1. Lê Long Đĩnh - Kẻ Bạo Ngược
Lê Long Đĩnh (986 - 1009), con trai thứ 5 của vua Lê Đại Hành và là vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì 4 năm từ 1005 - 1009. Cái chết bí ẩn của ông ở tuổi 24 đã kết thúc nhà Tiền Lê và quyền lực rơi vào tay nhà Lý. Theo sử sách, ông được mô tả là một vị vua dâm đãng, bạo ngược và độc ác, thường hay chém giết, được coi là hình mẫu của một hôn quân.
Trong sử sách, Lê Long Đĩnh được nhắc đến là một ông vua dâm đãng, tàn bạo và độc ác, được coi là một biểu tượng của hôn quân. Mặc dù có ý kiến cho rằng một số hành vi của ông có thể là do thêu dệt, nhưng nhiều người tập trung vào vấn đề dâm loạn quá mức, dẫn đến việc bị bệnh trĩ, là lời đồn dân gian thời Hậu Lê.
Có ý kiến cho rằng, sự tàn nhẫn của Lê Long Đĩnh có thể đã bị các sử gia đời sau nói quá lên. Thậm chí trong Tống sử (bộ sử do Trung Quốc soạn thảo, tập hợp các tài liệu từ nhà Tống đương thời) cũng có đoạn viết rằng 'Chí Trung mới 26 tuổi nhưng tàn nhẫn bạo ngược bất pháp, người trong nước không theo'. Điều này cho thấy tiếng ác của Lê Long Đĩnh đã được biết đến cả ở nước láng giềng, không thể bị xem là giả mạo.
Lê Long Đĩnh trở nên nổi tiếng với các thú vui tàn ác, như việc đặt mía lên đầu nhà sư và róc cho đến khi máu tóe, hay tra tấn những tù binh bằng cách thức man rợ. Do lối sống dâm dục quá mức, ông mắc phải bệnh trĩ nặng, đến nỗi không thể ngồi được. Ngay cả khi tham gia các buổi chầu, Lê Long Đĩnh cũng phải nằm xuống vì đau đớn.
Ngày nay, Lê Long Đĩnh được tưởng nhớ và thờ cúng cùng với vua cha Lê Đại Hành tại 4 địa điểm:
- Đền Vua Lê Đại Hành tại khu di tích Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình)
- Đền Lăng tại quê hương Liêm Cần thuộc Thanh Liêm (Hà Nam)
- Đình Yến tại xã Thanh Hà thuộc Thanh Liêm (Hà Nam)
- Di tích quốc gia Đình An Lãng, xã Văn Tự, Thường Tín, Hà Nội.


2. Trần Dụ Tông - Bắt Đầu Sự Sụp Đổ Của Nhà Trần
Trần Dụ Tông (1336 – 1369) là vị vua thứ 7 của nhà Trần trị vì 28 năm từ 1341-1369. Giai đoạn này chứng kiến sự khởi đầu của quá trình suy tàn của triều đại nhà Trần.
Trần Dụ Tông đam mê đánh bạc, thường chiêu tập những người giàu vào cung để tham gia các cuộc đánh bạc cùng với vua. Ngoài ra, ông cũng mê đàn hát và thích uống rượu, thường xuyên tổ chức tiệc tùng với các vương hầu và công chúa, nơi họ biểu diễn tuồng và nhận thưởng cho những người diễn xuất xuất sắc, cũng như thăng chức cho những người uống rượu và thắng vua.
Với triều chính sa sút và sự bỏ bê nông nghiệp trong nhiều năm, triều đại bị mất mùa, thuế nặng và thu gom lụt lội dẫn đến suy giảm về nhân sự và tài chính. Sau khi Trần Dụ Tông qua đời, nhà Trần tiếp tục chìm đắm vào sự suy tàn, đưa đất nước vào bờ vực thảm họa.


3. Lý Cao Tông - Phá Hủy Cơ Đồ Nhà Lý
Lý Cao Tông (1173-1210) là hoàng đế thứ 7 của nhà Lý, lên ngôi từ năm 3 tuổi và trị vì đến khi trưởng thành từ 1175-1210. Thời kỳ của ông chứng kiến sự suy tàn không thể đảo ngược của nhà Lý hay còn gọi là Cao Tông Trung Suy. Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại 'Vua chơi bời quá mức, chính trị mập mờ, giặc cướp trỗi dậy, đói kém kéo dài, vì thế cơ nghiệp nhà Lý suy sụp'.
Lý Cao Tông
Sau 37 năm trị vì, Lý Cao Tông đã chứng kiến sự suy yếu không thể đảo ngược của nhà Lý do lối sống thảnh thơi của mình. Trước khi qua đời, ông đã ban chiếu hối lỗi để tạ tội với thần dân.


4. Lê Uy Mục – “Vua quỷ”
Lê Uy Mục (1488 –1509) là vị vua thứ 8 của nhà Lê Sơ. Ông là một vị hoàng đế tàn bạo và hoang dâm bậc nhất trong lịch sử Việt Nam. Người đời thường gọi ông là Quỷ Vương.
Lê Uy Mục khi mới lên ngôi vua đã giết hại những người trước đó phản đối việc ông lên ngôi như Thái hoàng Thái hậu, lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ, Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật. Ông không quan tâm đến chính sự, mỗi đêm ông uống rượu với các cung nhân, khi say thì giết chết tất cả họ. Triều chính thời ông trị vì rơi vào tay ngoại thích và bọn hoạn quan, khiến cung đình bẩn thỉu. Ông giết hại các đại thần, nghi kị tông thất, giết cả anh em cha chú của mình, từ quần thần đến thân thuộc đều lo sợ, càng dâng cao quyết tâm phản loạn.
Một làn sóng bất bình trong dân chúng và hàng ngũ quan lại trước sự tàn ác của Uy Mục. Sau đó, Giản Tu Công Lê Oanh lật đổ và giết chết vị vua này sau 4 năm trên ngôi.


5. Vua hèn Trần Phế Đế
Trần Phế Đế (1361 – 1388) là vị vua thứ 11 của nhà Trần nước Đại Việt. Ông lên ngôi từ năm 1377 đến 1388. Ông là con thứ của vua Trần Duệ Tông và là cháu gọi Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông bằng bác. Trong suốt thời gian Trần Phế Đế ở ngôi, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông nắm thực quyền cai trị quốc gia.
Ông được nhận xét là 'Vua u mê, nhu nhược, không làm nổi việc gì, uy quyền ngày càng về tay kẻ dưới, xã tắc lung lay, đến thân mình cũng không giữ được' (theo Đại Việt sử ký toàn thư). Sự bất lực và nhu nhược của ông khiến tình hình trở nên không thể cứu vãn.
Thế lực nhà Trần đã tụt dốc thảm hại trong thời gian trị vì của Trần Phế Đế: giặc Chiêm Thành tràn vào cướp phá ông chẳng để tâm mà chỉ lo cất giấu của cải, tăng sưu thuế để cứu kho tàng trống rỗng của triều đình... ông để cho Hồ Quý Ly lộng hành, dẫn đến sự sụp đổ từng bước của nhà Trần.


6. Lê Chiêu Thống - Cõng rắn cắn gà nhà
Lê Chiêu Thống (1765 – 1793) tên thật là Lê Duy Khiêm, là vị hoàng đế thứ 16 và cũng là vị vua cuối cùng của hoàng triều Lê. Ông giữ ngôi từ khoảng cuối tháng 7 âm lịch năm 1786 đến đầu tháng 1 năm 1789.
Sau nhiều biến cố, Lê Chiêu Thống đã sang cầu viện nhà Thanh, đem quân sang đánh Quang Trung với hy vọng trở lại ngôi Vua. Sau khi Quang Trung kéo quân ra Bắc Hà quét sạch 29 vạn quân Thanh, Lê Chiêu Thống lại phải theo đám bại quân chạy sang Trung Quốc. Vì không thể thực hiện được mộng phục quốc, Lê Chiêu Thống thất vọng và chán nản, lâm bệnh rồi qua đời năm 1793 và được nhà Thanh chôn cất theo nghi thức tước công.


7. Lê Tương Dực – Vị vua hoang dâm
Lê Tương Dực (1495 - 1516) tên thật là Lê Oanh. Ông là vị hoàng đế thứ 9 của nhà Lê Sơ. Tự lập mình làm vua, sau khi giết chết Uy Mục, đặt niên hiệu là Hồng Thuận.
Khoảng thời gian đầu lên ngôi, Tương Dực có một số cố gắng chỉnh đốn triều chính, sửa sang giáo dục, khôi phục văn miếu, biên chép sử sách. Nhưng chẳng bao lâu sau ông lại sống sa đọa như Uy Mục trước đây. Đặc biệt, năm 1516, Tương Dực sai Vũ Như Tô xây dựng cung điện 100 nóc, lại xây công trình quy mô lớn là Cửu Trùng đài, làm nhiều cung điện quy mô hơn xung quanh, dân làm trong mấy năm trời không xong, chết hại nhiều vô số. Ông còn cho đóng chiến thuyền bắt con gái khỏa thân chèo chơi ở hồ Tây. Ngoài ra Lê Tương Dực còn cho gọi các cung nhân của triều trước vào cung để gian dâm.
Lê Tương Dực hoang chơi khiến triều chính hết sức rối loạn, loạn lạc xảy ra khắp nơi trong cả nước. Quận công Trịnh Duy Sản đã giả mượn tiếng đi đánh giặc để đem binh vào cửa Bắc Thần giết vua Tương Dực, chấm dứt 7 năm cầm quyền.


8. Khải Định - Vua lố lăng
Khải Định là vị hoàng đế thứ 12 của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925. Trong thời đại ông trị vì đất nước, Khải Định bị đánh giá là một vị vua nhu nhược trước Pháp, không quan tâm chính sự mà chỉ ham chơi bời, cờ bạc, ăn tiêu xa xỉ. Ông tự sáng chế ra những bộ y phục mới cho mình và cho cả quan hộ vệ. Ông còn rất chuộng trang điểm, ăn mặc lòe loẹt, không tuân theo y phục hoàng tộc truyền thống. Do vậy, ông thường bị đả kích trên báo chí đương thời và được dân chúng biết đến với cách gọi mỉa mai ông vua lố lăng.
Đặc biệt, trong chuyến công du sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa ở Marseille vào ngày 20/5/1922, Phan Châu Trinh đã gửi một bức thư dài trách vua Khải Định 7 tội. Trong bức thư đó, có tội 'ăn mặc lố lăng'. Không những vậy, sau khi về nước, vua Khải Định còn cho tổ chức lễ tứ tuần đại khánh rất lớn và tốn kém, bắt nhân dân khắp nơi gửi quà mừng. Sau lễ mừng thọ, ngân sách Nam triều kiệt quệ, vua Khải Định cho tǎng thêm 30% thuế điền. Tất cả chỉ để phục vụ thói quen tiêu xài và sự lố lăng của ông.


9. Đồng Khánh – con rối của người Pháp
Đồng Khánh (1864 – 1889) tên là Nguyễn Phúc Ưng Thị là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Nguyễn. Tại vị từ năm 1885 đến 1889, ông nổi tiếng là một vị vua bù nhìn thân Pháp.
Sau khi được lên làm vua, tất cả mọi việc người Pháp yêu cầu, Đồng Khánh đều răm rắp nghe theo. Không chỉ công khai thừa nhận nước Pháp là “thượng quốc”, ông vua này còn khen thưởng những quan lính Pháp “có công” đàn áp phong trào yêu nước của người Việt. Không dừng lại ở đó, Đồng Khánh còn nhượng đất để thực dân Pháp mở rộng đồn Mang Cá và ký hiệp ước biển các hải cảng quan trọng của Việt Nam là Hải Phòng và Đà Nẵng thành nhượng địa của Pháp.
Trong thời gian trị vì của ông, thực dân Pháp bắt đầu những công việc đầu tiên để thiết lập nền đô hộ kéo dài hơn 60 năm ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Để ban thưởng cho sự ngoan ngoãn của Đồng Khánh, người Pháp cho ông được hưởng thụ một cuộc sống cực kỳ xa hoa với những buổi tiệc tùng hoành tráng, những bộ trang phục khảm ngọc dát vàng…
Theo yêu cầu của Pháp, Vua Đồng Khánh đích thân ra tận Quảng Bình để dụ vua Hàm Nghi và các quan tùy tùng chống Pháp về hàng, hứa là sẽ cho cai trị 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nhưng không thành công. Thực dân Pháp cũng bố trí cho Đồng Khánh ra Bắc Hà để lấy lòng dân chúng, nhưng bị dư luận phản ứng gay gắt, nên đến Quảng Bình thì ông vua bù nhìn lấy cớ ốm đau trở về kinh đô. Cuộc đời của Đồng Khánh chấm dứt ở tuổi 25 trong sự bàng quan của người đời.


10. Mạc Mậu Hợp phá nát cơ đồ vì háo sắc
Mạc Mậu Hợp là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên ngôi năm 1562 lúc mới 2 tuổi và qua đó trở thành vua trẻ thứ hai lúc lên ngôi. Ông trị vì cho đến khi truyền ngôi cho con là Mạc Toàn năm 1592, tổng cộng 30 năm. Cuộc đời ông liên quan đến lối sống xa hoa, trụy lạc, bỏ bê triều chính, hoang dâm, hiếu sắc khiến dân chúng phẫn nộ, lầm than.
Bản tính háo sắc của Mạc Mậu Hợp đã làm đảo lộn cơ đồ của tổ tiên. Sử kể rằng Nguyễn Thị Niên, vợ tướng Bùi Văn Khuê, bị ông chiếm đoạt vì vẻ đẹp của thị tiến cung. Ông muốn giữ chị trong cung, thậm chí muốn triệu Bùi Văn Khuê về kinh để giết. Nguyễn Thị Niên sợ hãi, sai người hầu báo cho Bùi Văn Khuê. Ông ta biết và đưa quân bản bộ về giữ hạt Gia Viễn, phản đối mệnh lệnh của triều đình. Mậu Hợp mời nhưng không thành công, cuối cùng phải sai tướng đưa quân đến hỏi tội Văn Khuê. Bùi Văn Khuê đứng binh chống cự. Ngày 14/12, quân Mạc bị quân Nam triều phá, Ngọc Liễn chạy về núi Tam Đảo, quân Mạc tan tác. Vương triều Mạc chấm dứt với cái chết của Mạc Mậu Hợp.

