1. Bài viết phân tích khổ thơ thứ 7 trong 'Việt Bắc' - mẫu 4
Tình cảm và lòng trung thành là những phẩm chất đáng quý trong hình ảnh người cách mạng. Những phẩm chất này được thể hiện rõ nét trong nhiều tác phẩm văn học từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Trong bài thơ 'Việt Bắc' của Tố Hữu, nét đẹp này được nổi bật nhất qua đoạn thơ:
“Ta về mình có nhớ ta
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Đoạn thơ mười câu trên là phần thứ năm của bài thơ 'Việt Bắc', mở ra một bức tranh toàn cảnh về Việt Bắc qua bốn mùa trong năm. Bức tranh này vừa rực rỡ, tươi mới, vừa đầy nỗi nhớ nhung của người về xuôi. Nỗi nhớ đó được thể hiện chân thành trong thời điểm chia tay:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Câu thơ 'ta về' lặp lại hai lần ở đầu câu, thể hiện sự chia tay trong khi câu hỏi là hỏi người, còn câu bày tỏ tâm sự của mình. Giọng thơ của Tố Hữu ở đây ngọt ngào và ấm áp. Cuộc chia tay giữa người kháng chiến và người Việt Bắc, giữa miền ngược và miền xuôi, trở thành một buổi tiễn biệt đầy cảm xúc. Nỗi nhớ về những ngày gian khó, gắn bó với cảnh và người Việt Bắc hiện rõ trong tâm trí người ra đi. Cảnh vật và con người Việt Bắc đều đáng yêu và đáng nhớ, đặc biệt là hoa và người. Hoa và người hòa quyện trong nỗi nhớ, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc và những con người đã từng giúp đỡ, gắn bó với người ra đi. Vẻ đẹp của bức tranh Việt Bắc trước tiên là sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người.
Bức tranh bốn mùa được miêu tả bằng những câu thơ nhẹ nhàng, với màu sắc tươi sáng, ánh sáng lung linh và âm thanh vui tươi. Cảnh và người hòa quyện vào nhau: bốn cặp lục bát miêu tả bốn mùa, mỗi câu thơ nhớ cảnh, câu dưới nhớ người. Mỗi cảnh vật và con người được nhắc đến đều có điểm riêng để nhớ. Tất cả hiện lên như một bức tranh Việt Bắc tuyệt đẹp qua nét bút tinh tế của tác giả.
Mỗi mùa được nhớ lại qua một nét tiêu biểu, với cách diễn tả tinh tế và gợi cảm. Nhớ mùa đông là nhớ đến 'rừng xanh hoa chuối đỏ tươi', giữa màu xanh bạt ngàn nổi bật là sắc đỏ tươi, mùa đông không còn lạnh lẽo. Mùa xuân thì tràn ngập sắc trắng tinh khiết, thơ mộng: 'ngày xuân mở nở trắng rừng', tương tự như cảnh Bác về nước:
Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về... Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ...
(Theo chân Bác, Tố Hữu)
Bốn cặp lục bát còn lại mô tả cảnh hè và thu. Mùa hè với màu vàng rực rỡ của rừng phách: 'Ve kêu rừng phách đổ vàng', là một câu thơ tuyệt vời của bài thơ. Câu thơ sáu chữ này biểu đạt sự chuyển đổi của thiên nhiên qua tiếng ve kêu trong màu vàng chói chang của rừng phách. Cuối cùng, cảnh thu hiện ra với ánh trăng dịu nhẹ, màu của mơ ước về cuộc sống hòa bình. Mỗi mùa đều đẹp và mỗi mùa là một bức tranh thơ mộng.
Bức tranh bốn mùa còn phản ánh vẻ đẹp đằm thắm của con người Việt Bắc. Cảnh vật làm nền cho con người và ngược lại, tạo nên sự hòa quyện, tô điểm cho nhau. Những hình ảnh giản dị nhưng đáng yêu của người dân Việt Bắc được đưa vào bức tranh: hình ảnh người lên núi với lưỡi dao lấp lánh ánh nắng, bàn tay 'chuốt từng sợi giang' của người đan nón và 'cô em gái hái măng một mình' giữa tiếng ve và sắc vàng rừng phách. Tiếng hát ân tình cũng làm cho bức tranh thêm phần ấm áp và lung linh.
Để dựng lên bức tranh quê hương cách mạng đẹp và ấm áp như vậy, không thể thiếu tình cảm sâu sắc và lòng yêu mến chân thành đối với Việt Bắc. Bức tranh này phản ánh quan điểm và cách nhìn đầy cảm thông của nhà thơ đối với quê hương cách mạng. Đây là một tác phẩm thể hiện sự gắn bó trung thành và lòng nhớ thương sâu nặng của nhà thơ với cảnh và người Việt Bắc.
Tình cảm nhớ thương bao trùm toàn bộ đoạn thơ, với nhịp điệu nhẹ nhàng của thể thơ lục bát, làm cho âm hưởng đó thêm phần sâu lắng. Bài thơ 'Việt Bắc' có cấu trúc đối đáp, thể hiện sự phân thân của một chủ thể trữ tình.
Cuối đoạn thơ là tiếng hát ân tình của người chiến sĩ miền xuôi và đồng bào Việt Bắc, vang trong lòng người đi, nhắc nhớ những ngày tháng nghĩa tình. Tiếng hát ấy là cầu nối giữa lòng người với lòng người, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
2. Bài viết phân tích khổ thơ thứ 7 trong bài thơ 'Việt Bắc' - mẫu 5
Trong các thành tựu vĩ đại của văn học Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, không thể không nhắc đến bài thơ 'Việt Bắc' của Tố Hữu. Bài thơ này nổi bật với bản sắc dân tộc và phong cách đặc trưng của Tố Hữu. Nó không chỉ thể hiện tình cảm sâu nặng và lòng nhớ nhung của nhân dân Việt Bắc đối với cách mạng, Đảng và Bác Hồ mà còn là tình cảm của người cán bộ kháng chiến với thiên nhiên, núi rừng và con người nơi đây. Đoạn thơ gồm năm câu lục bát tái hiện những hình ảnh đẹp và thân thuộc về Việt Bắc trong hồi ức của nhà thơ.
'Ta về, mình có nhớ ta
…
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung'
Hai câu thơ mở đầu tạo nên cảm xúc chủ đạo cho toàn đoạn. “Ta” ở đây không chỉ là người ra đi mà cũng chính là tác giả. Đoạn thơ được cấu trúc theo hình thức đối đáp thường thấy trong dân ca truyền thống, như một lời dặn dò ngọt ngào của người ra đi gửi đến người ở lại, gợi liên tưởng đến một thiếu nữ địa phương. Câu hỏi tu từ này như là cái cớ để một chàng trai miền xuôi bày tỏ tình cảm với cô gái miền cao.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
“Hoa và người” là sự kết hợp giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc. Thiên nhiên và con người ở đây hòa quyện và hỗ trợ lẫn nhau. Việt Bắc nuôi dưỡng con người, và con người góp phần làm ấm áp quê hương. Bài thơ tiếp tục với tám câu lục bát vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên và con người nơi đây qua bốn mùa. Mỗi mùa được thể hiện qua các câu lục bát với vẻ đẹp riêng biệt, làm nổi bật tính chất dân gian của đoạn thơ.
Đầu tiên là bức tranh mùa đông với hình ảnh hoa chuối rừng đỏ tươi, như những ngọn đuốc sáng rực trong không gian lạnh giá. Bức tranh này gợi nhớ đến một đêm đông năm 1946 khi Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân kháng chiến, và những người lính cảm tử vượt sông Hồng lên căn cứ cách mạng Việt Bắc. Bài hát và thơ ca của thời kỳ này vẫn sống mãi trong ký ức:
Đêm cái đêm rét quá chân cầu
Anh, anh đã hẹn ngày mai trở lại
Sông, sông Hồng bên bờ hát mãi
Tỏ niềm tin khúc khải hoàn ca.
Lưu Trọng Lư trong bài thơ 'Một mùa đông' đã viết:
Đôi mắt em lặng buồn,
Nhìn tôi mà không nói.
Tình đôi ta vời vợi,
Có nói cũng vô cùng
Trời hết một mùa đông
Không một lần đã nói...
Trong khi đó, tại Việt Bắc, hoa chuối rừng bừng lên sắc đỏ giữa mùa đông, tạo nên một cảnh sắc tuyệt đẹp và sống động. Dù mùa đông lạnh giá, sự sống ở núi rừng vẫn tiếp tục và mang lại cảm giác ấm áp. Tiếp theo, hình ảnh mùa xuân được miêu tả với những rừng mơ trắng muốt và hoa chuối đỏ, gợi sự thanh thản và lạc quan.
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Mùa xuân ở Việt Bắc được thể hiện qua hình ảnh người đan nón với sợi giang đặc trưng, gợi sự gần gũi và chân thật. Cảnh mùa xuân tiếp tục với âm thanh của ve kêu và sự chuyển mình của thiên nhiên từ mùa hạ sang mùa thu:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Bức tranh mùa hạ với tiếng ve kêu và rừng phách vàng óng ánh, cùng với hình ảnh cô gái hái măng, tạo nên một cảnh sắc thơ mộng và quyến rũ. Cuối cùng, mùa thu được mô tả bằng ánh trăng, gợi niềm mơ ước hòa bình và niềm tin vào chiến thắng của cách mạng và đất nước.
Câu thơ lục bát nhịp nhàng kết hợp với điệp từ “nhớ” tạo nên âm hưởng bâng khuâng, như một khúc hát ru về lòng chung thủy của người cách mạng với quê hương Việt Bắc. Đây là đoạn thơ tuyệt vời trong bài 'Việt Bắc', miêu tả thiên nhiên và con người với sự tinh tế và đẹp đẽ, phản ánh sự chung thủy và lòng yêu nước.
3. Bài viết cảm nhận về khổ thơ thứ 7 trong tác phẩm 'Việt Bắc' - mẫu 6
Tố Hữu (1920-2002) được coi là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nền văn học cách mạng Việt Nam. Ông để lại một di sản văn chương phong phú, đầy giá trị và phong cách nghệ thuật độc đáo, kết hợp giữa trữ tình và chính trị, đồng thời đậm đà tính dân tộc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ 'Việt Bắc.' Trong đó, mười câu thơ nổi bật, thể hiện sâu sắc nỗi nhớ quê hương của người trở về với cả vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc:
Ta về mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Bài thơ 'Việt Bắc' được viết bởi Tố Hữu vào tháng 10 năm 1954, sau khi chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và các cơ quan chính phủ từ Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội. Tố Hữu, như nhiều cán bộ kháng chiến khác, đã gắn bó lâu dài với Việt Bắc và viết bài thơ này như một lời chia tay đầy xúc động với chiến khu.
Hoàn cảnh sáng tác bài thơ đã tạo nên một cảm xúc đặc biệt, đầy lưu luyến và bâng khuâng. Tố Hữu đã khéo léo sử dụng thể thơ lục bát truyền thống, kết hợp cặp đại từ nhân xưng mình-ta và lối đối đáp của ca dao để thể hiện sự nhớ nhung, kỷ niệm về thời kỳ kháng chiến hào hùng. Bài thơ không chỉ diễn tả sự gắn bó sâu sắc của người kháng chiến với nhân dân, Việt Bắc và đất nước, mà còn bộc lộ cảm xúc chân thành và cảm động.
Phần mở đầu của bài thơ, với hình thức đối đáp giữa mình và ta, đã khắc họa một khung cảnh chia tay đầy cảm xúc, lưu luyến và bịn rịn. Tố Hữu đã sử dụng câu hỏi tu từ để thể hiện sâu sắc tình cảm của người trở về. Điệp từ 'ta' và 'nhớ' nhấn mạnh sự nhớ nhung da diết. 'Những hoa cùng người' chính là đối tượng của nỗi nhớ, gồm vẻ đẹp của thiên nhiên và con người nơi chiến khu. Hoa và người hòa quyện, làm nổi bật vẻ đẹp của cả hai, tạo nên hình ảnh trữ tình về Việt Bắc.
Những câu thơ tiếp theo mô tả vẻ đẹp bốn mùa của Việt Bắc một cách cụ thể và sinh động. Cảnh vật và con người hòa quyện, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và đa dạng. Bức tranh mùa đông được khắc họa qua:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Tố Hữu nhớ về mùa đông không phải là cái lạnh giá mà là những ngày nắng đẹp, với màu xanh của rừng và hoa chuối đỏ rực rỡ. Hình ảnh con người xuất hiện trên đỉnh đèo trong ánh nắng làm nổi bật vẻ đẹp của thiên nhiên. Mùa xuân được mô tả qua:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Hình ảnh hoa mơ trắng tinh khiết và những người đan nón thể hiện sự sống mới và lao động cần cù. Mùa hè được khắc họa qua:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tiếng ve kêu và màu vàng của rừng phách tạo nên không khí mùa hè sống động. Cô gái hái măng hiện lên trong sự lao động vất vả nhưng cũng đầy thơ mộng. Cuối cùng, mùa thu được mô tả qua ánh trăng và tiếng hát:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Ánh trăng và tiếng hát tạo nên một bức tranh mùa thu hòa bình và cảm động. Bài thơ không chỉ ghi lại nỗi nhớ quê hương mà còn thể hiện vẻ đẹp và tình cảm của người kháng chiến với Việt Bắc. Tố Hữu đã thành công trong việc tái hiện một Việt Bắc đẹp đẽ, vừa hiện thực vừa lãng mạn, và làm nổi bật sự gắn bó sâu nặng với vùng đất này.
Bài thơ còn mở rộng sự nhớ nhung và ngợi ca Việt Bắc trong những đoạn thơ tiếp theo, thể hiện niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ và cảm hứng yêu nước sâu sắc. Đoạn thơ ngắn 10 dòng này mang âm điệu ngọt ngào, từ ngữ giản dị và giàu sức gợi, thể hiện phong cách thơ đặc trưng của Tố Hữu, đồng thời bộc lộ sự gắn bó sâu sắc của ông với Việt Bắc. Qua nỗi nhớ và tình cảm chân thành của tác giả, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật gần gũi, chân thực và đầy thơ mộng.
4. Bài phân tích khổ thơ thứ 7 trong tác phẩm 'Việt Bắc' - mẫu 7
'Ôi! Nỗi nhớ, có bao giờ như thế!'. Nỗi nhớ vượt qua cả thời gian lẫn không gian, thấm sâu vào lòng người... Nỗi nhớ ấy cứ mãi ám ảnh, da diết trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng miền xuôi khi xa Việt Bắc thân yêu - nơi đã từng nuôi dưỡng mình trong những ngày kháng chiến gian khổ...
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa và người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắng rực rỡ ánh dao thắt lưng.
Mùa xuân hoa mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô gái hái măng một mình
Rừng thu ánh trăng hòa bình
Nhớ ai - tiếng hát ân tình chung thủy.
Trong một đoạn thơ ngắn ngủi, từ 'nhớ' đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dòng đầu là lời gợi nhắc, 'nhắc khéo': mình có nhớ ta không? Riêng ta, ta vẫn nhớ! Cách xưng hô gợi sự thân mật, tình cảm chân thành. Ta và mình, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Người ra đi nhớ những gì? Việt Bắc có gì để nhớ, để thương? Câu thơ đã trình bày rõ ràng.
Ta về, ta nhớ những hoa và người
Núi rừng, cảnh vật Việt Bắc được ví như 'hoa'. Nó tươi thắm, rực rỡ và 'thơm mát'. Trong bức tranh thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên giản dị, chân chất, mộc mạc mà cao đẹp. Con người và thiên nhiên hòa quyện, kết nối tạo nên phong thái đặc trưng của Việt Bắc. Bốn mùa đất nước trôi qua qua các câu thơ ngắn gọn với các hình ảnh đặc trưng. Mỗi mùa mang một hương vị riêng.
Mùa đông, rừng xanh điểm tô bởi những bông hoa chuối 'đỏ tươi' và ánh nắng vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng sáng bừng với màu trắng của hoa mơ. Hè về, có ve kêu và 'rừng phách đổ vàng'. Khi thu đến, thiên nhiên được thắp sáng bởi ánh trăng vàng nhẹ. Đoạn thơ tràn ngập màu sắc rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng... Những màu sắc ấy tác động mạnh vào giác quan người đọc. Tiếp xúc với thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sống động. Các gam màu hòa quyện tự nhiên càng làm nổi bật vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.
Thời gian trôi qua nhịp nhàng trong những dòng thơ. Nó di chuyển một cách vững chãi, làm cho ta không thể nhận ra phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô tả theo chiều dọc của thời gian. Buổi sáng hoa 'mơ nở trắng rừng', trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, ánh trăng rọi bàng bạc khắp nơi... Núi rừng Việt Bắc như một sinh thể đang biến đổi theo từng khoảnh khắc...
Và cảnh vật tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trở nên hài hòa, sinh động khi có sự hiện diện của con người. Con người hòa quyện vào thiên nhiên, như một đóa hoa đẹp nhất, với hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh đều đi kèm với một câu thơ tả người. Cảnh và người hòa quyện một cách hài hòa. Đây là những con người lao động, gắn bó, tận tụy với công việc. Người 'dao gài thắt lưng', người 'đan nón', 'cô gái hái măng một mình' và tiếng hát ân tình của ai đó vang vọng giữa đêm rừng núi xôn xao...
Hình ảnh con người làm cho vẻ đẹp của thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ đã gợi nên nỗi nhớ sâu sắc cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta cảm nhận được vẻ đẹp bình dị nhưng trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc. Họ đối xử với nhau bằng tình nghĩa sâu sắc, chân thành, bằng sự trung thành 'trước sau như một'. Họ đã nuôi dưỡng chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến của dân tộc... Những con người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng. Tố Hữu đã thể hiện tình cảm sâu sắc và nỗi nhớ thương chân thành qua hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây. Ta và mình đã từng:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Đã từng chia sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế! Ta và mình không thể quên nhau. Tình cảm ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở và người ra đi. Vì thế, khi ra đi, nỗi nhớ là cảm xúc khắc sâu trong tâm trí, tình cảm của tác giả. Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng và sâu lắng. Cả khổ thơ chứa đựng niềm lạc quan, vui sống và tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và lòng yêu nước của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào gợi nhớ bao kỉ niệm. Kỉ niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng người ở lại...
Các câu thơ của Tố Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài. Lời thơ giản dị nhưng trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng và dịu dàng.
5. Phân tích khổ thơ thứ 7 trong tác phẩm 'Việt Bắc' - ví dụ 8
Nguyễn Đình Thi từng nhận xét về thơ Tố Hữu rằng: “Tố Hữu là một chiến sĩ cách mạng và nhà thơ của cách mạng”. Âm điệu ngọt ngào và sâu lắng trong những bài thơ về người ở lại và người ra đi như đưa ta vào những ký ức ngọt ngào, thì trong khúc hùng ca kháng chiến, những vần thơ lại vang lên với khí thế mạnh mẽ và mãnh liệt. Dù chỉ với ba cặp thơ lục bát, đoạn thơ thứ 7 vẫn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
“Nhớ khi giặc đến càn quét
Rừng cây, núi đá ta cùng chiến đấu
Núi biến thành chiến lũy kiên cố
Rừng che chở bộ đội, vây quân địch
Mênh mông bốn mặt sương phủ
Đất trời ta đồng lòng trong chiến khu”.
Đoạn thơ khắc họa cuộc sống chiến đấu ở Việt Bắc với âm hưởng mạnh mẽ và hào hùng. Hình ảnh “Đất nước đứng lên”, “Rũ bùn đứng dậy sáng loà” như được hồi sinh trong từng câu thơ. Một lần nữa, thiên nhiên và con người hòa quyện tạo thành sức mạnh phi thường chiến thắng quân xâm lược.
“Nhớ khi giặc đến càn quét”
Làm sao có thể quên được cảnh giặc Pháp tàn bạo, như bầy chó săn khát máu, dẫm lên xương máu tổ tiên, tắm nhân dân trong biển máu và tiếng khóc ai oán, những tội ác bị phơi bày trong sự căm hờn:
“Quê hương ta từ ngày tăm tối
Giặc kéo lên lửa cháy dữ dội
Ruộng khô cạn
Nhà cháy rụi
Chó dữ gầm gào
Lưỡi dài máu đẫm
Hết đường, ngõ vắng, bờ hoang”.
(Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm)
Trước âm mưu và tàn bạo của kẻ thù, cuộc chiến ở Việt Bắc được miêu tả một cách vĩ đại. Thiên nhiên và con người hòa quyện tạo nên sức mạnh lớn lao, ngăn chặn quân thù.
“Rừng cây, núi đá ta cùng chiến đấu”
Núi rừng vốn vô tri, nhưng khi giặc đến càn quét, núi rừng Việt Bắc trở thành chiến sĩ dũng cảm, sát cánh với người kháng chiến, bảo vệ họ. Tố Hữu đã khéo léo dùng biện pháp nhân hóa “Rừng che bộ đội, rừng vây quân địch” để tạo nên thế trận kiên cố. Dãy núi như thành lũy bất khả xâm phạm. Trong bốn câu thơ, từ “rừng” và “núi” được lặp lại năm lần, tạo nên một trường thành chắn chắn, thách thức mọi kẻ xâm lược. Mạch thơ áp đảo với sự liên tục:
“Mênh mông bốn mặt sương phủ
Đất trời ta đồng lòng trong chiến khu”
Hình ảnh “mênh mông bốn mặt” gợi không gian hùng vĩ của núi rừng Việt Bắc. Tố Hữu khéo léo sử dụng đối lập, không gian rộng lớn lại chỉ “chung một lòng”. Núi rừng và con người như cùng một nhịp đập, hướng về chiến khu và sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc. Câu thơ vang lên âm hưởng hào hùng, tự hào về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đây là cuộc đấu tranh chính nghĩa và cuộc chiến mà cả dân tộc đoàn kết, chung sức chiến đấu. Từ đội quân nhỏ bé ban đầu, dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp, chúng ta đã có một đội quân mạnh mẽ với những chiến công lẫy lừng. Sức mạnh ấy đã mang lại chiến thắng Điện Biên Phủ, khiến cả thế giới phải kính phục.
Chỉ qua sáu câu thơ, Tố Hữu đã viết nên một bản anh hùng ca, khẳng định sức mạnh to lớn của dân tộc, truyền thống “đoàn kết và yêu nước” của người Việt. Đoạn thơ và toàn bộ tác phẩm sẽ mãi sống trong trái tim các thế hệ bạn đọc.
6. Cảm nhận khổ thơ thứ 7 trong bài thơ 'Việt Bắc' - mẫu 9
Như H.Balzac từng nói, “Nhà văn là thư ký trung thành của thời đại”, thì Tố Hữu chính là một trong những thư ký tận tụy nhất. Tác phẩm của ông luôn phản ánh chính xác các vấn đề của dân tộc và thời đại. Trong những câu thơ của “Việt Bắc”, chúng ta thấy rõ không khí của thời kỳ, hình ảnh con người, và tình cảm sâu sắc của cả một dân tộc đoàn kết vì lý tưởng lớn lao. Ví dụ rõ nét là những câu thơ sau:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng”
Vào tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi. Hòa bình trở lại, nửa đất nước được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng, trung ương Đảng và chính phủ quay về thủ đô. Lịch sử dân tộc bước sang một trang mới. Trong thời điểm này, xã hội cần nhìn lại quá khứ và hướng tới tương lai. Bài thơ “Việt Bắc” ra đời để đáp ứng nhu cầu đó, là tiếng lòng của nhân dân. “Việt Bắc” không chỉ là bản trường ca của tình quê, tình đất nước, mà còn là tổng kết lịch sử bằng tâm tình. Mỗi câu thơ trong bài thơ đều thể hiện sự phát triển và ý nghĩa riêng của nó.
Đọc thơ của Tố Hữu, chúng ta như đang xem một bộ phim tài liệu về cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc. Đặc biệt là những cảnh toàn cảnh về tinh thần chiến đấu kiên cường của thiên nhiên và con người Việt Bắc:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”
Trong hồi ức của tác giả, hình ảnh những ngày kháng chiến hiện lên rõ nét, từ thời kỳ cách mạng còn non trẻ đến những trận đánh ác liệt. Làm sao có thể quên những cảnh càn quét và tội ác của quân giặc đối với con người và thiên nhiên. Những ký ức đó vẫn in đậm trong lòng người Việt:
“Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?”
(“Bên kia sông Đuống” – Hoàng Cầm)
Tuy nhiên, những khó khăn càng làm tăng thêm sự kiên cường và quyết tâm của con người. Giờ đây, thiên nhiên cũng tham gia vào cuộc kháng chiến, trở thành đồng minh quan trọng của bộ đội:
“Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”
Núi rừng, từ những thử thách trong quá khứ, giờ đây trở thành “lũy sắt dày”, kiên cố và bảo vệ bộ đội, đồng thời bao vây quân thù. Dưới cái nhìn sử thi của Tố Hữu, núi rừng trở nên kiên trung và tình nghĩa, là điểm tựa vững chắc và khiến kẻ thù phải bất lực. Bởi:
“Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng”
Khung cảnh chiến đấu hòa quyện sự hào hùng và thơ mộng, không gian rộng lớn được gói gọn trong “một lòng” của nhân dân và quân đội. Mặc dù “bốn mặt sương mù” nhưng không hề tăm tối, mà tràn đầy ánh sáng tình đồng đội và lòng yêu nước mãnh liệt. Đoạn thơ là một bức tranh lịch sử hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tố Hữu đã khai thác hiệu quả ánh sáng, điểm nhìn và biểu tượng, phản ánh rõ nét tinh thần của thời đại. “Việt Bắc” là tác phẩm phục vụ cách mạng và cổ vũ chiến đấu, và những câu thơ của nó đã trở thành những câu hát không thể nào quên của ngày xưa và bây giờ.
7. Cảm nhận khổ thơ thứ 7 trong bài 'Việt Bắc' - mẫu 10
Tố Hữu đã từng chia sẻ về tình yêu Tổ quốc của mình rằng: “Tôi yêu đất nước và nhân dân tôi, tôi viết về đất nước và nhân dân tôi như viết về người đàn bà tôi yêu”. Thực vậy, trong từng trang thơ của Tố Hữu đều toát lên một bản tình ca về quê hương, Tổ quốc và con người Việt Nam, là những giai điệu yêu thương đầy ắp nghĩa tình. Bài thơ “Việt Bắc” là minh chứng rõ nét nhất cho tình yêu bất diệt của ông, đặc biệt là đoạn thơ sau:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Ai về có nhớ ai không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà”
Tố Hữu là một nhà thơ trữ tình chính trị, người dẫn đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ của ông phản ánh tinh thần sống lớn và tình cảm sâu nặng của người Cách mạng. Sau hiệp định Giơnevơ, vào tháng 10/1954, Trung ương Đảng và các cán bộ rời khỏi Việt Bắc. Buổi chia tay lịch sử này đã trở thành nguồn cảm hứng để Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Toàn bộ bài thơ là nỗi thương nhớ về những kỷ niệm kháng chiến gian khổ nhưng đầy nghĩa tình. Tố Hữu nhớ về cảnh chia tay người Việt Bắc đầy xúc động, nhớ về thiên nhiên Việt Bắc ấm áp và nhớ về cuộc sống giản dị nhưng thấm đẫm nghĩa tình của người dân nơi đây.
Trong dòng hồi tưởng của tác giả, những kỷ niệm thời kháng chiến dần hiện về trong tâm trí, trong đó có nỗi nhớ về những ngày tháng cách mạng, về con người Việt Bắc ân tình và cả những trận đánh:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng”
Khó mà quên được cảnh càn quét của kẻ thù như những con chó săn đói máu. Chúng đã tắm nhân dân ta trong những bể máu, với tiếng kêu khóc đau thương vang dội. Quân giặc đã tìm đủ mọi cách để đàn áp, khủng bố nhằm làm nhụt chí vùng lên của nhân dân.
“Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”
Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến gian khổ, bộ đội phải dựa vào dân và núi rừng Việt Bắc hiểm trở để chống lại địch. Trước những thời khắc quyết định, không chỉ nhân dân mà cả núi rừng đều chung sức đánh Tây. Với cuộc kháng chiến đầy khó khăn, núi rừng cũng trở thành bạn đồng hành, chiến sĩ anh hùng. Chỉ với bốn câu thơ, chữ “rừng” và “núi” được lặp đi lặp lại năm lần, tạo thành thế trận như một thành lũy vây bọc quân thù. Nhớ về lúc kháng chiến, khi giặc tấn công, cũng là khi quân ta đang đối mặt với khó khăn, mặc dù địch mạnh hơn, nhưng ta vẫn có lợi thế trên chiến trường quen thuộc.
Rừng cây núi đá “ta cùng” đánh Tây, với phép nhân hóa, rừng bao la và núi vững chãi đã đồng lòng với con người chống lại quân xâm lược. Điều này thể hiện tình cảm sâu sắc giữa con người kháng chiến và thiên nhiên núi rừng Việt Bắc. Ở cặp lục bát thứ hai, ta thấy rõ vai trò của thiên nhiên. Núi tạo thành lũy, rừng thực hiện hai nhiệm vụ: che chở bộ đội và bao vây quân thù. Rừng trở nên kiên quyết và dữ dằn cùng với việc vây quân thù, tạo thành thế trận vững chãi khiến kẻ thù khiếp sợ. Việt Bắc trở thành “địa linh nhân kiệt” từ đó, là cái nôi của cách mạng dân tộc ta.
Với sự đồng lòng, mọi người tạo thành một khối đoàn kết vững chắc, Việt Bắc vượt qua mọi khó khăn:
“Mênh mông bốn mặt sương mù
Đấy trời ta cả chiến khu một lòng”
Hình ảnh “bốn mặt sương mù” vừa phản ánh đặc trưng thiên nhiên chiến khu, vừa biểu trưng cho khó khăn của những ngày đầu kháng chiến. Cụm từ “cả chiến khu một lòng” nhấn mạnh sự đoàn kết quân dân, gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tố Hữu thể hiện tự hào trước sức mạnh của dân tộc ta. Khi Tổ quốc cần, cả thiên nhiên và con người đều sẵn sàng chiến đấu và hi sinh. Sức mạnh đoàn kết dân tộc đã tạo nên những chiến công vang dội, hàng loạt địa danh gắn với thắng lợi:
“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà”
Câu hỏi tu từ “ai về ai có nhớ không?” không chỉ gây sự chú ý mà còn là cách cán bộ kháng chiến ôn lại chiến thắng và gian khổ. Đoàn kết, anh dũng, Việt Bắc đã giành chiến thắng vang dội làm nức lòng nhân dân cả nước.
Với việc liệt kê các địa danh quan trọng như Phủ Thông, đèo Giàng, nơi diễn ra các trận đánh đầu cuộc kháng chiến chống Pháp; Sông Lô, Phố Ràng là những địa điểm chiến thắng quan trọng trong chiến dịch Việt Bắc; Cao – Lạng là chiến dịch giải phóng biên giới Việt – Trung. Những chiến công này đã thay đổi cục diện chiến trường và củng cố niềm tin vào thắng lợi cuối cùng.
Cùng với điệp từ “nhớ” là niềm tự hào của những người tham gia kháng chiến. Họ không chỉ nhớ đến chiến công mà còn những kỷ niệm buồn bên đồng đội đã hy sinh. Nhà thơ như muốn thắp nén tâm hương tưởng nhớ những người đã ngã xuống vì nghĩa lớn của dân tộc.
Với vài nét phác họa, Tố Hữu đã làm sống dậy tinh thần đoàn kết và khí thế anh dũng của Việt Bắc trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Với điệp từ “nhớ” và thể thơ lục bát nhẹ nhàng, sâu lắng, diễn tả nỗi nhớ dào dạt trong ký ức. Giọng thơ thay đổi linh hoạt, lúc trầm lắng, lúc mãnh liệt trong niềm vui, khiến độc giả hòa mình vào niềm vui lớn của dân tộc khi đất nước hoàn toàn tự do.
Mỗi người đều có trong lòng một miền đất để nhớ, để thương. Bởi “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã giúp hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm vĩ đại mà ngày nay chúng ta vẫn gìn giữ như một viên ngọc quý.
8. Đoạn văn phân tích khổ thơ thứ 7 trong tác phẩm 'Việt Bắc' - mẫu 1
'Việt Bắc' là một tác phẩm lục bát dài 150 câu thơ, mang hơi thở của một trường ca với cảm xúc dạt dào và sâu lắng. Bài thơ được viết vào tháng 10 năm 1954, thời điểm Hà Nội được giải phóng. Tố Hữu đã bộc lộ một tình yêu thiết tha và chân thành đối với Việt Bắc, nơi gắn liền với cuộc cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ 10 câu từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ 'Việt Bắc' thể hiện nỗi nhớ chân thành và sâu sắc đối với Việt Bắc:
'Ta về mình có nhớ ta,
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung'.
Hai câu thơ đầu là lời đối thoại giữa 'ta' và 'mình', thể hiện sự gắn bó sâu nặng dù đã xa cách: 'Ta về, ta nhớ những hoa cùng người'. Sự lặp lại của từ 'ta' và 'nhớ' biểu hiện lòng thủy chung và tình cảm sâu đậm. Nỗi nhớ không chỉ hướng về 'những hoa cùng người', mà còn về thiên nhiên và con người Việt Bắc thân yêu:
'Ta về, mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người'.
Hai chữ 'mình – ta' xuất hiện thường xuyên trong bài thơ, thể hiện tình cảm lứa đôi hòa quyện trong tình yêu Việt Bắc, làm cho giọng thơ trở nên thiết tha và bồi hồi như tiếng hát giao duyên. Tố Hữu đã kết hợp sắc điệu trữ tình với tính dân tộc trong thơ mình. Các cặp lục bát tiếp theo mô tả những nỗi nhớ cụ thể về thiên nhiên và con người trong bốn mùa: đông, xuân, hè, thu. Nhớ mùa đông với màu 'xanh' của núi rừng, màu 'đỏ tươi' của hoa chuối như ngọn lửa thắp sáng rừng. Nhớ người lao động với 'dao gài thắt lưng' trên đèo cao 'nắng ánh...', phản chiếu ánh sáng:
'Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng'.
Màu 'xanh' của rừng, màu 'đỏ tươi' của hoa chuối, màu 'nắng ánh' từ con dao hòa quyện, làm nổi bật sức sống mãnh liệt của thiên nhiên và con người Việt Bắc trong kháng chiến. Tố Hữu đã khắc họa sự làm chủ tập thể của nhân dân, từ người lao động trên 'đèo cao' ngập nắng đến đoàn dân công và chiến sĩ ra trận:
'Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo'.
('Lên Tây Bắc')
Nhớ mùa xuân ở Việt Bắc là nhớ hoa mơ 'nở trắng rừng', với màu trắng thanh khiết bao phủ khắp cánh rừng. Cách sử dụng từ ngữ của Tố Hữu gợi nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du trong 'Truyện Kiều':
'Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa'.
Nhớ 'mơ nở trắng rừng', nhớ người thợ đan nón 'chuốt từng sợi giang'. 'Chuốt' là làm bóng lên sợi giang, thể hiện sự khéo léo và kiên nhẫn trong nghề thủ công. Mùa xuân ở Việt Bắc thật đáng nhớ:
'Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang'.
Nhớ mùa hè ở Việt Bắc với tiếng ve kêu và màu vàng của rừng phách, là nhớ cô gái hái măng một mình giữa rừng:
'Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình'.
Chữ 'đổ' gợi cảm giác tiếng ve kêu như thúc giục mùa hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng. Cô gái hái măng giữa thiên nhiên nhạc rừng thể hiện sự trẻ trung và yêu đời. Nhớ mùa thu ở Việt Bắc với trăng rừng và tiếng hát ân tình:
'Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung'.
Trăng thu ở Việt Bắc mang vẻ đẹp thanh mát, hòa bình. 'Nhớ ai' là nhớ về tất cả những người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung. Đoạn thơ thể hiện tình cảm sâu nặng và ân tình mãi mãi in đậm trong lòng người.
Đoạn thơ tạo nên một bức tranh phong cảnh đặc sắc, thể hiện tình yêu Việt Bắc qua bốn mùa: đông, xuân, hè, thu. Mỗi mùa mang một sắc thái và sức sống riêng: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trắng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, với con người là những người lao động kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa và ân tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
Giọng thơ ngọt ngào và bồi hồi quyện lấy tâm hồn người đọc, phản ánh nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu: sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại. Đoạn thơ để lại ấn tượng sâu sắc với hình tượng đẹp và phong phú, gợi cảm, tạo nên một không gian nghệ thuật đầy sức sống và hài hòa, như Bác Hồ đã viết: 'Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay...'.
Thơ thực sự 'là ảnh, là nhân ảnh..., từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la' (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ gợi lên tình yêu và tự hào về Việt Bắc, về đất nước và con người Việt Nam, để lại trong lòng ta mối tình kháng chiến sâu nặng.
9. Phân tích khổ thơ thứ 7 trong bài 'Việt Bắc' - mẫu 2
Trong lịch sử dân tộc, có nhiều trang viết bằng thơ, nổi bật trong số đó là thơ của Tố Hữu, một nhà thơ vĩ đại của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu ghi lại hành trình cách mạng của dân tộc, từ khi Đảng thành lập cho đến sau chiến thắng mùa xuân 1975. Việt Bắc là một ví dụ điển hình, ghi lại khoảnh khắc Đảng và Nhà nước chuẩn bị rời khỏi Việt Bắc về Hà Nội sau chiến thắng chống Pháp. Trong bài thơ, Tố Hữu bày tỏ sự gắn bó sâu sắc của người ra đi với người ở lại, đồng thời thể hiện cảm xúc chân thành về thiên nhiên và con người Việt Bắc qua đoạn thơ:
Ta về, lòng có nhớ ta không?
Ta về, nhớ hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón, chuốt từng sợi giang
Ve kêu, rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng sáng hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Đoạn thơ như một bức tranh về Việt Bắc qua bốn mùa, thể hiện nỗi nhớ nhung sâu sắc và tình cảm trung thành của tác giả với vùng đất này. Hai câu đầu là lời hỏi và tự bộc lộ của người ra đi, mong muốn biết cảm nhận của người ở lại. Tám câu tiếp theo vẽ nên thiên nhiên và con người Việt Bắc qua bốn mùa, từ mùa đông với hoa chuối đỏ, mùa xuân với mơ trắng và người đan nón, mùa hạ với rừng phách vàng và tiếng ve, đến mùa thu với ánh trăng và tiếng hát. Mỗi hình ảnh thiên nhiên đều gắn liền với hình ảnh con người, tạo nên một bức tranh hòa quyện, tôn vinh vẻ đẹp của cả hai. Những hình ảnh và âm thanh từ tiếng ve kêu mùa hè đến tiếng hát trong đêm, làm cho bức tranh thiên nhiên thêm sinh động và đặc trưng. Tố Hữu đã khéo léo chọn lọc hình ảnh và âm thanh, tạo nên một bức tranh đầy cảm xúc và ấn tượng về Việt Bắc, với các hình ảnh con người lao động và thiên nhiên tươi đẹp. Đoạn thơ không chỉ thể hiện tài năng sáng tạo của Tố Hữu mà còn gợi nhớ những giá trị văn hóa và tình cảm chân thành của tác giả.
10. Phân tích khổ thơ thứ 7 trong bài 'Việt Bắc' - mẫu 3
Bài thơ "Việt Bắc" ra đời vào tháng 10 – 1954, rút trong tập "Việt Bắc" – tập thơ kháng chiến của Tố Hữu. Sau hơn ba ngàn ngày khói lửa, Hồ Chí Minh cùng đoàn quân chiến thắng tiến về thủ đô. Trong bối cảnh lịch sử hào hùng ấy. Tố Hữu đã sáng tác bài thơ này. Đây là một trong những đoạn thơ tiêu biểu nhất trong "Việt Bắc" thể hiện một cách tập trung vẻ đẹp giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ Tố Hữu.
Bao trùm lên toàn bộ đoạn thơ là nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với cảnh và người Việt Bắc. Nỗi nhớ tha thiết, bồi hồi thể hiện tình cảm thủy chung, nặng tình nặng nghĩa giữa "ta" với "mình", giữa kẻ ở với người về, giữa người cán bộ kháng chiến với người dân Việt Bắc:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người,
… Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
… Nhớ cô em gái hái măng một mình
… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
Chữ "nhớ" như một luyến láy trong khúc ca tâm tình làm cho vần thơ lục bát trở nên ngọt ngào sâu lắng. Trong 5 câu thơ của đoạn trích thì câu 2 mang ý nghĩa khái quát: "Ta về, mình có nhớ ta – Ta về, ta nhớ những hoa cùng người". Câu nào cũng có hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc, câu nào cũng có hình ảnh con người Việt Bắc.
Hình ảnh thiên nhiên trong đoạn thơ của Tố Hữu đẹp đẽ, tươi sáng, thơ mộng, đầy sức sống đến lạ thường. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhận xét: "Những câu thơ của Tố Hữu viết về thiên nhiên trong Việt Bắc có thể sánh với bất kỳ đoạn thơ miêu tả thiên nhiên nào trong văn học cổ điển". Thiên nhiên trong thơ Tố Hữu đa dạng độc đáo. Bốn câu thơ là bức tranh bốn mùa trong một năm, mỗi mùa lại mang một sắc thái riêng biệt. Đoạn thơ làm ta liên tưởng đến bức tranh tứ bình trong "Truyện Kiều" qua ngòi bút thiên tài của thi hào Nguyễn Du:
"Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân".
Với Tố Hữu, cảnh rừng Việt Bắc khi mùa đông đến là một màu xanh bạt ngàn, điểm tô, thắp sáng bởi "hoa chuối đỏ tươi". Thơ nên họa đã làm hiện lên vẻ đẹp hoang sơ và tráng lệ của những cánh rừng Việt Bắc. Khi mùa xuân đến "mơ nở trắng rừng" một vẻ đẹp trong trắng, thanh khiết, tinh khôi gợi cảm giác thơ mộng và bâng khuâng – một sức sống bừng dậy "trắng rừng" làm đổi thay quang cảnh thiên nhiên chiến khu. Và mùa hè "ve kêu rừng phách đổ vàng". Chỉ có Việt Bắc mới có rừng phách vàng rực trong mùa hè. Sự chuyển đổi của thời gian, sự chuyển vần từ xuân qua hè được thể hiện qua âm thanh tiếng ve, được diễn tả qua từ "đổ". Câu thơ hay vì thời gian cũng mang màu sắc.
Trước mắt người cán bộ kháng chiến là những rừng phách đang ngả dần sang màu vàng rực khi mùa hè đến trong âm thanh rộn rã tiếng ve ngân suốt đêm ngày. Chữ "đổ" là một nhãn tự làm ta nhớ đến câu thơ của Xuân Diệu trong bài "Thơ duyên": "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá. Thu đến nơi nơi động tiếng huyền". Mùa thu chiến khu quên sao được "Rừng thu trăng rọi hòa bình". Rừng cây, núi đá, khe suối, "bản khói cùng sương" càng đáng yêu hơn dưới vầng trăng xanh hòa bình dịu mát. Ta bồi hồi nhớ lại câu thơ trăng của Bác viết những năm đầu kháng chiến: "Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa" (Cảnh khuya).
Bức tranh thiên nhiên trong thơ Tố Hữu tươi sáng, gợi cảm, thơ mộng và đầy màu sắc thẩm mỹ. Mỗi câu thơ là một phiên cảnh với mảng màu và nét tài hoa. Màu xanh của rừng già, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ mùa xuân, màu vàng rực của rừng phách mùa hạ, màu xanh hòa bình dịu mát của ánh trăng thu. Nghệ thuật phối sắc tài tình của Tố Hữu trong miêu tả đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, đầy sức sống như Bác Hồ đã viết:
"Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay"…
(Cảnh rừng Việt Bắc)
Thiên nhiên Việt Bắc còn đẹp trong sự hòa hợp gắn bó với con người đang sống và hoạt động. Vì vậy, thiên nhiên Việt Bắc không hoang vu buồn tẻ mà trái lại, nó tràn đầy sức sống – sức sống mãnh liệt của một đất nước đang kháng chiến. Con người được nói tới trong đoạn thơ này rất đẹp và hữu tình. Trước hết là con người xuất hiện trong khung cảnh lao động, trong sự hòa hợp và chan hòa với thiên nhiên.
"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" – là một trong những câu thơ đặc sắc của đoạn thơ. Câu thơ được coi là sự phát hiện độc đáo của Tố Hữu mang màu sắc "rất Việt Bắc" như cách nói của Xuân Diệu. Đồng bào Việt Bắc lúc đi rừng thăm rẫy, làm nương đều gài dao ở thắt lưng. Trên tầm cao của đèo, ánh sáng mặt trời chiếu vào những con dao ấy, tạo nên sự phản quang rực rỡ, lấp lánh. Chỉ một câu thơ thôi mà người đọc có thể cảm nhận được hình ảnh mạnh mẽ, hào hùng của con người Việt Bắc trong tư thế lao động, làm chủ thiên nhiên, trong tư thế vận động đi lên phía trước. Phải có một tâm hồn thi sĩ tinh tế, sự quan sát sắc sảo mới viết được những câu thơ hay như vậy. Con người kháng chiến mang tầm vóc thời đại là người sản xuất hay người chiến sĩ đều mang tư thế hào hùng:
"Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo".
(Lên Tây Bắc)
Nhớ "mơ nở trắng rừng" trong những ngày xuân cũng là sự bồi hồi "nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang". Tác giả viết về con người Việt Bắc trong một khung cảnh cụ thể, một công việc cụ thể. Từ "chuốt" trong câu thơ là trau chuốt, làm bóng lên, làm đẹp thêm lên. Chữ "từng" (từng sợi giang) gợi tả đức tính cần mẫn, cách làm tỉ mỉ và chịu khó. Có khéo tay mới "chuốt từng sợi giang" mỏng và bóng để đan thành những chiếc nón xinh xắn, một trong những vật phẩm mỹ nghệ thủ công đặc trưng của Việt Bắc. Con người cần cù và tài hoa ấy thật đáng "nhớ" vì như Nguyễn Đình Thi đã từng ca ngợi: "Tay người như có phép tiên – Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ". Thế là cùng với chiếc nón bài thơ của xứ Huế được nói đến trong dân ca, ta biết thêm chiếc nón đan bằng sợi giang của Việt Bắc qua bài thơ Tố Hữu.
Câu thơ "Nhớ cô em gái hái măng một mình" là câu thơ hay ở vần điệu. Sự hiệp vần: "gái – gái" (vần lưng) và cách sử dụng phụ âm "m" liên tiếp của các từ "măng – một – mình" tạo cho câu thơ đa thanh, mang tính nhạc hấp dẫn. Cô gái Việt Bắc trẻ trung, xinh tươi, lạc quan yêu đời, đi hái măng giữa rừng vầu rừng nứa một mình trong khúc nhạc rừng, tuy chỉ có "một mình" mà chẳng cảm thấy lẻ loi cô đơn. Con người ấy đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Giữa một không gian nghệ thuật đầy màu sắc và âm thanh của suối rừng, cô gái Việt Bắc xuất hiện thật hồn nhiên và đáng yêu lạ! Câu kết của đoạn thơ: "Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung" nói lên vẻ đẹp tâm hồn người Việt Bắc. "Ai" là đại từ phiếm chỉ gợi lên bao hoài niệm, bâng khuâng nghĩa tình thủy chung. Tiếng hát ân tình thủy chung giữa "ta" với "ai" được thử thách trong cay đắng ngọt bùi, trong máu lửa, "mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng" nên không bao giờ có thể quên được.
Đoạn thơ của Tố Hữu viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc là đoạn thơ tràn đầy tình cảm nhớ nhung và thương mến với bao niềm tự hào đối với Việt Bắc "Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa", và chiến khu bất khả xâm phạm "Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù". Có thể nói, Tố Hữu không chỉ ca ngợi Việt Bắc mà còn viết nên những vần thơ đẹp nhất ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong lửa đạn. Đoạn thơ thấm đẫm tình người. Nỗi nhớ thiết tha đã thấm sâu vào cảnh vật, vào lòng người – kẻ ở người về. Vần thơ lục bát với âm điệu ngọt ngào, bồi hồi như câu hát giao duyên "mình – ta" thuở nào. Chữ "nhớ" được điệp lại nhiều lần diễn tả tình thương nỗi nhớ vơi đầy dào dạt...
"Việt Bắc" là một trong những bài thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu. Đoạn thơ trên tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của "Việt Bắc". Ngòi bút nghệ thuật mang tính kế thừa và sáng tạo độc đáo, từ âm điệu trữ tình ca dao đến tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh và người đều đẹp và đáng yêu mang sức sống và khí thế của thời đại mới. Cấu trúc đoạn thơ mang vẻ đẹp tứ bình cổ điển, chặt chẽ, cân xứng, hài hòa cho ta nhiều ấn tượng và cảm xúc thẩm mĩ. Thơ là tấm lòng, tiếng lòng. Đoạn thơ trên đây là tấm lòng, tiếng lòng của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc "thủ đô gió ngàn".