Danh hiệu Quận công (chữ Hán: 郡公) là một cấp bậc tước hiệu trong thời phong kiến, được vua trao cho các công thần hoặc người thân, đứng giữa tước Quốc công và Hầu. Tước hiệu này có nguồn gốc từ thời Tào Ngụy trong lịch sử Trung Quốc.
Những thông tin liên quan
Trung Hoa
Danh hiệu Quận công bắt đầu từ thời Tào Ngụy, Tây Tấn và Nam-Bắc triều, là cấp tước cao nhất dành cho người ngoài họ, chủ yếu cấp cho quyền thần hoặc ngoại thích. Tước này bao gồm phong quốc (đặt quận làm đất phong), thực ấp và có thể truyền lại qua các thế hệ, với diện tích thực ấp từ hàng ngàn đến hàng vạn hộ, quyền lực địa phương tương đương với Thái thú.
Theo lịch sử, vào năm Hàm Hi nguyên niên (264), dưới sự chủ trì của Tấn vương Tư Mã Chiêu, đã thiết lập [Ngũ đẳng tước; 五等爵], bao gồm 10 cấp bậc:
- Quận công (郡公);
- Huyện công (縣公);
- Đại quốc Hầu (大國侯);
- Thứ quốc Hầu (次國侯);
- Đại quốc Bá (大國伯);
- Thứ quốc Bá (次國伯);
- Đại quốc Tử (大國子);
- Thứ quốc Tử (次國子);
- Đại quốc Nam (大國男);
- Thứ quốc Nam (次國男);
Trong thời Ngụy-Tấn, Quận công xếp vào hàng Nhất phẩm, với thực ấp 3.000 hộ và được cấp Cổn miện có 7 lưu, thể hiện sự tôn quý. Từ Bắc Chu đến triều Đường, Quận công có vị trí cao và sau đó còn thêm tước Quốc công dành cho các đại công thần. Trong khi Quốc công chỉ dành cho những nhân vật nổi bật, thì Quận công là tước hiệu phổ biến nhất dành cho công thần, với Quốc công là tước cao nhất mà một thần tử bình thường có thể đạt được.
Tuy nhiên, dần dần tước Quận công trở thành danh hiệu vinh dự, không còn thực ấp nữa. Các triều Minh và Thanh đã bãi bỏ tước Quận công.
Việt Nam
Theo quy định thời Hồng Đức, Quận công trong văn ban tương đương với chánh nhất phẩm, và trong võ ban cũng tương tự. Quy định cụ thể như sau: ['Mỗi phẩm chia thành hai bậc: chánh và tòng. Để xác định vị trí của hệ thống tước hiệu, phải căn cứ vào đơn vị tư. Người có nhiều tư thì có tước cao hơn. Tư là đơn vị của hàng tòng cửu phẩm. Cửu phẩm có 1 tư, chánh cửu phẩm có 2 tư. Hàng tòng bát phẩm có 3 tư, chánh bát phẩm có 4 tư. Tước cao nhất là chánh nhất phẩm có 18 tư. Hệ thống cửu phẩm áp dụng cho quan chức nhỏ và thường dân']. Có 6 tước được sắp xếp từ thấp đến cao: Nam tước, Tử tước, Bá tước, Hầu tước, Quận công và Quốc công. Những người được phong tước sẽ được thêm một tư. Ví dụ, Nam tước có 19 tư và Quốc công có 24 tư. Theo bảng phẩm trật dưới triều Lê Thánh Tông, tước Quận công có 23 tư.
Tước Quận công được ban cho những người thuộc hoàng tộc và những người có công lớn với đất nước. Những người không có công lao lớn hoặc danh tiếng thì không được phong tước này. Dưới triều Lê sơ, nhiều công thần nổi bật từ thời kháng chiến chống quân Minh, kể cả Nguyễn Trãi, cũng chưa từng được phong Quận công. Thay vào đó, họ thường chỉ được phong tước Công dưới dạng truy tặng sau khi qua đời nhiều năm hoặc thậm chí hàng trăm năm. Trong thời Lê-Trịnh, với thể chế lưỡng đầu và quyền lực thực tế thuộc về các chúa Trịnh, rất ít người ngoài hoàng tộc hai họ Lê và Trịnh được phong tước Quốc công trong đời. Ngay cả những người có công lao và quyền lực lớn như Nguyễn Hữu Chỉnh thường chỉ được phong Quận công khi còn sống.
Đến thời nhà Nguyễn, tước Quận công là bậc thứ 4 trong hệ thống tôn tước, hiếm khi được phong cho người còn sống. Tước này lấy tên Huyện làm danh hiệu và không kèm theo thực ấp. Tước Quận công tương đương với chánh nhị phẩm, có phủ đệ riêng với 1 Thư lại và 5 nhân viên phục vụ. Đây là tước vị thấp nhất mà một hoàng tử có thể được phong khi còn sống. Quận công là tước vị danh dự cao nhất mà một công thần có thể nhận được, thường chỉ được truy tặng sau khi qua đời. Một số ngoại lệ hiếm hoi như Hoàng Cao Khải được phong tước Duyên Mậu Quận công, Nguyễn Thân được phong Diên Lộc Quận công, Nguyễn Hữu Độ được phong Vĩnh Lai Quận công, và Nguyễn Xí được phong Sái Quận Công...
Nguyên tắc đặt tên
Theo chỉ dụ của Lê Thánh Tông vào đầu năm Hồng Đức (1471), tên tước Quận công được đặt dựa trên địa danh của tỉnh, phủ, huyện, xã và thêm tên tước vào, nhằm thể hiện quyền lực của người đó tại khu vực đó. Quận công và Quốc công thường chỉ sử dụng một chữ (thường là chữ đầu tiên) của địa danh phong làm hiệu, ví dụ như: Minh Quận công Mạc Đăng Dung, Thọ Quận công Nhữ Đình Toản, Thuật Quận công Nguyễn Khiêm Ích, Mai Quận công Phùng Khắc Khoan, Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc, Huy Quận công Hoàng Đình Bảo, Sái Quận Công Nguyễn Xí,... Một số người khác lại sử dụng tên hiệu hoặc biểu tự rồi thêm tước, như cụ nội của Vi Văn Định là Vi Kim Thăng, với biểu tự Đình Mật, được Lê Thái Tổ phong chức Trụ quốc và tước Thảo lộ tướng quân tả đô đốc, được gọi là Mật Quận công.
Dưới triều Nguyễn, nguyên tắc phong tước được quy định như sau: ['Người được phong tước có đất làm thái ấp, Thân Vương thì dùng tên tỉnh; Quận vương, Thân công, Quốc công, Quận công thì dùng tên phủ; Huyện công, huyện hầu thì dùng tên huyện; Hương công, Hương hầu, Đình hầu thì dùng tên xã. Các cấp dưới được gọi theo chức vụ']. Những người trong hoàng tộc khi được phong tước còn được cấp ấn, sách và hưởng bổng lộc từ triều đình. Tước Quận công hưởng 700 quan tiền và 500 phương gạo.
Vua Minh Mạng, người có số lượng hoàng tử nhiều nhất với tổng cộng 78 người, đã đặt tên tước cho từng hoàng tử gắn với địa danh phủ. Ví dụ, Phú Bình Quận vương Miên Áo từng bị giáng xuống làm [Phú Bình Quận công; 富平郡公]; hay Tuần Quốc công Miên Trữ được phong là [Tùng Hóa Quận công; 從化郡公].
- Quý tộc nhà Nguyễn
- Vương (tước hiệu)
- Hoàng đế
- Phong tước
- Công tước
- Quốc công
Chú thích
Tài liệu tham khảo
- Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn.
- Lịch triều hiến chương loại chí tập 1, Quan chức chí, tác giả Phan Huy Chú
- Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ thực lục 12: thời Hậu Lê (1460 - 1472)