1. Hồ Xuân Hương - Bà Chúa Thơ Nôm
Hồ Xuân Hương - tên đã trở thành biểu tượng của thơ Nôm, là một nhà thơ đặc sắc. Bằng phong cách thơ vừa thanh lịch vừa dân dụ, bà được gọi là Bà Chúa Thơ Nôm. Bà là một trong những nhà thơ độc đáo, góp phần quan trọng vào văn hóa Việt Nam, với tình yêu sâu nặng đối với quê hương, gia đình và mảnh đất này.
Tác phẩm của bà, mặc dù đã mất nhiều, nhưng những bài thơ chữ Nôm truyền miệng vẫn giữ nguyên giá trị. Tập thơ 'Lưu Hương Kí' là biểu hiện cho tình cảm của bà đối với quê hương, đất nước, gia đình. Thơ của bà không chỉ thể hiện cái tôi mạnh mẽ mà còn là nguồn cảm hứng đầy chất lửa.
Đặc trưng của thơ Hồ Xuân Hương là sự đầy nhiệt huyết và không kìm kẹp. Bà luôn tràn đầy cảm xúc, có lúc giận dữ, có lúc mặn nồng. Những tác phẩm tiêu biểu như 'Thơ Tự Tình', 'Bánh Trôi Nước', 'Mời Trầu',... là những bức tranh tuyệt vời về cuộc sống và tâm hồn của Hồ Xuân Hương.


2. Sương Nguyệt Anh
Sương Nguyệt Anh, tên thật Nguyễn Thị Khuê (1864-1921), nổi tiếng với nhiều bút danh như: Nguyệt Nga, Xuân Khuê, Nguyệt Anh,… Bà là nhà thơ và là chủ bút nữ đầu tiên trong thơ ca Việt Nam. Tờ báo nữ giới do bà chủ trì là tờ báo đầu tiên nói về phụ nữ được xuất bản tại Sài Gòn.
Sương Nguyệt Anh, con gái của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, sinh tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bà đóng góp tích cực trong việc nâng cao dân trí, khuyến khích phát triển công nông thương, và đặc biệt là đề cao vai trò của phụ nữ trong xã hội.
Trong sáng tác, bà để lại nhiều tác phẩm như: 'Vịnh Ni Cô', 'Đoan Ngọ Nhật Điếu Khuất Nguyên', 'Chinh Phụ Thi', 'Tức Sự',… và nhiều bài vè như: 'Vè Thầy Hỷ', 'Vè Tiểu Yêu', 'Vè Chơi xổ số',…


3. Bà Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh Quan, tên thật Nguyễn Thị Hinh (1805-1848), là một nhà thơ nữ nổi tiếng thời cận đại. Sinh tại phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, Hà Nội, bà là con của Nguyễn Lý và là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích. Bà kết hôn với Lưu Nghị, một quan nhỏ, và có cuộc sống gia đình đầy biến cố.
Dưới thời vua Minh Mạng, bà được mời vào kinh giữ chức Cung Trung Giáo Tập để dạy học cho các công chúa và cung phi. Sau khi chồng mất, bà rời kinh giữ chức, về Nghi Tàm và sống đến khi qua đời. Bà để lại nhiều bài thơ nổi tiếng như: 'Chiều Hôm Nhớ Nhà', 'Qua Đèo Ngang', 'Cảnh Hương Sơn', 'Tức Cảnh Chiều Thu',…


4. Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh (1942-1988), nữ thi sĩ nổi tiếng thế kỷ XX, được biết đến với nhiều tác phẩm như: 'Sóng, Thuyền và Biển', 'Thơ Tình Cuối Mùa Thu', và 'Tiếng Gà Trưa'. Tên thật Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6/10/1942 tại làng La Khê, xã Văn Khê, tỉnh Hà Tây. Xuân Quỳnh lớn lên trong môi trường gia đình đầy nghệ thuật và tinh thần đồng điệu với môi trường văn hóa xã hội.
Thơ của Xuân Quỳnh phản ánh đầy đủ cảm xúc, từ niềm hạnh phúc đến những khát khao, đau khổ. Những tác phẩm nổi tiếng như 'Hoa Cỏ May', 'Thuyền và Biển', 'Tự Hát', 'Nói Cùng Anh',... đều thể hiện sự đằm thắm và sâu sắc của một phụ nữ vừa và mạnh mẽ. Các bài thơ của bà đã được phổ nhạc bởi nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu và đưa vào sách giáo khoa phổ thông Việt Nam.


5. Lâm Thị Mỹ Dạ
Lâm Thị Mỹ Dạ, sinh ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, là nhà thơ, phóng viên, biên tập viên. Năm 1978-1983, bà học viết văn tại trường Nguyễn Du. Sau đó, bà làm phóng viên và biên tập viên cho tạp chí Sông Hương (hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế). Bà là ủy viên ban chấp hành hội văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế, hội viên hội nhà văn Việt Nam, ủy viên hội đồng thơ hội nhà văn Việt Nam khóa V, ủy viên ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam khóa III. Hiện bà sống tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, là vợ nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Những giải thưởng của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ bao gồm giải A thơ của ủy ban toàn quốc các hội liên hoan văn học nghệ thuật Việt Nam (1999), giải Nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ (1971-1973), giải A thơ giải thưởng văn học nghệ thuật cố đô (1998-2004), giải thưởng văn học hội nhà văn Việt Nam cho tập thơ bài thơ không năm tháng, giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007 với 3 tập thơ: Cốm non, Đề tặng một giấc mơ, Bài thơ không năm tháng. Năm 2005, tập thơ Cốm non của bà được dịch sang tiếng Anh và xuất bản tại Hoa Kỳ.


6. Phan Thị Thanh Nhàn
Phan Thị Thanh Nhàn, nhà thơ nổi tiếng Việt Nam thế kỷ XX, quê ở xã Tứ Liên, huyện Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Là Ðảng viên Ðảng Cộng sản Việt Nam và hội viên hội nhà văn Việt Nam, bà từng là ủy viên ban chấp hành hội từ 2001 đến 2005. Nổi tiếng với tác phẩm 'Hương thầm,' đã được nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ nhạc vào năm 1984, Phan Thị Thanh Nhàn làm thơ từ đầu những năm 1990 và đã đăng trên nhiều tờ báo. Bà còn tham gia viết báo, truyện thiếu nhi và truyện ngắn.
Những giải thưởng của nhà thơ gồm giải A hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội (1974), giải nhì cuộc thi thơ báo văn nghệ (1969), giải A nhà xuất bản Kim Ðồng (1995) cho tác phẩm 'Bỏ trốn,' giải C nhà xuất bản Kim Ðồng (1982) cho tác phẩm “Tuổi trăng rằm”,... Tác phẩm tiêu biểu: Làm anh, Hương thầm, Xóm đê ngày ấy, Bỏ (truyện thiếu nhi), Con đường ?(thơ),...


7. Anh Thơ
Anh Thơ, tên thật là Vương Kiều Ân, sinh năm 1921 tại thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương trong một gia đình truyền thống nho học. Ở mười hai tuổi, bà được bố đưa về quê nội ở thị xã Phủ Lạng Thương, ven sông Thương, vùng đất hiền hòa và thơ mộng. Tại đây, sự nghiệp thi ca của nữ sĩ bắt đầu hình thành và phát triển. Anh Thơ là một trong những nhà thơ nổi tiếng của thơ ca Việt Nam thời kỳ đó.
Bà đã gửi tập thơ đầu tay mang tên 'Bức tranh quê' để tham dự và đoạt giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn. Với vẻ độc đáo hiếm có, tập thơ 'Bức tranh quê' đã đánh dấu sự đa dạng của một phương hướng mới trong thơ Việt thế kỷ XX. Bà được nhìn như một bức tranh tĩnh vật bằng thơ trước cách mạng.
Những tác phẩm chính trong sự nghiệp sáng tác của bà bao gồm: 'Răng đen,' 'Cuối mùa hoa,' 'Bức tranh quê,' 'Từ bến sông Thương,' 'Tiếng chim tu hú,'... Với những đóng góp cho phong trào thơ mới, bà được ca ngợi như một cô nữ sĩ xinh đẹp nổi tiếng nhất đất Kinh Bắc.


8. Đoàn Thị Lam Luyến
Đoàn Thị Lam Luyến, sinh năm 1953, là nhà thơ và đồng thời là hội viên hội nhà văn Việt Nam, quê quán tại xã Anh Dũng, huyện Phù Tiên, nay thuộc huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay, bà là tổng thư ký hiệp hội quyền sao chép của Việt Nam. Bà sớm trở nên nổi tiếng từ những thập niên 80, 90 của thế kỷ 20 với tập thơ đầu tay 'Lỡ một người con gái,' nhận được sự đón nhận và yêu quý từ nhiều độc giả.
Giải thưởng của nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến bao gồm: giải thưởng thơ của nhà xuất bản hội nhà văn năm 1995, giải thưởng cuộc thi thơ báo văn nghệ 1989-1990. Một số bài thơ tiêu biểu của bà gồm: 'Đa mang,' 'Đà Nẵng,' 'Đàn bà,' 'Đêm cành đa,' 'ốc đảo,'...


9. Ý Nhi
Nhà thơ Ý Nhi, tên thật là Hoàng Thị Ý Nhi, sinh năm 1944 tại thị xã Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình truyền thống về văn hóa nghệ thuật. Bà tốt nghiệp khoa ngữ văn tại Đại học Tổng hợp Hà Nội vào năm 1968, làm cán bộ biên tập tại nhà xuất bản Hội Nhà văn. Hiện nay, bà đang sống và tiếp tục sự nghiệp sáng tác tại TP. Hồ Chí Minh.
Bà nhận giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985 với tác phẩm 'Người đàn bà ngồi đan.' Cùng với nhà thơ Nguyễn Duy, Thanh Thảo, nhà thơ Ý Nhi là một trong những tác giả trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, nhưng thực sự nổi bật sau chiến tranh với cách tân hiện đại và làm mới thơ Việt Nam về cả nội dung và hình thức. Thơ của bà giản dị, trầm lắng, thiết tha và đậm chất triết luận. Một số tác phẩm tiêu biểu của bà gồm: 'Ngày thường,' 'Cây trong phố chờ trăng,' 'Nỗi nhớ con đường,' 'Đến với dòng sông' (1978),...


10. Ngân Giang
Ngân Giang (1916 – 2002), tên thật Đỗ Thị Quế, là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong thơ ca Việt Nam. Bà sáng tác nhiều bài thơ theo hướng thơ Đường, nổi tiếng với những tác phẩm như: Xuân chiến dịch, Trưng Nữ Vương, Bạch Đằng giang,... Bà sinh ra trong một gia đình Nho học tại phố Hàng Trống, Hà Nội, nhưng quê gốc của bà ở thôn Hướng Dương, Thường Tín, Hà Tây.
Khác với nhiều nhà thơ lãng mạn cùng thời, chịu ảnh hưởng của văn chương phương Tây, Ngân Giang vẫn trung thành với thơ Đường và thể hiện tinh thần dân tộc, chất quê hương qua các đề tài như xóm làng, đất lạnh, chợ chiều, quạnh,... với cảm xúc nồng thắm và hương vị buồn. Những tác phẩm tiêu biểu của nữ sĩ Ngân Giang bao gồm: Tiếng vọng sông Ngân, Những ngày trong hiến binh Nhật, Giọt lệ xuân (nhật ký và thơ dưới bút danh Hạnh Liên), Ba tập thơ Ngân Giang,...

