1. Ngô Quyền (898 – 944)
Ngô Quyền, ngày sinh 12/3 năm Đinh Tỵ (17/4/898) tại Đường Lâm, Ái Châu. Cha là Ngô Mân - chức châu mục Đường Lâm. Ngô Quyền được mô tả là anh hùng tuấn kiệt, 'có trí dũng'. Ông còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương, là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 937, sau khi Dương Đình Nghệ bị sát hại, Ngô Quyền đánh bại Kiều Công Tiễn, người đã bỏ chạy sang nhà Nam Hán. Năm 938, Ngô Quyền đánh chiếm thành Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn.
Một chiến tích nổi bật của Ngô Quyền là trận đánh trên sông Bạch Đằng, nơi ông tận dụng thủy triều và chiến thuật thông minh để đánh bại quân Nam Hán. Trận đánh này kết thúc Bắc thuộc và mở ra thời đại phong kiến đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
2. Lý Thường Kiệt (1019 - 1105)
Lý Thường Kiệt, vị tướng tài xuất sắc đầu tiên mà chúng tôi muốn đề cập. Ông tên thật là Ngô Tuấn, người xuất thân từ làng Bắc Biên, xã Phúc Xá (nay thuộc xã Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội), sau đó ông dời nhà về định cư tại phường Thái Hòa (nay thuộc nội thành Hà Nội).
Ngô Tuấn, tự là Thường Kiệt, sở hữu tài năng về cả nội và ngoại giao. Nhờ vào chiến công lớn trong việc đánh bại quân nhà Tống trong giai đoạn 1075 - 1077, ông được triều đình trọng thưởng. Thêm vào đó, ông còn được phép kế họ của Hoàng Đế nhà Lý đương thời, kết quả là ông ghép họ và tên tự thành Lý Thường Kiệt. Sự kết hợp này đã trở thành quen thuộc đến mức nhiều người hậu sinh quên mất cả họ và tên thật của ông. Ông sinh vào năm Kỷ Mùi (1019) và ra đi vào năm Ất Dậu (1105), hưởng thọ 86 tuổi.
Theo nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần, Lý Thường Kiệt không chỉ là một bậc danh tướng xuất sắc trong lịch sử quân sự, mà còn là linh hồn của những chiến công lớn nhất trong thế kỷ thứ XI. Trong lĩnh vực chính trị, ông là đấng đại danh thần, là nguồn tin cậy và vững chắc của nhà Lý, đặc biệt là dưới thời trị vì của Hoàng Đế Lý Nhân Tông (1072-1127). Ngoài ra, trong lịch sử văn học, Lý Thường Kiệt còn được biết đến là một nhà văn có tác phẩm nổi tiếng như bài thơ Nam Quốc Sơn Hà - một tác phẩm thiêng liêng không kém giá trị so với bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước nhà.
3. Phùng Hưng ( ? - 791 )
Theo những câu chuyện lịch sử, vào thời điểm đó, triều đình nhà Đường ở Trung Quốc trên đà suy yếu. Tận dụng cơ hội này, khi quân lính ở Tống Bình nổi loạn, vào năm 766, Phùng Hưng đã khởi xướng cuộc nổi dậy lớn nhằm đối phó với chính quyền áp bức của nhà Đường.
Khởi nghĩa do Phùng Hưng lãnh đạo đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ nhân dân khắp Giao Châu. Ban đầu, ba anh em họ Phùng - Đô Quân, Đô Bảo, và Đô Tổng, đã chiếm đóng Đường Lâm và mở rộng vùng lãnh thổ xung quanh Phong Châu, xây dựng thành một căn cứ chống lại kẻ thù.
Trận chiến giữa quân của Phùng Hưng và quân nhà Đường diễn ra dữ dội, khiến nhiều binh sĩ địch hy sinh. Cao Chính Bình, tướng nhà Đường, cố thủ trong thành Tống Bình (nay là Hà Nội), nhưng không thể chống cự. Vào tháng 4 năm 791, Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh tiến công vây hãm thành Tống Bình.
Cuộc chiến khốc liệt, đối thủ chết chóc, Cao Chính Bình phải cầu xin ân xá trong thành, lo lắng đến nỗi bị ốm và chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì và vào phủ Đô hộ, kiểm soát toàn bộ đất nước. Sau khi qua đời, Phùng Hưng được tôn làm Bố Cái Đại Vương.
4. Quang Trung (1753 - 1792)
Quang Trung có tên thật là Nguyễn Huệ, được biết đến với cái danh Quang Trung Hoàng Đế hay Bắc Bình Dương, là Hoàng Đế thứ hai của nhà Tây Sơn. Ông sinh năm 1753 và từng là lãnh tụ xuất sắc của phong trào nông dân thế kỷ XVIII, trở thành anh hùng dân tộc vĩ đại. Trong trận đánh ở Ngọc Hồi, Đống Đa, quân Tây Sơn giành chiến thắng lớn, đánh tan đội quân Thanh như một núi. Tướng Thanh là Sầm Nghi Đống đã tự tử, kéo theo nhiều bộ hạ tự sát.
Nguyễn Huệ đã đóng góp quan trọng vào sự thống nhất đất nước trong thời kỳ của triều đại Tây Sơn. Sau 20 năm chiến đấu không ngừng và 3 năm trị vì, khi tình hình quốc gia bắt đầu ổn định, Quang Trung đột ngột qua đời ở tuổi 39.
Theo Việt Nam sử lược, Nguyễn Huệ có ý định đòi lại vùng đất mất từ trước, nhưng trước khi thực hiện được, ông đã mất do bệnh. Dù cuộc đời ngắn ngủi, sự nghiệp của Nguyễn Huệ vẫn lấp lánh với những chiến công ấn tượng và tầm ảnh hưởng thần tốc, đẩy lùi những đại quân xâm lược.
5. Trần Hưng Đạo (1230 - 1300)
Anh hùng Trần Hưng Đạo, tên thật Trần Quốc Tuấn, hay còn gọi là Hưng Đạo Vương, Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương, là một trong những nhà quân sư xuất sắc nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu vua Trần Thái Tông, quê ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Hà Nam Ninh (nay thuộc tỉnh Nam Định). Năm sinh của ông không chính xác, có tài liệu cho là năm 1228, có tài liệu thì cho là năm 1230 hay 1232.
Ông qua đời vào ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 5 tháng 9 năm 1300), sống hơn 70 tuổi. Đến nay, nhân dân vẫn tôn thờ ông tại Đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương. Ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông (1257 - 1288), Trần Hưng Đạo góp phần quan trọng vào sự thịnh vượng của triều đại Trần. Đại Việt sử ký toàn thư viết rằng: “tiếng vang đến phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi thẳng tên”.
Theo sử gia Nguyễn Huệ Chi, Trần Hưng Đạo là “thiên tài quân sự có tầm chiến lược, và là một anh hùng dân tộc hàng đầu của nhà Trần”. Ông luôn theo đuổi tư tưởng lấy sức mạnh của nhân dân làm nền tảng cho chế độ.
6. Lê Trọng Tấn (1914 -1986)
Đại tướng Lê Trọng Tấn, tên thật Lê Trọng Tố, người làng Nghĩa Lộ, thôn An Định (cũ), xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), là một trong những Đại tướng xuất sắc của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông nổi tiếng với tài năng chỉ huy xuất sắc, dẫn dắt quân đội chiến thắng nhiều trận đánh quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Chiến công của Đại tướng Lê Trọng Tấn ghi dấu ấn mạnh mẽ trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là người chỉ huy quân đánh phía Nam vào Mường Thanh, bắt sống tướng De Castries trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1975. Ông cũng đứng đầu các chiến dịch quân sự quan trọng như biên giới (1950), Hòa Bình (1951), Tây Bắc (1952), Thượng Lào (1953), Đường 9 - Nam Lào (1971), Trị Thiên (1972), Đà Nẵng (1975), Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975...
7. Võ Nguyên Giáp (1911 - 2013)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngày sinh 25/08/1911, ngày mất 4/10/2013 (sau vua Quang Trung - Nguyễn Huệ 158 năm). Ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân) - một nhà nho đức độ và mẹ là bà Nguyễn Thị Kiên ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã xuất sắc hoàn thành trọng trách của mình không chỉ qua các trận đánh và chiến dịch, mà còn là trong cả hai cuộc kháng chiến chống lại hai siêu cường Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ.
Chiến công lịch sử của ông được chứng nhận thông qua Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) và Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc bằng thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1975).
8. Anh hùng Văn Tiến Dũng (1917-2002)
Chủ tịch Quân ủy Văn Tiến Dũng (1917-2002), nguyên: Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, là một vị tướng tài ba, mưu lược, nhà quân sự xuất sắc của dân tộc Việt Nam.
Những năm 1951-1953, dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Đại đoàn Văn Tiến Dũng, Đại đoàn 320 (một trong những đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam) đã cùng bộ đội, dân quân du kích các địa phương đánh hàng trăm trận lớn nhỏ, tiêu diệt, giam chân một lực lượng lớn quân cơ động của địch, góp phần làm đảo lộn thế chiến lược của thực dân Pháp trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, làm thất bại âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của địch.
Tháng 11-1953, Bộ Chính trị quyết định điều động đồng chí Thiếu tướng Văn Tiến Dũng, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 320 về làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong những ngày diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, theo sự phân công của Bộ Tổng Tư lệnh, đồng chí Văn Tiến Dũng đã cùng đồng chí Nguyễn Chí Thanh tham mưu, giúp Bộ Chính trị và Trung ương Đảng chỉ đạo chiến trường đồng bằng, đồng thời tổ chức huy động sức người, sức của chi viện cho Mặt trận Điện Biên Phủ.
Nếu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tài thao lược của đồng chí Văn Tiến Dũng thể hiện ở tài cầm quân xông pha nơi trận mạc trong lòng địch hậu, thì trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tên tuổi của đồng chí lại gắn với những chiến dịch lớn mang tính chiến lược. Tiêu biểu như Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (4-1975), với vai trò là Tư lệnh, đồng chí đã cùng Bộ Tư lệnh chiến dịch quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”; đánh chiếm Sài Gòn nhanh gọn nhưng phải đảm bảo cho thành phố ít bị tàn phá, hạn chế thấp nhất thiệt hại về người và của.
Với công lao và thành tích hoạt động cách mạng, Chủ tịch Quân ủy Văn Tiến Dũng được Đảng, Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương cao quý khác.
Ngày 17-3-2002, Chủ tịch Quân ủy Văn Tiến Dũng đã ra đi ở tuổi 85, để lại niềm tiếc thương sâu sắc trong lòng đồng chí, đồng đội, đồng bào và chiến sỹ cả nước. Cùng với Chủ tịch Quân ủy Võ Nguyên Giáp, ông là một trong hai vị Chủ tịch Quân ủy chiến lược của cách mạng Việt Nam được cả thế giới biết đến
9. Nguyễn Chí Thanh (1914 - 1967)
Chủ tịch Quân ủy Nguyễn Chí Thanh tên khai sinh là Nguyễn Vịnh, sinh ra trong một gia đình bần nông tại thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Với lòng yêu nước, không chấp nhận sự bất công, từ thời tuổi trẻ, Nguyễn Vịnh đã cùng thanh niên trong làng đấu tranh chống bọn cường hào và tham gia phong trào bình dân. Đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương lúc 23 tuổi, sau đó được cử làm Bí thư chi bộ ở địa phương.
Trải qua nhiều nhà lao của thực dân Pháp ở Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột và vượt ngục thành công, từ cao trào “Kháng Nhật cứu nước” cho đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí hoạt động ở miền Nam Trung Bộ, được cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và giữ chức Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ.Sau ngày toàn quốc kháng chiến, đồng chí được giữ nhiều cương vị quan trọng của Đảng và Nhà nước: Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên, Bí thư Phân khu ủy Bình-Trị - Thiên; Bí thư Liên khu ủy Liên khu 4, Phó Bí thư Tổng Chính ủy; Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Bộ Tổng Tư lệnh.
Tại Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2/1951), đồng chí được Trung ương cử vào Bộ Chính trị. Từ đầu năm 1961, Chủ tịch Quân ủy Nguyễn Chí Thanh được giao nhiệm vụ Trưởng Ban Công tác Nông thôn Trung ương. Từ tháng 10/1964 đến trước khi qua đời, Chủ tịch Quân ủy Nguyễn Chí Thanh giữ cương vị Bí thư Trung ương Cục miền Nam kiêm Chính ủy các lực lượng vũ trang Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.Trên bất kỳ cương vị nào, ở những mặt trận khó khăn nhất, trong những thời điểm nóng bỏng nhất, Chủ tịch Quân ủy Nguyễn Chí Thanh đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở hai miền đang ở giai đoạn quyết liệt, Chủ tịch Quân ủy Nguyễn Chí Thanh đột ngột từ trần sau một cơn đau tim nặng. Đồng chí đã tạ thế hồi 9 giờ sáng 6/7/1967.
10. Đồng chí Lê Đức Anh (1920 - 2019)
Chủ tịch nước Lê Đức Anh sinh ngày 1/2/1920 tại Phú Lộc - Thừa Thiên Huế. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của ông được ghi lại trong cuốn hồi ký mang tên 'Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng' của Nguyên Chủ tịch nước - Đại tướng Lê Đức Anh.
Năm 1937, ông bắt đầu hoạt động cách mạng và từ năm 1945, đồng chí Lê Đức Anh tham gia Việt Nam Giải phóng quân, nắm giữ các chức vụ quan trọng trong lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông có những đóng góp quan trọng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Vào tháng 2/1964, ông quay ngược vào miền Nam để tăng cường lực lượng và tham gia chiến trường, sau đó giữ nhiều vị trí quan trọng như Tư lệnh Quân khu 9, Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam. Ông được phong thương hiệu từ Đại tá lên Trung tướng, tiếp theo là Thượng tướng và Đại tướng.
Năm 1980, ông được phong hàm Thượng tướng và năm 1984, thăng tiến thành Đại tướng. Ông đảm nhận nhiều trách nhiệm quan trọng như Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư thứ nhất Đảng uỷ Quân sự Trung ương.
Trong sự nghiệp cách mạng và quân sự, Đại tướng Lê Đức Anh được tặng nhiều danh hiệu cao quý như Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất,...