Thanh tạo nên mối hận ngàn năm mà Nguyễn Du đề cập trong hai câu thơ:
Mối thù kim cổ trời cao không thể hỏi, Cái án phong lưu là bản thân khách tự gánh mang
Mối thù đó hỏi trời không hiểu, hỏi đất không thấu, chỉ những người cùng thuyền mới có thể cùng nhau than thở. Nguyễn Du tự nhận mình cũng gặp phải một oan kỳ lạ chỉ vì vẻ phong nhã và tài năng. Nói một cách khác, sự đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh là do Nguyễn Du chính là người đồng cảnh. Tình thương người bắt nguồn từ sự thương xót bản thân, trở nên chân thực và sâu sắc hơn. Đúng như chủ nhân của Mộng Liên Đường, Nguyễn Đăng Tuyến đã nhận xét: 'Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, mặc dù khác biệt nhưng lòng nhân ái là một. Người thời nay thương người xưa, người thời xưa thương người thời nay, tình cảm này là truyền thống của những tài tử dưới bóng trời và đã tồn tại suốt hàng ngàn năm'. Sự trùng hợp, châm ngôn của số phận với những người tài năng đã tạo ra mối thù vĩnh cửu và lan rộng khắp mọi nơi.
Nguyễn Du dành tình thương cho Tiểu Thanh, tình cảm giữa những người xa lạ về hoàn cảnh nhưng đồng điệu trong cảnh ngộ. Nỗi thương mình tạo nên xót xa cho người, và từ sự thương cảm đó tiếp tục nảy sinh những băn khoăn, day dứt về cuộc đời. Tiểu Thanh cuối cùng cũng có được sự an ủi từ Nguyễn Du - kẻ tri âm tri kỷ xót xa. Nhưng đối với Nguyễn Du, là một 'tài tử đa cùng', số phận gian nan liệu còn ai nhớ đến và tiếc thương sau 300 năm? Đó là nỗi lo lắng không tìm được lời giải đáp, chỉ có thể suy ngẫm qua trải nghiệm của Tiểu Thanh để đặt câu hỏi và chia sẻ.
Bài thơ có cấu trúc độc đáo: hai câu đầu mô tả cảnh và sự kiện, trong khi 6 câu sau chứa đựng một khối tình cảm nặng nề. Khối tình cảm này không chỉ là sự thương tiếc cho số phận của Tiểu Thanh, mà còn là sự lo âu về cuộc đời của tác giả và của một lớp người sĩ tài, tài tử với lòng nhân ái bao la.
Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh như một sự định mệnh, như Thuý Kiều đến với Đạm Tiên. Ngày tết Thanh Minh, sắc xuân sao không đến với Đạm Tiên trên cỏ xanh:
Như vậy, cảnh Xuân không đến với Đạm Tiên trên cỏ xanh ngày tết Thanh Minh, giống như Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh, là những sự định mệnh kỳ diệu của cuộc đời.
Bên lề đường, đất mềm dần sụp,
Ngọn cỏ chia thành vàng xanh chóe.
Màu cỏ vàng nhạt giữa mùa xuân là bức tranh hoàn hảo cho cuộc gặp gỡ của hai linh hồn, Nguyễn Du và Tiểu Thanh, không chỉ là sự chia lìa giữa yin và yang, mà còn là sự vượt qua khoảng thời gian dài lâu: ba trăm năm. Khoảng cách này không làm giảm bớt lòng cảm thông. Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du chính là tiếng lòng vượt qua mọi khoảng cách, đầy cảm thông và lòng thương xót cho số phận của Tiểu Thanh.
Cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Du và Tiểu Thanh có vẻ như được định trước bởi vận mệnh. Đây là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn tài năng và đầy duyên nợ với văn chương:
Tây Hồ hóa thành cảnh đẹp của gò hoang,
Đau lòng bên bờ với mảnh giấy tàn.
Bức tranh hoang tàn vừa được vẽ. Tây Hồ, nơi núi Cô Sơn yên bình, giờ trở thành bức chân dung của sự đổi thay. Đó là sự thay đổi tuyệt đối, từ quá khứ phồn thịnh đến hiện tại hoang vắng, từ vườn hoa trở thành gò hoang. 'Hoa uyển tẫn thành khư' như một biểu tượng cho sự đổi dậy mạnh mẽ, nhưng đồng thời cũng là sự mất mát to lớn. Nguyễn Du thương cảnh đẹp bị hủy hoại, và câu thơ không chỉ là lời kể của lẽ đời dâu bể mà còn là lời thương xót cho cái đẹp tan vỡ. Câu thơ nói lên nỗi đau riêng tư nhưng cũng chứa đựng nỗi lòng nhân loại.
Cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Du và Tiểu Thanh được thể hiện qua đề thừa mới:
Độc điếu trước mặt chỉ viếng nhìn,
(Chỉ gặp nàng qua một cuốn sách đặt trước cửa sổ)
Khi còn sống, Tiểu Thanh tạo một tập thơ (Tiểu Thanh kí) để ghi lại nỗi đau, lẻ loi của mình. Khi nàng qua đời, vợ cả đốt cháy một phần, nhưng vẫn còn lại vài bài. Việc viếng thăm Tiểu Thanh không chỉ xảy ra tại Cô Sơn, mà còn diễn ra qua những trang sách chưa đọc trước cửa sổ. Sự tiếc thương của Nguyễn Du vượt qua thời gian và không gian, chỉ viếng nhìn nàng qua cuốn sách dang dở. Câu thơ làm mới nỗi đau cho số phận bi thảm của Tiểu Thanh, nơi phần dư cảo của Tiểu Thanh kí có lẽ cũng là những mảnh vụn của cuộc đời nàng? Mảnh vụn vẫn còn lưu luyến, tiếp tục làm đau lòng, để lòng người khắp nơi đều hận thương và oan trái.
Nhận định về bài thơ Độc Tiểu Thanh kí là cách để cảm nhận tấm lòng của Nguyễn Du đối với những số phận tài hoa bạc mệnh.
Tiểu Thanh, tài năng với vẻ đẹp, nhưng lại đau khổ vì số mệnh yếu đuối. Đó có lẽ là định mệnh của những người có vẻ ngoại hình và tài năng xuất chúng. Nỗi day dứt ấy làm ám ảnh Nguyễn Du suốt cuộc đời:
Son phấn mang đến thần thánh, nhưng vẫn giữ lấy nỗi hận,
Văn chương không có số mệnh vẫn còn hiện hữu.
Hai câu thơ tóm gọn nỗi oan trái của Tiểu Thanh. Son phấn đại diện cho sắc đẹp, văn chương đại diện cho tài năng. Hai thứ vô tri trở nên sống động, mang theo thần thánh và số mệnh của Tiểu Thanh. Dù tập sách có bị đốt cháy, cuộc đời của Tiểu Thanh vẫn tiếp tục hiện hữu để lên tiếng thay thế cho những số phận tương tự. Hai câu thơ là biểu tượng của sự xót xa và ngợi ca đối với vẻ đẹp và tài năng.
Bốn dòng thơ tiếp theo là biểu tượng cho hai sự thay đổi ý. Thay vì chỉ thương một cô gái tài hoa, Nguyễn Du bây giờ thương cho tất cả những số mệnh tài hoa; thay vì thương người, Nguyễn Du bây giờ mang theo nỗi thương cho chính bản thân mình.
Nỗi oan, nỗi hận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du trưng cầu thành biểu tượng của nỗi hờn, nỗi oan của những kẻ cùng chung đò, cùng thấp thỏm:
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Dòng thơ biểu lộ bao nỗi hờn kim cổ như một câu hỏi to lớn treo lơ lửng giữa trời không có lời đáp. Tại sao những kẻ phong lưu lại phải chịu oan trái? Tại sao những tài năng lại luôn gặp số phận khó khăn? Câu thơ đặt ra một câu hỏi không có câu trả lời rõ ràng. Nỗi hận, nỗi oan càng trở nên đau đớn và nhức nhối.
Khi đến viếng chùa Tây Phương, Huy Cận bắt gặp hình ảnh của sự hờn oan từ thời Nguyễn Du, đọng lại trên khuôn mặt tượng đầy bi thương:
Một câu hỏi to lớn chất chứa nỗi buồn không lời
Cho đến bây giờ, gương mặt vẫn chìm đắm trong sầu bi.
Hai câu thơ còn là sự đồng cảm chân thành. Đó là sự đồng cảm tự nguyện của Nguyễn Du với những số phận tài năng bất hạnh: 'Vận mệnh đen tối vẫn là của chính tôi'. Từ 'tôi' ở đây không thể dịch là 'khách'. Nhưng chỉ đến hai câu cuối, nhân vật trữ tình mới hiện hình rõ ràng:
Chẳng biết qua bao nhiêu thế kỷ nữa,
Người đời liệu còn khóc cho Tố Như không?
Hai dòng cuối lạ mắt, đột ngột chuyển ý, luồn luật niềm trìu mến mà không làm mất đi dòng cảm xúc. Ý đến tự nhiên và hợp lý. Từ thương người, Nguyễn Du dịch chỗ đến thương mình. Hai câu thơ tạo nên một câu hỏi. Câu hỏi hướng đến những hồn tri âm. Không hỏi về quá khứ, không hỏi về hiện tại, vì cả quá khứ và hiện tại đều bế tắc. Câu hỏi hướng đến tương lai. Nguyễn Du không hỏi trời, ông hỏi con người vì ông hy vọng rằng trong cuộc sống này, có thể tìm thấy những tri âm. Với Tiểu Thanh, ba trăm năm sau có lẽ đã có một Nguyễn Du 'thổn thức', không biết liệu ba trăm năm sau có ai hiểu mình và cảm thông không? Câu thơ nặng nề. Hai từ 'bất tri' (không biết) tràn đầy tủi hổ nhưng cũng chứa đựng hy vọng. Nguyễn Du vẫn tin tưởng vào nhân tính của con người.
Thơ cổ thường là lời khóc than cho những người đã khuất. Thơ Nguyễn Du không chỉ giới hạn ở đó. Khi nhớ đến và thương tiếc về những người đã mất, tác giả cũng cảm nhận sâu sắc nỗi thương cho chính bản thân và đồng nghiệp nghệ sĩ. Điều này chính là nguồn động viên cho sự sáng tạo nhân văn cao quý trong bài thơ.
Độc Tiểu Thanh kí là biểu tượng của sự buồn bã suốt đời của Nguyễn Du. Đây là lời thánh thót của thi sĩ về sự phồn thịnh và nghịch cảnh của cuộc sống nhân gian. Điều này phải là nguồn cảm hứng vô tận cho tâm hồn nhạc sĩ.
""""--KẾT""""--
Đi sâu vào phân tích phần Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng sẽ giúp các bạn có cái nhìn rõ ràng hơn về nội dung, chuẩn bị tốt cho bài học sắp tới của mình.