1. Bài phân tích tác phẩm 'Đây thôn Vĩ Dạ' số 4
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên, ước hẹn hò.”
Khi nhắc đến những vần thơ này, hình ảnh “bán trăng” của Hàn Mạc Tử không còn xa lạ với người đọc. Một hình ảnh nghịch lý, bởi trăng là của chung, sao lại “bán”? Tuy vậy, hình ảnh này phản ánh tâm hồn thủy chung, son sắt của nhà thơ. Sự thủy chung ấy tiếp tục hiện diện trong “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm không chỉ là bức tranh thủy mặc về vùng cố đô Huế mà còn là nỗi lòng của Hàn Mạc Tử gửi gắm đến phương xa.
Bài thơ mở đầu không phải bằng lời chào, mà là lời trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Giọng điệu hỏi han và trách móc cho thấy sự tiếc nuối khi nhân vật trữ tình không thể tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ.
Những sự tiếc nuối ấy hoàn toàn có cơ sở bởi những vẻ đẹp sau đây, dù có bỏ lỡ chuyến về, cũng khiến người ta không khỏi luyến tiếc.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Ba câu thơ này khắc họa vẻ đẹp trong sáng của thôn Vĩ. Ở câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng biện pháp điệp từ “nắng” để chỉ sự khác biệt giữa vị trí và tính chất của ánh sáng. Thôn Vĩ hiện lên với vẻ đẹp của vườn tược, vùng nông thôn ngoại ô thành phố.
Hàng cau là hình ảnh điển hình của vườn tược Thừa Thiên, nhưng tác giả đã khéo léo lồng vào hình ảnh “nắng mới” – ánh sáng buổi sáng, mở đầu cho một mùa xuân tươi trẻ. “Nắng mới” tạo cảm giác sức sống tràn đầy, làm nổi bật sự sống căng tràn của miền quê thôn Vĩ.
Từ ánh nhìn “nắng hàng cau”, tác giả chuyển sang quan sát “vườn thôn Vĩ”. Nghệ thuật tu từ “vườn ai” gợi sự tò mò về chủ nhân khu vườn, nhưng điểm quan trọng là sự trong xanh của nó. Tác giả so sánh vườn với ngọc để diễn tả sự tinh khiết của khu vườn, mang lại cảm giác nhẹ nhàng, thư giãn cho người đọc. Từ “mướt” gợi sự trơn tru, mịn màng cho khu vườn.
Điều này làm tăng thêm sự thanh tao của vườn tược, khiến người đọc muốn chiêm ngưỡng một lần. Nếu như hai câu thơ đầu giúp ta có cái nhìn tổng quát về thiên nhiên xứ Huế, thì câu thơ thứ tư giới thiệu về con người nơi đây.
Hình ảnh “mặt chữ điền” gợi lên khuôn mặt phúc hậu, hiền từ của cô gái Huế, trong khi “lá trúc che ngang” biểu hiện sự e ấp, ngại ngùng. Khổ thơ đầu tiên cung cấp cái nhìn tổng quát về thôn Vĩ với vẻ đẹp tinh túy của cả thiên nhiên và con người.
Khổ thơ hai mở rộng không gian thôn Vĩ bằng hình ảnh từ trên cao:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hàn Mạc Tử mở rộng không gian bằng việc sử dụng biện pháp điệp cấu trúc và điệp từ. “Gió” và “mây” được nhấn mạnh sự chia lìa, không gắn bó. Cảnh vật chuyển từ tươi tắn sang sầu thảm với “dòng nước buồn thiu”, nhân hóa dòng nước với tâm trạng sầu thảm. “Hoa bắp lay” gợi sự đơn côi khi có gió đi qua, làm nổi bật sự buồn bã.
Hình ảnh “thuyền”, “bến” và “sông Trăng” thể hiện ánh trăng chiếu sáng trên sông. Câu hỏi cuối khổ thơ bộc lộ nỗi lo lắng của nhà thơ về căn bệnh quái ác và thời gian có đủ để chờ vầng trăng. Câu thơ khiến khổ thơ trở nên u sầu, bộc lộ nỗi buồn về số phận ngắn ngủi và ước mơ dở dang.
Khổ thơ ba tiếp tục sống trong mộng tưởng:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Tác giả sống trong mộng tưởng với hình ảnh “khách đường xa” nhấn mạnh nỗi nhớ thương dành cho người yêu. Theo tư liệu, Hàn Mạc Tử có cảm mến cô gái Huế tên Hoàng Thị Kim Cúc. Khi trở lại Quy Nhơn, nhận được bức ảnh của cô Cúc trong tà áo dài trắng, nhà thơ cảm thấy vui vẻ. Hình ảnh “áo em trắng quá” có thể xuất phát từ bức ảnh này, nhưng màu trắng lại “nhìn không ra” có thể do bệnh tật làm giảm thị lực.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” miêu tả không gian xứ Huế với sương và khói, làm mờ mọi thứ, kể cả “nhân ảnh”. Cảm giác thực và ảo hòa lẫn, tạo nên một thế giới thần bí.
Câu thơ cuối “Ai biết tình ai có đậm đà?” hỏi về tình cảm còn vững bầu hay không, gợi sự băn khoăn về lòng thủy chung của người yêu. Tình cảm ấy vẫn là một ẩn số, gói gọn trong câu hỏi không nguôi của tác giả và người đọc.
Bằng các biện pháp nghệ thuật như điệp từ, điệp cấu trúc và câu hỏi tu từ, Hàn Mạc Tử đã vẽ nên bức tranh chốn Thừa Thiên một cách sinh động, gợi cảm. “Đây thôn Vĩ Dạ” đưa độc giả đến với không gian thơ mộng của Huế và giãi bày tình cảm son sắt của tác giả đối với người con gái Huế mà mình thầm yêu. Tình cảm ấy bồn chồn, lo lắng về sự giữ gìn nỗi niềm xưa, trở thành câu hỏi không nguôi trong lòng tác giả và người đọc.
2. Phân tích tác phẩm 'Đây thôn Vĩ Dạ' - Bài số 5
Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một nhận định rất sâu sắc về phong trào thơ Mới như sau: “Đời chúng ta nằm trong vòng một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Nếu như Xuân Diệu luôn đắm say với những cảm xúc thiết tha, rạo rực băn khoăn thì nhà thơ Hàn Mặc Tử lại gắn liền với sự kỳ dị, điên cuồng và trong thế giới kỳ dị điên cuồng đó người ta vẫn tìm thấy một tình yêu đến đau đớn, khắc khoải hướng về cuộc đời trần thế, dẫu nó đã để lại cho ông nhiều bất hạnh, bi ai. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất và hay nhất của phong trào thơ Mới cũng như trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 trong một gia đình công giáo nghèo tại Quảng Bình, nổi tiếng là thần đồng thơ từ những năm 15, 16 tuổi. Phong cách thơ của ông có sự đan xen kết hợp giữa những hình ảnh thân thuộc, trong trẻo, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những thứ rùng rợn, ma quái, cuồng loạn đã tạo nên một diện mạo thơ vô cùng kỳ dị và phức tạp.
Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 in trong tập thơ Điên, sau đổi tên thành Đau thương, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với cô gái gốc Huế là Hoàng Thị Kim Cúc dường như đã trở nên vô vọng khi hai người vừa cách biệt cả địa vị lẫn địa lý.
Trong sự hẫng hụt đến tột cùng ấy Hàn Mặc Tử đã viết rất nhiều thơ về sự kiện này, trong đó khác biệt có bài Đây thôn Vĩ Dạ được viết trong lúc bệnh tình của Hàn Mạc Tử trở nặng nhưng lại nhận được tấm bưu thiếp của người xưa, điều ấy đã khơi gợi lên trong lòng ông sự vui sướng, niềm ham sống vô cùng, tất cả đều được thể hiện một cách trọn vẹn trong bài thơ này.
Không chỉ vậy Đây thôn Vĩ Dạ còn là thông điệp mà Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm cho cả cuộc đời này, là nỗi niềm khát khao, tha thiết với cuộc sống trần thế một cách mãnh liệt của nhà thơ.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Ở khổ thơ đầu của bài thơ phong cảnh thiên nhiên của thôn Vĩ Dạ, một góc của xứ Huế mộng mơ đã được mở ra với dáng vẻ trong sáng thanh khiết dưới cái nắng mai dịu dàng. Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” mang một âm sắc đặc biệt bởi đã số chữ đều mang thanh bằng đã đem đến một cảm giác rất Huế, rất ngọt ngào êm ái tựa như bức rèm mỏng đã mở ra và khơi gợi nên mạch cảm xúc mộng và thơ cho toàn bộ tác phẩm.
Câu hỏi tu từ ấy cũng khiến ta có một mối băn khoăn không dứt về chủ thể “anh”, đó là câu hỏi nhớ mong của một cô gái xứ Huế, mang ý trách móc, hờn dỗi một cách duyên dáng chàng trai sao không chịu tỏ lòng mình, rồi cũng có ý nhắc nhở, mời mọc người bạn cũ về thăm Huế.
Hoặc đó cũng có thể là tiếng lòng của Hàn Mặc Tử, vừa chất vấn, cũng vừa nhắc nhở bản thân sao “không về chơi thôn Vĩ” và trong cái “không về” ấy là cả một dự cảm đớn đau về cuộc đời bất hạnh, trước đó anh đã không về được thì có lẽ sau này cũng không thể về được nữa, Hàn Mặc Tử đã chẳng còn nhiều thời gian, đành lỡ hẹn với Huế và người xưa.
Có thể nhận ra được rằng về Huế có lẽ là nỗi trăn trở, nuối tiếc vô cùng của thi sĩ, đó không chỉ là nơi ông từng gắn bó một thời gian dài mà ở tại nơi ấy còn có người con gái mà ông yêu thương tha thiết, chẳng biết nàng có đợi không, nhưng ông vẫn chỉ hướng về người. Sau câu hỏi tu từ mang đậm nỗi khát khao cháy bỏng được về lại Huế một lần, thì Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ rất đẹp để tái hiện lại cảnh thôn Vĩ Dạ đầy chất thơ và mộng ảo.
Đó là cảnh thôn quê trước buổi bình minh với những nét vẽ tươi tắn và đặc sắc, đó là vẻ đẹp của nắng với hai từ “nắng” lặp lại trong một câu thơ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Có thể nói rằng ngòi bút của Hàn Mặc Tử là một ngòi bút tài hoa trác tuyệt, người sẵn sàng phá vỡ cái quy tắc lặp từ tối kỵ của thi ca để tạo nên một bức tranh với cái nền vàng nhàn nhạt, ánh nắng nhu hòa tràn ngập khắp không gian, khiến vần thơ cũng như được thổi bừng sức sống ấm áp và tươi trẻ.
Và cái nắng ở đây cũng rất riêng ấy là “nắng hàng cau”, phải nói rằng cau là biểu tượng của xứ Huế, loài cây có lợi thế về chiều cao, lúc nào cũng vươn lên thẳng tắp và đón nhận một cách trọn vẹn nắng trời, toàn cây lấp lánh những ánh sáng xanh vàng, khiến hồn người trở nên yêu đời hơn cả.
Rồi “nắng mới lên” lại cũng là những cảm tưởng mới về hình ảnh nắng của thôn Vĩ đó không phải là cái nắng gay gắt đổ lửa giữa trưa hè mà đó là cái nắng trong trẻo, thanh khiết, dịu dàng hoàn toàn tương khớp với “nắng hàng cau”, cũng mang một sức sống mới, tựa như tâm hồn của thi nhân lúc nhận bưu thiếp của người cũ, có lẽ phải nói rằng đó là biểu tượng của sự khởi đầu.
Dưới vẻ đẹp của nắng vàng bao phủ là vẻ đẹp của khu vườn xứ Huế với một màu xanh rất “mướt” đầy sức gợi với màu “xanh như ngọc”. Chỉ một từ “mướt” thôi nhưng đã gợi ra cái sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn thôn Vĩ, rồi cũng gợi ra cảnh một khu vườn mới tắm sương đêm đang còn đọng nước, từng giọt sương trong trẻo đang lung linh dưới ánh mặt trời, phản chiếu lại những tia nắng mới khiến cho từng tán lá xanh phát sáng, khơi gợi liên tưởng về một màu xanh ngọc ngà, trong trẻo, tươi mát.
Câu thơ lại thêm một từ “ai” phiếm chỉ khiến cho toàn cảnh bức tranh trở nên có hồn và tình tứ hơn cả, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp của người thôn Vĩ trong câu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hàn Mặc Tử đã dùng bút pháp “thi trung hữu họa” của văn học trung đại với những nét vẽ vừa thanh của lá trúc lòa xòa làm nổi bật lên cái nét đậm của một khuôn mặt chữ điền duyên dáng, phúc hậu của người con gái. Đó là gương mặt mang những nét đẹp phẩm chất mà người ta vẫn mong cầu ở người con gái, nhân hậu, thủy chung, mang tướng hình có phúc phần về sau.
Hết tả cảnh ngày tươi tắn, trong trẻo, Hàn Mặc Tử lại đưa người đọc về với cảnh đêm của xứ Huế, có nước có mây, có thuyền và đặc biệt là có cả ánh trăng, thi liệu quen thuộc trong thơ của tác giả. Có thể thấy rằng giữa hai khổ thơ có sự chuyển đổi cảm xúc rất rõ rệt từ tình yêu đời, lòng vui sống tựa như nắng mai thì Hàn Mặc Tử lại trở về với cảm giác hoang mang, lo lắng với những cảm giác bất an, buồn rầu tựa như cảnh sông nước mênh mông lạnh lẽo.
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu thơ đầu tả thực cảnh mây trời, sông nước xứ Huế với lối ngắt nhịp 4/3 tựa như bẻ đôi câu thơ làm hai nửa, tạo cảm giác hụt hẫng khó tả, điệp từ “mây”, “gió” lại mang đến sự đóng khung trong việc tả cảnh. Như vậy dường như mây và gió chẳng hề liên quan gì đến nhau, đường ai nấy đi trong khi từ xưa tới nay mây đi theo gió đã là chuyện kinh thiên định nghĩa, điều này bộc lộ rõ nội tâm và dự cảm không lành của Hàn Mặc Tử trước sự chia ly, cách biệt ghê gớm, đó là sinh tử, chứ chẳng còn là khoảng cách hay tâm hồn nữa.
Từ điệu chảy lững lờ, ngập ngừng “buồn thiu” của dòng sông Hương nổi tiếng đi vào thơ đã trở thành hình ảnh nhân hóa phản chiếu nỗi lòng sầu muộn của thi nhân trước số phận. Mà có lẽ rằng “hoa bắp lay” chính là cuộc đời của tác giả, nhạt nhòa, buồn tẻ và lặng lẽ chán chường.
Hai câu thơ tả cảnh sông nước dường như đã xóa tan đi cái mộng cảnh biêng biếc, tươi trẻ tràn ngập sức sống và hơi ấm tình người trong khổ thơ đầu, là sự bừng tỉnh của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của bản thân, trước con đường tăm tối vô hương, vô sắc hiện hiện tại.
Rồi dường như không chịu đựng được cái đau đớn của thực cảnh Hàn Mặc Tử lại tiếp tục chìm vào cõi mộng với ánh trăng vàng, vốn là tri kỷ tri âm suốt đời của tác giả ở chốn cô đơn này. Trăng xuất hiện rất diễm lệ là cả một dòng sông dát ánh trăng vàng, cả một con thuyền chuyên chở trăng, trăng đã đem đến cho tác giả một hiện thân về trần thế tươi đẹp, về cuộc đời mà tác khao khát được chiếm lĩnh hòa nhập.
Câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?” ẩn hiện sự lo lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân còn kịp tận hưởng ánh trăng sáng, hay chính là cuộc đời vốn còn nhiều nuối tiếc.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Khao khát về cuộc sống trần thế của tác giả càng trở nên nổi bật trong khổ thơ cuối khi đi vào cụ thể ấy là khao khát về hơi ấm tình người, Hàn Mặc Tử muốn thoát khỏi cái cảm giác cô độc, lạnh lẽo muốn tận hưởng cuộc sống bằng tình yêu. Cõi đời đã được chỉ rõ bằng hình bóng của giai nhân, là người trong mộng tưởng của tác giả thế nhưng “Mơ khách đường xa, khách đường xa” ý thơ lặp lại đã diễn tả một cảm giác xa lạ, hình bóng người con gái ấy đang dần khuất ra khỏi tầm với của tác giả, cứ xa mãi mà dần vụt mất đến độ đôi mắt u sầu của người quá thi sĩ cũng phải xót xa “Áo em trắng quá nhìn không ra”.
Có lẽ đời này đã định hai người không chung một điểm cuối, chỉ có thể bất lực nhìn cái cõi trần thế, cái bóng hình giai nhân lần lượt trở nên vô tung vô ảnh, còn thi nhân thì chết lặng trong nỗi sầu muộn cô đơn. Và khi thi nhân không thể hòa nhập vào với thế giới mà mình khao khát ông lại phải quay về với thế giới của mình, một thế giới mờ mịt “mờ nhân ảnh” thiếu vắng đi tình người, bị cách li, phải đối mặt với cái chết cận kề, sắp xa rời đi cái trần thế mà ông vẫn khao khát nắm giữ, đó là nỗi đau đớn không tưởng.
Đặc biệt tâm hồn ấy của nhà thơ còn mãi luẩn quẩn trong một câu hỏi băn khoăn, băn khoăn về tình cảm của người xưa, liệu rằng cô gái ấy có từng một lần có tình cảm với ông, hay cô gái ấy có biết đến mối duyên thầm lặng mà ông chẳng dám ngỏ đã bao năm. Rõ ràng rằng ta có thể cảm nhận được niềm hy vọng mong manh về mối duyên tình đã lỡ dở, bởi vì một tấm bưu thiếp mà lại dấy lên trong lòng thi nhân nhiều cảm xúc, thế nhưng kết lại vẫn là nỗi cô đơn, trống vắng và đau khổ của một con người còn nhiều điều tiếc nuối với thế gian.
Có thể trích đôi lời Hoài Thanh về thơ Điên của Hàn Mặc Tử để nói về Đây thôn Vĩ Dạ, đó là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì nhưng thường là một thứ buồn, dầu có thấm thía vẫn dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế.
Lời thơ như dính máu”. Đọc thơ ta yêu cái khát khao được sống được yêu, yêu cái ánh mắt nhìn đời đầy tươi đẹp thế nhưng cũng xót xa cho số phận của người thi sĩ, một cuộc đời đớn đau khiến Hàn Mặc Tử không thể mộng ước lâu được, nên cuối cùng vẫn phải quay về cái chốn cô đơn lạnh lẽo, không người yêu, không hơi ấm tình người, đợi chờ cái chết trong đau khổ và tuyệt vọng.
3. Phân tích bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' số 6
Bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Đây là những vần thơ bay bổng, ngọt ngào. Mặc dù khi viết bài thơ, thi sĩ đã bị bệnh phong, nhưng nỗi nhớ quê Vĩ Dạ vẫn luôn day dứt trong tâm hồn ông, nơi mà ông đã có nhiều kỷ niệm đẹp.
Huế, quê hương thứ hai của Hàn Mặc Tử sau khi ông rời Sài Gòn để viết báo, hiện lên trong tác phẩm với những cảnh đẹp lãng mạn và con người hiền hòa. Mảnh đất Huế, nơi trồng nhiều cây cau, được nhắc đến trong thơ của ông:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Lời trách móc nhẹ nhàng, nhưng lại đầy duyên dáng, khiến người đọc cảm nhận được nỗi lòng của cô gái đối với chàng trai. Cô gái muốn chàng trai trở về thôn Vĩ để chiêm ngưỡng hàng cau mới mọc và những tia nắng rót vào.
Các cây cau cao, với lá xanh mướt, còn được phủ thêm ánh nắng vàng rực, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Tiếp theo, ta được chiêm ngưỡng một cảnh sắc hoàn hảo qua hai câu thơ:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Những vườn cây xinh xắn ở Huế, với cỏ và cây cau xanh mướt, phản ánh sự gần gũi và bình dị của cuộc sống nơi đây. Cảnh vật trong thơ thể hiện sự tươi đẹp và thanh bình mà không cần đến sự hiện đại, chỉ cần có thiên nhiên trữ tình.
Đường phố Huế, với sự đông đúc nhưng không ồn ào, miêu tả vẻ đẹp của cây cỏ xanh mướt với những giọt sương sớm và tia nắng chiếu vào, khiến cảnh vật thêm phần lôi cuốn. Màu xanh của cỏ cây được so sánh với màu xanh của ngọc, thể hiện sự tinh tế của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Cảnh vật và con người Huế hiện lên qua câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, thể hiện sự hiền lành và phúc hậu. Đến khổ thơ thứ hai, nhịp sống chậm rãi của Huế được miêu tả rõ nét:
'Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng nước chảy chậm và hoa bắp lay động nhẹ nhàng, khiến ta liên tưởng đến sự ly biệt, giống như mối tình giữa Hàn Mặc Tử và Hoàng Thị Kim Cúc. Câu thơ về thuyền và trăng thể hiện nỗi nhớ của tác giả:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?”
Khổ thơ cuối bộc lộ tình cảm của tác giả dành cho cô gái xứ Huế qua bốn câu thơ:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Tác giả mơ về một khách lạ, là cô gái ông yêu, nhưng áo trắng của cô khiến ông không nhận ra. Sương và khói làm mờ hình ảnh của cô gái, tạo nên cảm giác xa cách và nỗi buồn về tình yêu đơn phương không được đáp trả.
4. Phân tích bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' số 7
Bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' là tác phẩm chứa đựng toàn bộ tâm tư của Hàn Mặc Tử, thể hiện sự yêu mến và nỗi nhớ quê hương Huế, nơi mà tác giả đã gắn bó một thời gian dài.
Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) sinh ra tại Bình Định, nhưng đã có thời gian học tập và làm việc ở Huế. Đối với ông, Huế không chỉ là quê hương thứ hai mà còn là nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm sâu sắc. Bài thơ giúp chúng ta hình dung rõ nét cảnh vật và con người xứ Huế.
Phần mở đầu bài thơ mở ra bằng lời mời đầy thiết tha của một cô gái đối với chàng trai: “Sao anh không về thăm thôn Vĩ?” Thôn Vĩ là một làng quê duyên dáng nằm gần con sông Huế, nơi mà tác giả miêu tả như một bức tranh yên bình.
Nơi đây không chỉ là nơi tác giả đã học tập và làm việc, mà còn là một địa điểm với cảnh quan đẹp đẽ và huyền bí mà chàng trai đã lâu không thăm lại. Cảnh vật được miêu tả thật tỉ mỉ với những hình ảnh đơn sơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Cảnh vật ở đây chủ yếu là màu xanh và vàng của nắng. Những hàng cau xanh mướt và hoa cau tỏa hương thơm là đặc trưng không thể thiếu ở Huế. Nếu bạn từng đến Huế, bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp mê hoặc của những vườn cau nơi đây.
Huế còn nổi tiếng với những vườn cỏ xanh mướt, được điểm xuyết bởi ánh nắng vàng, tạo nên một không gian thơ mộng. Tác giả miêu tả vườn nhà mình là “mướt quá”, thể hiện sự tươi tốt của cảnh vật. Những giọt sương long lanh trên cây cỏ dưới ánh nắng được ví như những viên ngọc quý.
Phép so sánh làm nổi bật bức tranh phong cảnh muôn màu mà tác giả tạo ra. Tuy nhiên, sang khổ thơ thứ hai, giọng thơ chuyển sang tông trầm và buồn:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?’’
Gió và mây gợi nhắc về tình yêu đôi lứa, nhưng ở đây lại thể hiện sự chia ly và xa cách. Đây có thể là nỗi niềm của tác giả về mối quan hệ với cô gái Hoàng Kim Cúc, người mà ông đã xa cách khi vào Sài Gòn viết báo còn cô Cúc ở lại phụ cha.
Câu thơ thứ hai khắc họa nhịp sống chậm rãi và yên bình của Huế, với dòng nước buồn thiu và hoa bắp nhẹ nhàng lay động. Hình ảnh thuyền và ánh trăng trên sông gợi sự lãng mạn và tình yêu, với câu hỏi đầy ẩn ý về việc tình yêu có thể hồi sinh hay không.
Khổ thơ cuối là những tâm sự sâu lắng của tác giả về người con gái:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Câu thơ mở đầu tạo ấn tượng với sự lặp lại “khách đường xa”, gợi lên sự xa cách. Áo trắng của cô gái làm tác giả không nhận ra vì sự tinh khôi và đẹp đẽ của nó. Sương khói làm mờ hình ảnh, khiến tác giả tự hỏi liệu tình cảm của cô có còn đậm đà như xưa? Câu thơ cuối là tiếng lòng sâu sắc của tác giả.
Bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' là một trong những tác phẩm xuất sắc của Hàn Mặc Tử, thể hiện sự tưởng nhớ về quê hương Huế và tình yêu chân thành dành cho một người con gái xứ Huế.
5. Bài viết phân tích tác phẩm 'Đây thôn Vĩ Dạ' số 8
Hàn Mặc Tử là hồn thơ đau thương nhưng là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”, “Chơi giữa mùa trăng”… Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ” được trích trong tập “Thơ điên”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
….
Ai biết tình ai có đậm đà”
“Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940. Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái xứ Huế, ông đã xúc động viết bài thơ này.
Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh thơ đẹp còn tình người thì tha thiết nhớ mong:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Có lẽ, với bất cứ ai khi đọc bài thơ này, cũng đều bị cuốn hút ngay từ câu thơ đầu với những băn khoăn, vừa như hờn dỗi, như trách yêu. Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng lại chan chứa yêu thương. Tại sao lâu rồi anh không về chơi thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng, có người con gái anh thương? Nhà thơ sử dụng từ “chơi” mà không sử dụng từ “thăm”.
Nếu sử dụng từ “thăm” thì cấu trúc câu thơ không thay đổi nhưng nó trở nên khách sáo, từ “chơi” gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, thân tình. Trong câu thơ, nhà thơ đã hé lộ cho người đọc tình cảm của mình đối với cô gái Huế, xem cô gái Huế là một người thân thương hay chính cô gái ấy xem nhà thơ như bạn tâm giao, tri kỷ.
Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: sao cảnh Huế đẹp vậy mà mình không trở về ? Đó là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy khao khát, hoài niệm. Vì không thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng. Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"
Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy “nắng hàng cau nắng mới lên”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3 gợi ra trong mắt người đọc một không gian tràn đầy ánh sáng. Cảnh hiện lên rõ nét sống động, đầu tiên là vẻ đẹp của “nắng hàng cau”. Cau là loài cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của ngày mới.
Không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta thấy đó là ánh nắng của buổi ban mai thật rực rỡ, trong sáng. Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh liệt đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm.
Ánh nắng mới mẻ, tinh khôi như làm sáng bừng lên không gian khoáng đạt, rộng lớn. Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hàng cau là hình ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân thôn Vĩ. Hình ảnh tưởng chừng như đơn sơ, bình dị ấy lại có sức gợi hình, gợi cảm lớn và có ý nghĩa sâu sắc trong trái tim nhà thơ.
Nhắc đến cau còn là nhắc đến loại cây rất thân thuộc với làng quê Việt Nam, nơi có phong tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Nguyễn Bính – một nhà thơ cảnh quê, hồn quê cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền phong cảnh có hình ảnh thân cau quen thuộc ấy:
“Nhà anh có một hàng cau
Nhà em có một giàn trầu”
Trong bài thơ “Hoa Lư” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết:
“Đường cỏ lơ mơ nắng
Mái tranh chìm chơi vơi
Vài tán cau mộc mạc
Thả hồn quê lên trời”
Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy nhựa sống “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả đúng như vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của hàng cây khiến cho người đọc cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn.
Tác giả dùng màu xanh như ngọc để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một màu sắc cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy.
“Vườn ai”? không xách định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cô gái Huế. “Mướt” là một tính từ khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi sự sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Xuân Diệu viết:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”
Thủ pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc”. Xanh ngọc tức là xanh trong, màu xanh đi liền với ánh sáng nhưng không chói chang mà lại rất dịu, người đọc có thể hình dung vẻ đẹp của viên ngọc đính giữa bầu trời xứ Huế. Câu thơ với “vườn ai mướt quá” như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cảm ơn chủ nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.
Và cảnh vật thôn Vĩ càng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện hình bóng con người “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc – một loài cây họ tre được trồng trước ngõ. Trong tâm tưởng thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc.
Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu. Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật đồng thời qua đó người đọc nhìn thấy không chỉ vẻ đẹp phúc hậu của người con gái Huế mà còn là vẻ đẹp của sự kín đáo, duyên dáng, e ấp rất thiếu nữ, rất Huế. Cũng viết về thôn Vĩ, nhà thơ Bích Khê viết:
“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say”
Viết về trúc, Hàn Mặc Tử không chỉ là “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” mà còn là:
“Thầm thỉ hỡi ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
Thiên nhiên và con người có sự gắn bó, hòa quyện hấp dẫn tạo xúc động mạnh trong lòng nhà thơ. Nhà thơ đã ghi lại linh hồn của tạo vật với những gì đặc sắc, lắng đọng trong ký ức hoài niệm, trong nỗi niềm nhớ thương. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng thiết tha đằm thắm đối với cảnh và người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát khao trở về thôn Vĩ yêu thương.
Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang khổ thứ hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc mặc cảm chia lìa hiện ra rõ nét dưới từng câu chữ:
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chảy lững lờ, chậm rãi – đó là “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng lay động. Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Phép nhân hoá làm dòng sông như chở nặng nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ.
Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh. Nỗi buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp… Gió và mây là hai sự vật luôn sánh đôi với nhau như thuyền và nước nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử thì gió mây chia lìa. Gió đóng khung trong gió, mây đóng khung trong mây “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Nhìn xuống dòng sông, thi nhân thấy dòng sông trở nên “buồn thiu”, còn hoa bắp chỉ khẽ “lay” – một cử động rất nhỏ tạo cho bức tranh nỗi buồn hiu hắt vắng lặng. Chữ “lay” ấy như từ trong ca dao bay về đậu vào thơ Hàn Mặc Tử :
"Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em"
Không gian sông nước xứ Huế nhuốm màu sắc hư ảo. Nỗi buồn phủ khắp cảnh vật từ gió mây đến dòng nước và hoa bắp bên sông. Buồn đến não ruột, buồn đến mềm lòng. Gió và mây vốn gắn kết cũng đã có sự chia lìa đôi ngả, dòng sông mang đầy tâm trạng chảy về niềm tâm tưởng. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, đơn phương. Ths Phan Danh Hiếu
Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng. Vẫn là dòng sông Hương, là Huế thơ mộng nhưng không còn nắng, còn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian ngập đầy ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền trăng, dòng sông thì sông trăng, bến thì thành bến trăng.
Từ xưa đến nay, có thuyền trăng, bến trăng nhưng nay lại có sáng tạo sông trăng độc đáo của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang trôi vào cõi mộng, dường như đang sống trong khắc khoải hoài mong của thi nhân. Đây không phải lần đầu Hàn Mặc Tử viết về trăng mà trong thế giới thơ ca của Hàn Mặc Tử, trăng là một người bạn, một người tình không thể thiếu trong đời sống tâm hồn thi nhân:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
“Không gian đắm đuối toàn trăng cả
Anh cũng trăng mà em cũng trăng”
Hay:
“Gió lùa ánh sáng vào trong bãi
Trăng ngập dòng sông chảy lãng lai”
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”
Thơ Hàn Mặc Tử ít nhiều nhuộm màu sắc trường phái tượng trưng siêu thực của phương Tây vì thế nên có nhiều hình ảnh khó nắm bắt, ví như câu viết về trăng trong tác phẩm này. “Thuyền ai” phải chăng đó là con thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ đang mơ ước chở trăng và phải chăng trăng chính là tình yêu mà nỗi chờ mong của Hàn Mặc Tử. “Tối nay” là tối nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của nhà thơ là cuộc chạy đua với thời gian.
“Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết. Có phải vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu rồi con thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ “kịp” vì thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của con người. Ths Phan Danh Hiếu
“Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, mong ước và lo sợ. Một niềm hy vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. Hàn Mặc Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vậy mà người đọc càng thấu hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.
Mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hết hy vọng mà vẫn mong ước một cách riết róng:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng khắc khoải chờ đợi và niềm khát khao đến mãnh liệt. Từ “mơ” nằm đầu câu đã thể hiện rõ tâm trạng mong chờ ấy của thi nhân. Thầy Phan Danh Hiếu. “Mơ” chứ không phải là “mong”, vì không mong được nên mơ, vì sống trong mơ có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn thì phải. “Khách đường xa” có lẽ chính là cô gái Huế, và khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng.
Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khôi của cô gái Huế – nhất là Hoàng Cúc từng là nữ sinh của trường Đồng Khánh. Trong sự đa nghĩa của câu thơ, màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở đây vượt lên trên mức bình thường nên đã hóa thành màu của ảo ảnh và chính vì nhìn vào ảo ảnh nên hình bóng của giai nhân cứ mờ nhoè, hư ảo.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây” – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – nơi mà Hàn Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình. “Ở đây” và “ngoài kia” có xa xôi mấy đâu vậy mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi thế câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng thi ca:
"Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”
Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ trong trạng thái bị dày vò vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào trống trải. Ths Phan Danh Hiếu. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo nỗi buồn vô vọng và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau thương chới với, bất lực trong mặc cảm chia lìa nhưng cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.
Bài thơ sử dụng một số biện pháp tu từ như: điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ… Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Thầy Phan Danh Hiếu.
Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là không thể quên vẻ đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để đời của ông. Huế đẹp, Huế thơ, xin được mượn bốn câu thơ của Thu Bồn thay cho lời kết gửi đến tình yêu xứ Huế, với thi nhân Hàn Mặc Tử:
“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với Cố Đô”
(Thầy Phan Danh Hiếu)
6. Phân tích bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' số 9
Hàn Mặc Tử, một danh sĩ lừng lẫy trong nền văn học Việt Nam, luôn gợi nhớ về hình ảnh một nghệ sĩ tài ba nhưng cuộc đời ngắn ngủi. Khi nói về ông, không thể không nhắc đến sự kết hợp hoàn hảo giữa tài năng và số phận bi thương. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, chúng ta càng thấy rõ sự tinh tế và sự nhạy cảm trong ngòi bút của ông.
Bài thơ về mảnh đất Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Dạ” không chỉ là một bức tranh về quê hương đầy cảm xúc mà còn mang trong mình nỗi u sầu, như dòng sông Hương hiền hòa với những câu hát đượm tình của xứ Huế:
'Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên'
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ nhẹ nhàng, như lời trách móc không chút giận hờn từ một cô gái Huế dành cho chàng trai mà cô thầm mến. Câu thơ chứa đựng sự chờ đợi và trách móc dịu dàng về việc anh không về thăm thôn Vĩ lâu nay. Đây là một lời mời 'ngọt ngào', thôn Vĩ hiện lên không mang vẻ hùng vĩ như 'Đèo Ngang' mà là vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất Huế.
Cái đẹp được miêu tả qua ánh sáng buổi sớm “nắng mới”, ánh sáng tinh khiết chiếu rọi xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón nhận những tia nắng đầu tiên. Tất cả như được bao phủ trong ánh sáng, tạo nên một sức sống tràn đầy.
'Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền'
Một khu vườn hiện lên trước mắt chúng ta với màu xanh mướt dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã dùng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sự tươi mát và sức sống của cây cối. Trong khung cảnh thiên nhiên trữ tình đó, hình ảnh con người hiện lên mờ ảo “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, tạo nên một hình ảnh hiền hòa và phúc hậu.
Con người ẩn hiện sau “lá trúc” như một hình ảnh vừa quen thuộc vừa mơ màng. Có thể đây là người con gái mà tác giả thầm thương, một cô gái Huế duyên dáng. Thôn Vĩ nằm cạnh dòng sông Hương xinh đẹp, và cảnh vật hiện lên bâng khuâng:
'Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Cảnh thiên nhiên trong thơ nhưng phản ánh nỗi lòng của tác giả. Gió và mây không cùng hướng, thể hiện sự chia ly sâu sắc. Dòng nước sông Hương đượm buồn với “hoa bắp lay” tạo nên một cảnh tượng động lòng. Đây cũng có thể là tâm trạng của tác giả trước nỗi nhớ và sự tiếc nuối khi không gặp được người mình yêu. Hình ảnh “thuyền và trăng” mang chất trữ tình để diễn tả nỗi lòng của tác giả.
Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương tạo nên hình ảnh “sông trăng” lung linh và huyền ảo. “Thuyền ai” có thể là thuyền của người lạ hay người tác giả thầm mến, với câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” mang đến sự day dứt, nuối tiếc.
Tất cả khắc khoải, nhớ thương như trong mơ, dễ dàng tan biến như ánh trăng dưới sông Hương. Hiện thực trở nên phũ phàng:
'Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?'
Nhà thơ sử dụng điệp ngữ “khách đường xa” để tạo sự sâu lắng, thể hiện nỗi nhớ và buồn bã. Màu áo trắng hiện lên dưới ánh sáng mặt trời như là màu của sự nhung nhớ. Dưới làn sương mờ buổi sáng, màu trắng trở nên mờ nhạt, khó nắm bắt. Câu thơ cuối như sự thất vọng của tác giả “Ai biết tình ai có đậm đà?”.
Bài thơ kết thúc với sự ngậm ngùi về tình yêu không được đáp lại, lời thơ như phảng phất sự u sầu. Tác giả tự hỏi về tình cảm của mình, không biết có “đậm đà” hay chỉ là hư ảo như màu áo trắng trong sương mờ.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kết hợp hoàn hảo giữa cảnh và tình, làm nổi bật nghị lực sống và tài hoa của tác giả.
7. Bài phân tích tác phẩm 'Đây thôn Vĩ Dạ' số 10
Hàn Mặc Tử là một người yêu thiên nhiên, trân trọng cuộc sống và luôn lạc quan dù trải qua những cảm xúc gián đoạn trong tình yêu. Ông hòa mình vào vẻ đẹp của thiên nhiên với sự đắm say và lạc quan.
Bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' chứa đựng những tâm sự của tác giả về vẻ đẹp thôn Vĩ và nỗi lòng riêng. Mở đầu bằng câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”, câu hỏi như một lời trách móc, nhắn gửi đầy nỗi nhớ nhung của nhân vật trữ tình.
Câu thơ bảy chữ với sáu thanh bằng và một thanh trắc cuối câu tạo ra một hiệu ứng âm thanh nhẹ nhàng, đầy cảm xúc tiếc nuối. Từ sự nhớ thương, hình ảnh thôn Vĩ hiện lên sống động trong lòng tác giả:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Chỉ ba câu thơ, Hàn Mặc Tử đã phác họa vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế với sự tinh tế. Vẻ đẹp trong trẻo của buổi sáng sớm, ánh nắng không gắt gao mà nhẹ nhàng, làm cho thôn Vĩ như được khoác lên chiếc áo mới tươi sáng. Cảnh vườn tươi đẹp, xanh như ngọc, vừa thanh thoát vừa kiêu sa. Hình ảnh lá trúc như hòa quyện với thiên nhiên, tạo nên vẻ đẹp kín đáo, tao nhã.
Khổ thơ tiếp theo vẽ nên bức tranh mây trời sông nước với những nét đặc trưng của xứ Huế, gió thổi, mây trôi, nước lặng và hoa bắp lay động. Tuy tả thực nhưng lại gợi lên sự chia lìa, mệt mỏi, âm hưởng buồn bã. Những hình ảnh như thuyền, sông trăng tạo nên không gian mơ hồ, phản ánh tâm trạng thi nhân.
Cuối bài thơ, Hàn Mặc Tử thể hiện sự khắc khoải và mong mỏi với hình ảnh 'khách đường xa' và 'áo em trắng quá', thể hiện sự xa vời và nỗi buồn không thể nắm bắt. Câu kết để lại ấn tượng sâu sắc về sự mơ hồ của tình yêu và cuộc sống, đồng thời gợi lên vẻ đẹp tao nhã của xứ Huế.
8. Bài phân tích tác phẩm 'Đây thôn Vĩ Dạ' số 1
Hàn Mặc Tử, một tâm hồn lãng mạn và yêu thương sâu sắc, đã để lại những vần thơ tuyệt đẹp, thể hiện nỗi lòng nghệ sĩ của ông trước cuộc đời. Những khoảnh khắc đau thương và vui sướng đã hòa quyện trong thơ, từ những cơn đau trong tâm hồn mà ông biến thành những bài thơ tuyệt tác. Bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' được ra đời từ những phút giây cảm xúc đó. Trong bài thơ, tình yêu nồng nàn hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, tình riêng hòa vào tình chung, và nỗi buồn vẫn thấm đẫm trong từng câu chữ.
'Đây thôn Vĩ Dạ' là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử, thể hiện tình yêu sâu lắng, u buồn giữa khung cảnh thiên nhiên hòa vào tâm hồn con người, nơi thực tại và mộng mơ, huyền bí và cụ thể hòa quyện. Mở đầu bài thơ là lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.
Câu hỏi 'Sao anh không về chơi thôn Vĩ?' của cô gái thôn Vĩ đầy yêu thương và mong đợi. Câu thơ không chỉ trách móc mà còn thể hiện sự tiếc nuối vì người yêu đã bỏ lỡ vẻ đẹp tươi sáng, ấm áp của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh đẹp của Huế. Chúng ta hãy cùng thưởng thức vẻ đẹp của thôn Vĩ:
'Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.'
Bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp được mở ra trước mắt người đọc qua nét đặc sắc của thôn Vĩ. Nắng sớm trên ngọn cau cao vút, làm bừng sáng cả một ngày mới. Cảnh vật tươi đẹp, tràn đầy sức sống, và nắng mới tạo nên sự liên tưởng đến những vần thơ của Tố Hữu trong bài thơ 'Xuân lòng'.
Nắng xuân trên thân dừa xanh dịu, tàu cau non lấp lánh như gươm xanh, ánh nắng chơi đùa cùng quả non trắng phếu, và chảy qua kẽ lá. Nắng mới cũng gợi lên sự bắt đầu của mùa xuân, làm bừng sáng một năm mới.
Nắng chiếu xuống vườn cau, làm cho những hạt sương đêm lấp lánh như viên ngọc. Vườn cau xanh mướt, tràn đầy sức sống, không chỉ xanh mượt mà còn có vẻ đẹp quý giá, sáng bóng.
Lá trúc và khuôn mặt chữ điền trong vườn thôn Vĩ Dạ tạo nên một liên tưởng đẹp, lá trúc thanh mảnh che ngang gương mặt chữ điền, làm hiện ra một cảnh tượng mơ màng.
Thôn Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương êm đềm. Từ cảnh làng quê, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với nỗi bâng khuâng, nỗi nhớ mong qua những hình ảnh như trong mơ:
'Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Gió và mây gợi sự xa cách, không thể gặp gỡ, phản ánh nỗi buồn và sự chia ly của nhà thơ. Dòng sông Hương buồn thiu với những bông hoa bắp màu xám, tạo cảm giác u ám, ảm đạm. Sự thay đổi tâm trạng từ vui sang buồn làm nổi bật nỗi buồn của nhà thơ.
Hình ảnh thuyền đậu bến sông trăng, có chở trăng về kịp tối nay, thể hiện tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ. Ánh trăng chiếu xuống dòng sông, làm cho cảnh vật trở nên huyền ảo và thơ mộng. Dòng nước buồn thiu biến thành dòng sông trăng lung linh, và con thuyền trở thành thuyền trăng.
Tác giả gửi gắm tình yêu và sự mong đợi vào ánh trăng và dòng sông trăng. Vầng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử là ánh trăng nguyên vẹn, không giống như trong các bài thơ khác, thể hiện sự mê hoặc và cảm giác đau thương.
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó' có thể là một biểu hiện của sự lo lắng về số phận không có tương lai, vì Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình và cảm thấy thời gian cuộc đời ngắn ngủi. Nhưng trong hiện tại, ông vẫn tiếp tục giấc mơ:
'Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?'
Tác giả gửi gắm nỗi đau và khao khát yêu thương vào thơ. Màu áo trắng là ánh nắng của Vĩ Dạ, làm tác giả cảm thấy ngây ngất trước sự thanh khiết của người yêu. Nhưng có vẻ như có một khoảng cách giữa thi nhân và những cô gái, khiến thi nhân nghi ngờ tình cảm của họ.
Câu thơ 'Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, Ai biết tình ai có đậm đà?' phản ánh sự thất vọng của trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ kết thúc với cảm xúc ngậm ngùi, và sự liên kết của các câu thơ làm cho 'Đây thôn Vĩ Dạ' trở nên sương khói và huyền bí hơn.
'Đây thôn Vĩ Dạ' là một bức tranh tuyệt đẹp về con người và cảnh sắc miền đất nước, qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ, với nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên và lòng người. Tình cảm của Hàn Mặc Tử vẫn còn vẹn nguyên, lay động lòng người đọc qua bao năm tháng.
9. Bài phân tích tác phẩm 'Đây thôn Vĩ Dạ' số 2
Đỗ Lai Thúy gọi Phong trào thơ mới là 'Cây nấm lạ' trên nền văn học dân tộc, và đúng như vậy, cái 'lạ' trong thơ mới của Hàn Mặc Tử nổi bật giữa muôn vàn phong cách thơ. Những bài thơ của ông, với hình ảnh và cảm xúc phong phú, đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người yêu thơ. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là 'Đây thôn Vĩ Dạ', chứa đựng nhiều cảm xúc và kỷ niệm về quê hương. Bài thơ chỉ gồm ba khổ, nhưng đã kết tinh những nỗi nhớ, khát khao và cả những hoài nghi, tuyệt vọng, phản ánh mối tình giữa thi sĩ và cô gái Huế tên Hoàng Cúc.
Thi phẩm mở đầu bằng câu hỏi đầy cảm xúc, không phải chỉ là tự vấn hay trách móc, mà là một lời thổ lộ, một nỗi xúc động khi được trở về với miền quê đầy kỷ niệm trong tâm trí. Câu thơ 'Sao anh không về chơi thôn Vĩ?' có thể là câu hỏi của cô gái Huế hoặc của chính Hàn Mặc Tử tự hỏi chính mình, nhưng đều thể hiện sự tha thiết và cảm xúc sâu lắng.
Với lối viết tinh tế, Hàn Mặc Tử vẽ ra một bức tranh thôn Vĩ bằng những câu thơ đầy màu sắc, miêu tả cảnh vườn xanh mướt và ánh sáng nắng mới. Cảnh vật không chỉ hiện lên qua màu sắc mà còn qua ánh sáng và không khí trong lành, gợi cảm giác tinh khôi và tươi mới.
Những nét vẽ của thi sĩ cũng gợi về con người Huế chân thành, dịu dàng. Dù không tả rõ, nhưng qua những hình ảnh cách điệu, chúng ta cảm nhận được sự dịu dàng và nữ tính của cô gái Huế. Cảnh vật và con người nơi đây được Hàn Mặc Tử thể hiện một cách thanh thoát và tinh tế, như một tác phẩm nghệ thuật đầy cảm xúc.
Bài thơ không chỉ dừng lại ở những hình ảnh cụ thể mà còn vươn tới những cảm xúc sâu lắng. Cảnh sông nước đêm trăng được miêu tả với sự huyền bí và trầm mặc, phản ánh tâm trạng của thi nhân qua những câu thơ đầy ẩn ý và cảm xúc.
Cuối cùng, bài thơ như một khúc ca về tình yêu và khao khát, hướng về quê hương và cuộc đời. Với phong cách viết độc đáo và hình ảnh tượng trưng, 'Đây thôn Vĩ Dạ' là một thi phẩm chứa đựng những câu thơ đẹp và trong sáng. Chế Lan Viên đã trân trọng Hàn Mặc Tử với câu nói: 'Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi, và còn lại của thời kì này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử'. Những lời này chứng tỏ giá trị vĩnh cửu của thơ Hàn Mặc Tử.
10. Phân tích bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' số 3
Bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' ra đời từ một hoàn cảnh đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh chờ đợi cái chết ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, ông bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh từ người bạn gái Hoàng Thị Kim Cúc gửi từ thôn Vĩ Dạ. Bưu ảnh có phong cảnh đêm trăng với thuyền và bến, kèm theo những lời thăm hỏi nhằm an ủi nhà thơ lúc bệnh tật.
Với người bình thường, tấm bưu ảnh chỉ là một sự thăm hỏi xã giao, nhưng với Hàn Mặc Tử, nó mang một ý nghĩa sâu sắc. Nó cho phép ông yêu người trong mộng với tình cảm sâu lắng. Vì vậy, kiệt tác 'Đây thôn Vĩ Dạ' ra đời, mở đầu bằng câu hỏi của một người con gái.
'Sao anh không về chơi thôn Vĩ?' Thực ra đây là một lời trách móc nhẹ nhàng, thể hiện sự mong mỏi da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trên thực tế, không có cô gái nào đang nói chuyện trực tiếp với Hàn Mặc Tử. Những lời dịu dàng ấy chính là dòng chữ trên bưu ảnh, đang sống động và trở thành giai điệu.
Ở câu thơ thứ hai, chúng ta thấy sự bất ngờ khi Hàn Mặc Tử ngay lập tức có mặt ở không gian thôn Vĩ Dạ. Đây là một cuộc hành trình trong tâm thức. 'Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên'
Câu thơ sử dụng hai từ 'nắng'. Một là 'nhìn nắng hàng cau' và một là 'nắng mới lên'. Đây không phải là nắng thông thường mà là nắng của bình minh, tươi mới và kỳ diệu, chiếu sáng trên hàng cau.
Trước đây, người ta nghĩ rằng Hàn Mặc Tử nhìn từ xa đến gần, nhưng trên thực tế, ông trở về bằng tâm thức mà không cần cuộc dạo chơi như vậy.
Đôi mắt của Hàn Mặc Tử từ trên cao nhìn xuống vườn thôn Vĩ, đang xé toạc bầu trời đen để thấy ánh sáng bình minh từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn tuyệt đẹp, nơi có phép màu và sự thanh thản. Vì thế tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn Vĩ.
'Vườn ai mướt quá xanh như ngọc' Câu thơ diễn tả sự kinh ngạc về vẻ xanh tươi của vườn. Tất cả đều xanh như ngọc, không chỉ bằng mắt mà còn bằng cảm giác. 'Lá trúc che ngang mặt chữ điền'.
Câu thơ cuối khổ một có nhiều cách hiểu khác nhau. Một số người cho rằng 'mặt chữ điền' là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử. Nhà thơ Chế Lan Viên lại cho rằng mặt chữ điền có thể không đẹp theo tiêu chuẩn người Việt Nam. Cũng có ý kiến khác cho rằng 'mặt chữ điền' là viên gạch trên bức bình phong.
Hàn Mặc Tử thường gặp chính mình trong thơ. Có thể ông đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời trẻ. Nhà thơ muốn trở lại con người trong quá khứ để yêu, và hình ảnh 'lá trúc che ngang' thể hiện sự mạnh mẽ, phóng khoáng của người đàn ông.
Khổ thơ đầu tạo ấn tượng về buổi sáng, trong khi khổ thơ thứ hai gợi nhớ về buổi chiều và tối với cảnh sông nước và ánh trăng. Các hình tượng đều tồn tại trong quan hệ nghịch lý. 'Gió theo lối gió, mây đường mây'.
Câu thơ thể hiện sự nghịch lý và trớ trêu, khi hoa bắp lay động nhưng nước vẫn buồn thiu. Điều này phản ánh sự phụ tình và tủi cực.
Khổ thơ đầu gợi tình yêu nở rộ, nhưng khổ thơ sau phản ánh sự tan vỡ. Hàn Mặc Tử thể hiện sự phủ định đối với người mời mình về thôn Vĩ, và tình yêu trở nên đổ vỡ.
Người yêu trong mộng lúc mời đón, lúc lại trở thành kẻ phụ tình. Nhưng bỗng dưng, người ấy hiện ra nhân từ và độ lượng.
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?'
Trăng là biểu tượng của hạnh phúc, và Hàn Mặc Tử khao khát hạnh phúc. Câu hỏi liệu có chở kịp trăng về tối nay thể hiện sự lo lắng về sự sống ngắn ngủi của ông.
'Mơ khách đường xa, khách đường xa' là một câu thơ đặc biệt, thể hiện sự xa lạ và mơ mộng về người khách. Hàn Mặc Tử hiểu rằng người đó đang xa vời và không thể nắm bắt được.
Nhà thơ muốn tìm một tình yêu có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời, và tâm trạng của ông đối lập giữa hi vọng và tuyệt vọng. Câu thơ 'Áo em trắng quá nhìn không ra' phản ánh sự tuyệt vọng, mặc cảm khi yêu. Tâm trạng này cho thấy Hàn Mặc Tử không dám yêu vì sự trong trắng của người yêu.
Cuối cùng, 'Ai biết tình ai có đậm đà?' là câu hỏi bơ vơ về tình yêu, thể hiện sự tuyệt vọng. Đây là cảm hứng chủ đạo của 'Đây thôn Vĩ Dạ', phản ánh tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử.
Mặc dù tuyệt vọng, tình yêu của Hàn Mặc Tử dạy cho chúng ta giá trị nhân văn cao cả. Ông níu giữ cuộc sống bằng tình yêu, dù đó là tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta cần biết sống và yêu trong cuộc đời này một cách trân trọng.