1. Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) sinh ra ở Dục Tú, Từ Sơn, Bắc Ninh, ngày nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Sự ảnh hưởng của lịch sử và cách mạng rất rõ trong tiểu thuyết và kịch của ông.
Trong lĩnh vực tiểu thuyết, ông có những tác phẩm như Đêm hội Long Trì, An Tư công chúa, Sống mãi với Thủ đô, Truyện Anh Lục,...
Trong lĩnh vực kịch, ông tạo ra những tác phẩm như Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện, Bắc Sơn, Những người ở lại....
Về tác phẩm viết cho thiếu nhi, có những truyện như An Dương Vương xây thành Ốc, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Kể chuyện Quang Trung...
2. Kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng được hoàn thành vào cuối năm 1945 - đầu năm 1946. Vở kịch này được công diễn lần đầu vào đêm 6 - 4 - 1946 tại Nhà hát lớn Hà Nội. Bắc Sơn là tên một tỉnh thuộc Lạng Sơn. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ vào cuối năm 1940 và đầu năm 1941, là một trang sử hào hùng của dân tộc và Đảng ta. Kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng đã đề cập đến cuộc khởi nghĩa này.
Bắc Sơn gồm năm phần. Tóm tắt nội dung có thể như sau:
Ở Vũ Lăng, cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Nhiều quan lại và thực dân bị bắt và xử trảm. Dân chúng náo nức tham gia đóng góp, mang đến lúa, thịt, gạo để hỗ trợ cuộc kháng chiến. Cụ Phương, con trai Sáng hăng hái tham gia. Trong khi đó, bà cụ Phương và con gái là Thơm, nghĩa là người Tày, chồng của Ngọc (một quan lại) thì sợ hãi, hoang mang, tránh né. Cừu, một nông dân 24 tuổi, người Tày, trở thành người dẫn đầu của phong trào.
...
3. Bắc Sơn được xem là vở kịch đầu tiên thành công trong việc thể hiện chủ đề cách mạng. Nó tôn vinh tinh thần chiến đấu và vai trò lãnh đạo của cán bộ cách mạng, ca ngợi tình yêu nước và lòng dũng cảm chiến đấu của nhân dân, thể hiện một cách chân thực và cảm động quá trình nhận thức và ủng hộ cách mạng của phụ nữ và quần chúng. Đồng thời, kịch Bắc Sơn cũng lên án mạnh mẽ tội ác tàn bạo của thực dân Pháp và vạch trần bọn Việt gian bán nước. Cảm nhận về hồi IV kịch Bắc Sơn.
Đoạn này có thể được lấy từ lời Thơm trong hồi IV của kịch Bắc Sơn để làm tiêu đề: “Tôi có thể chết, nhưng tôi sẽ không đầu hàng hai ông ”. Trong tình huống tại nhà của Ngọc và Thơm, xuất hiện bốn nhân vật: Ngọc, Thơm, Thái, và Cửu.
Ngọc dẫn đội Tây đang truy đuổi hai cán bộ cách mạng là Cửu và giáo Thái. Trong khi họ đang gặp nguy hiểm, Cửu dẫn Thái chạy vào nhà của một người bạn tên Điếc, mà không biết đó là nhà mới của Ngọc. Cửu sẵn sàng nắm súng để bắn Thơm, vì anh cho rằng: “Vợ của Việt gian cũng là Việt gian”. Tuy nhiên, Thái đã ngăn chặn và nói: “Đừng bắn”, bởi anh tin rằng Thơm mang “dòng máu của cụ Phương”, dòng máu yêu nước và yêu cách mạng. Trong khi tiếng sủa của chó và tiếng chạy trốn vang lên, Cửu cảm thấy thất vọng và hối hận, nhưng Thơm đã nói: “Cũng được, hai ông bị bắt bởi chúng nó chưa? Làm sao bây giờ?... Tôi sẽ không đầu hàng hai ông. Tôi có thể chết, nhưng tôi sẽ không đầu hàng hai ông”. Ngọc đưa đội Tây đến khám nhà bà Lục và bà Chui. Khi tiếng bước chân và tiếng trò truyện dần dần đến gần, Thái và Cửu muốn chạy ra, nhưng Thơm đã ngăn lại và đẩy họ vào buồng, nói: “Có lối ra ở đây, hãy khóa cửa buồng lại”.
Tình huống này đầy căng thẳng, kịch tính và gây hồi hộp. Người vợ của Việt gian đã che chở và bảo vệ hai cán bộ cách mạng. Thơm đã hoàn toàn ủng hộ cách mạng, thể hiện lòng trung thành của nhân dân với cách mạng.
Một góc khác là sự xung đột giữa Thơm và Ngọc. Ngọc liên tục lén lút dùng chó săn để giúp đỡ đội Tây. Mỗi đêm, hắn đều ra ngoài, cầm đèn và gậy để săn lùng cán bộ cách mạng. Tin đồn lan truyền đến tai Thơm: “anh chồng tôi dắt Tây vào tấn công Vũ Lăng”. Ngọc có nhiều tiền, hắn mơ mộng về những mảnh đất vàng. Hắn tự xem mình như một kẻ không danh tiếng, một người bị phản bội trong làng. Ông Thái, một người tốt bụng với Thơm, được đánh giá cao: “Ông ấy bỏ lại cả nhà để tham gia cách mạng, không ai trong vùng này lại không tôn trọng ông ấy!”. Ngược lại, đôi khi Ngọc tạo ra các lời đồn thổi về Thái là: “một kẻ gián điệp cho Tây”, và đôi khi lại nói rằng, anh Cửu và ông Thái là “hai tên trùm cướp... Bắt được hai tên đó thì sẽ nhận được một số tiền lớn’’... Hắn ra ngoài suốt đêm, hắn đi săn lùng để bắt giữ ông Thái, bắt anh Cửu để nộp cho Tây với hy vọng nhận được tiền để mua nhà, mua ruộng, thậm chí làm giàu nhờ vào hàng hàm cầu. Trong khi Thái và Cửu đang ẩn náu trong buồng của Thơm, dưới chân cầu thang là bọn lãnh đạo, tay sai và lính Tây đang chờ đợi Ngọc ra ngoài. Hắn ngồi xuống và bắt đầu nói với Thơm về mọi thứ, đếm tiền, và cười, hắn nhìn về phía vợ mình. Đôi khi, hắn nói: “Chắc chắn là nó ở đó,... chắc chắn là nó ở đó!...”. Thơm nhìn chồng mình với sự lo lắng, nhưng chị đã giữ kín tâm trạng của mình. Thơm nói nhẹ nhàng, yêu thương, đôi khi nhắc chồng: 'Hãy ở nhà nghỉ ngơi để hồi phục sức khỏe”, và đôi khi thì thúc giục: “Hãy đi!”. Khi Ngọc nghe tiếng quan gọi, chạy ra ngoài, Thơm thở phào, nhìn theo và mỉm cười, tưởng rằng: “Rất may mắn!'. Thơm thực sự là một diễn viên giỏi, đã lừa qua mắt kẻ Việt gian, người mà lại là chồng của mình. Nguyễn Huy Tưởng đã mô tả một cách tinh tế tâm trạng của nhân vật Thơm, đầy tính bi kịch và lý trí.
Nhân vật Thơm là một biểu tượng vĩ đại về người phụ nữ Tày hơn 60 năm trước. Vượt qua mọi khó khăn, Thơm đã đến với cách mạng, sẵn sàng hy sinh cho cách mạng. Tinh thần của các chiến sĩ trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn sẽ mãi mãi sống mãi. Hình tượng nhân vật Thơm trong kịch Bắc Sơn rất nổi bật, là một thành công đặc biệt của Nguyễn Huy Tưởng khi viết về cách mạng và phụ nữ Việt Nam.
Nhắc lại lời của Thơm trước khi bị Ngọc bắn:
“Thôi rồi, đến lúc này, tôi không cần phải giấu diếm nữa. Tôi biết anh từ khi em tôi chết, chú tôi chết, từ ngày mẹ tôi bị đánh. Anh đã ẩn nấp trước ai, nhưng làm sao có thể ẩn nấp trước tôi? Trong ba tháng qua, tôi sống cùng anh, tôi biết rằng có điều gì đó sai sai! Anh đã giết chết chú tôi, em tôi, phá hỏng nhà cửa của tôi, làm tổn thương bao nhiêu người, anh nghĩ tôi không biết như thế nào? Vợ của một thằng cún! (...) Tôi thách anh phá vỡ quân du kích, tôi thách tên Tây thứ nhất đó. Nó không biết nhục như một con chó sao?... Các đồng chí đâu rồi? Bắt nó đi! Nó đây, đừng tha thứ cho nó.”