Danh mục ngôn ngữ là thuật ngữ trong ngôn ngữ học dùng để chỉ nhóm các ngôn ngữ chia sẻ những đặc điểm hình thái nhất định.
Danh mục học là lĩnh vực nghiên cứu về các loại hình ngôn ngữ, chia thành hai xu hướng chính sau đây:
- Danh mục học tổng hợp phân tích và phân loại các ngôn ngữ của nhân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, với khái niệm loại hình bao gồm một tập hợp các đặc điểm hình thái, ngữ pháp và ngữ âm.
- Danh mục học đặc trưng là phương pháp nghiên cứu mới, phân loại ngôn ngữ dựa trên các đặc điểm cụ thể như hình thái, ngữ âm, ngữ pháp, tạo thành những đặc trưng riêng biệt.
Phân loại các ngôn ngữ theo danh mục không dựa trên nguồn gốc lịch sử mà dựa vào cấu trúc nội tại của chúng.
Các tiêu chí phân loại
Tiêu chí phân loại các loại hình ngôn ngữ bao gồm những đặc điểm cấu trúc và hình thái giúp phân biệt và phân loại các ngôn ngữ.
Ngôn ngữ có nhiều đặc điểm khác nhau, bao gồm:
- Đặc điểm phổ quát (hay còn gọi là đặc điểm chung) xuất hiện ở tất cả các ngôn ngữ. Ví dụ: Sự phân biệt giữa nguyên âm và phụ âm.
- Đặc điểm riêng biệt: chỉ có mặt ở một ngôn ngữ cụ thể. Ví dụ: Tiếng Việt có 6 thanh điệu.
- Đặc điểm loại hình: hiện diện ở một số ngôn ngữ nhưng không có ở những ngôn ngữ khác. Ví dụ: Sự có mặt hay không của thanh điệu.
Sự biến đổi hình thái hoặc không biến đổi hình thái.
Đây là những đặc điểm mà các nhà nghiên cứu loại hình dùng để phân loại các loại hình ngôn ngữ.
Các tiêu chí phân loại (đặc điểm hình thái):
- Hình thái học: cách cấu tạo từ ngữ (qua phụ tố, căn tố, ghép từ), phương pháp thể hiện các phạm trù ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp.
- Cú pháp học: cách đánh dấu các thành phần câu, chức năng cú pháp, trật tự từ và cấu trúc cú pháp.
- Ngữ âm học: các yếu tố như thanh điệu, phụ âm và nguyên âm.
Các loại hình ngôn ngữ
Dựa trên các thuộc tính loại hình, các ngôn ngữ trên toàn thế giới được phân chia chủ yếu thành hai nhóm lớn như sau:
Ngôn ngữ đơn lập
Các ngôn ngữ như tiếng Trung, tiếng Việt, tiếng Thái và các ngôn ngữ thuộc nhóm Môn-Khmer là ví dụ điển hình của loại hình ngôn ngữ đơn lập. Những đặc điểm chính của loại hình này bao gồm:
- Không có sự biến đổi hình thái của từ. Hình thái từ không phản ánh quan hệ giữa các từ trong câu.
- Hư từ và vị trí từ đóng vai trò quan trọng trong việc làm rõ quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp của từ và câu.
Ví dụ: Thêm hư từ 'sẽ' hoặc 'đang' trước từ 'ăn' có thể thay đổi ý nghĩa thời gian của hành động (đang ăn/sẽ ăn). Hoặc thay đổi vị trí các từ cũng có thể làm thay đổi ý nghĩa ngữ pháp (ví dụ: 'chân bàn' và 'bàn chân'). - Các từ thường là đơn tiết; hạt nhân cơ bản của từ vựng là các từ đơn tiết. Do đó, sự phân biệt giữa âm tiết, hình vị và từ không rõ ràng (ví dụ: trong tiếng Việt, 'nhà' vừa là một hình vị, vừa là một từ). Vì vậy, từ ghép và cụm từ cũng khó phân biệt.
- Khái niệm 'các từ loại' không rõ ràng. Ví dụ, 'cưa' có thể vừa là dụng cụ để xẻ gỗ, vừa chỉ hành động cắt xẻ gỗ. Nguyên nhân là do cấu trúc của các từ có ý nghĩa đối tượng, tính chất, hành động không phân biệt rõ ràng.
Ngôn ngữ không đơn lập
Được phân chia thành ba loại hình nhỏ sau đây:
Ngôn ngữ hòa kết (chuyển dạng)
Tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp...
- Từ có sự biến đổi hình thái để thể hiện các quan hệ ngữ pháp, bao gồm cả sự thay đổi nguyên âm và phụ âm trong hình vị. Những biến đổi này được gọi là 'biến tố bên trong' vì chúng mang ý nghĩa ngữ pháp.
- Các hình vị trong từ ngữ ở ngôn ngữ hòa kết liên kết rất chặt chẽ, không thể đứng riêng lẻ. Ví dụ, trong tiếng Nga, chính tố 'рук' không thể xuất hiện độc lập mà phải kết hợp với phụ tố như '-е'' hoặc '-ам' ('руке', 'рукам').
- Mỗi phụ tố có thể mang nhiều ý nghĩa đồng thời, và ngược lại, một ý nghĩa có thể được thể hiện qua nhiều phụ tố. Ví dụ, trong tiếng Đức, để thể hiện ý nghĩa đối lập, có các phụ tố như 'a-', 'un-' hoặc 'im-' ('typisch' = điển hình và 'atypisch', 'schön' = đẹp và 'unschön',...).
- Đặc trưng của ngôn ngữ hòa kết là sự kết hợp chặt chẽ giữa ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp trong từ, khó có thể tách biệt. Ví dụ trong tiếng Anh, từ 'feet' (số nhiều của 'foot' = bàn chân) có cả hai loại ý nghĩa này hòa quyện trong một từ, vì vậy ngôn ngữ này được gọi là 'hòa kết'.
Ngôn ngữ chắp dính
Tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ...
- Sự khác biệt chính giữa ngôn ngữ chắp dính và ngôn ngữ hòa kết là mức độ liên kết giữa các hình vị. Trong ngôn ngữ chắp dính, các hình vị có sự độc lập cao hơn và liên kết không chặt chẽ. Ví dụ trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ:
- adam (người đàn ông) - adamlar (những người đàn ông)
- kadin (người phụ nữ) - kadinlar (những người phụ nữ)
- Các phụ tố được dùng rộng rãi để tạo từ và thể hiện các quan hệ ngữ pháp khác nhau. Mỗi phụ tố chỉ thể hiện một ý nghĩa ngữ pháp, do đó từ có thể rất dài.
Ngôn ngữ hỗn nhập (đa tổng hợp)
Các ngôn ngữ Chu-cốt, Cam-chat.
- Điểm đặc trưng của ngôn ngữ này là một từ có thể thay thế một câu trong ngôn ngữ khác. Ví dụ, trong tiếng Tschinuk của Bắc Mỹ, từ 'i-n-i-a-l-u-d-am' tương đương với câu 'tôi đã đến để đưa cô cái này' trong tiếng Việt. Các thành phần câu được thể hiện bằng các bộ phận trong từ. Vì thế, ngôn ngữ này được gọi là 'hỗn nhập' hay 'đa tổng hợp'.
- Mặc dù chủ yếu là hỗn nhập, vẫn tồn tại các từ đơn lẻ và tách biệt.
- Các hình vị trong ngôn ngữ hỗn nhập vừa liên kết theo nguyên tắc kết dính như ngôn ngữ hòa kết hoặc chắp dính, vừa có thể thay đổi nội bộ, mang những đặc điểm của cả hai loại hình ngôn ngữ này.
- N.V. Xtankêvich, Các loại hình ngôn ngữ, Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội, 1982, 274 trang
- http://ngonngu.net/
- Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Giáo dục.