TOP 25 bài viết số 5 lớp 11 tốt nhất, giúp các em học sinh có nhiều gợi ý để tham khảo khi viết văn nghị luận văn học. Bài viết số 5 lớp 11 bao gồm 3 đề sau đây:
- Đề 1: Ý kiến của bạn về câu 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều'
- Đề 2: Nhận xét về hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao
- Đề 3: Phân tích thái độ của Huấn Cao đối với Viên quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù
Bài văn mẫu Lớp 11 cho Bài viết số 5 - Đề 1
Đề 1: 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều'. Anh (chị) hãy diễn đạt ý kiến của mình về câu nói trên
Dàn ý cho bài làm văn số 5 lớp 11 - Đề 1
- Theo quan điểm của một số học giả, Thúy Kiều thể hiện những hành động không phù hợp với chuẩn mực lễ nghĩa trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên, đây là một cách nhìn hẹp hòi, thiếu sâu sắc, chỉ tập trung vào bề ngoài và không hiểu rõ con người và tình huống cụ thể.
- Thực tế, Kiều là một nhân vật đầy bi kịch và đáng thương hơn là đáng trách. Vì lòng hiếu thảo, Kiều phải hy sinh hạnh phúc cá nhân và cả tương lai của mình: từ việc bán mình để chuộc cha, cho đến những khó khăn tột cùng mà cô phải trải qua.
- Cuộc đời của Kiều đầy bi thương và bất hạnh, hơn mười lăm năm phải trải qua ba lần đày dẹp trong chốn lầu xanh: “Hết nạn này lại đến nạn khác/ Ba lần xuống lầu đầy tháng năm”.
- Nguyên nhân: do chế độ phong kiến tàn ác gây ra, dù Kiều đã cố gắng đấu tranh và thậm chí tự tử nhiều lần để thoát khỏi cảnh đau khổ nhưng vẫn không thành công.
- Trong việc đọc Truyện Kiều, chúng ta nhận thấy sự tàn bạo, thiếu nhân đạo của chế độ phong kiến đối với con người, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 1 - Mẫu 1
Câu ngạn ngữ của ông cha ta xưa:
Đàn ông đừng kể chuyện của Phan Trần,
Đàn bà đừng kể về Thúy Vân, Thúy Kiều.
Câu nói kia bày tỏ sự cấm ràng phụ nữ trong xã hội cũ không được đọc những câu chuyện tình lãng mạn, đàn ông không được đọc những câu chuyện tình ủy mị, yếu đuối, ảnh hưởng tới phẩm chất nam nhi. Đó là quan điểm lạc hậu, không công bằng, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của con người.
Phan Trần kể về câu chuyện tình yêu giữa Phan Sinh và Trần Liên, vì nhớ nhung nàng mà phải đối mặt với bệnh tật rồi tự tử. Đây là tư duy không thể chấp nhận trong xã hội nam nhi lúc đó. Truyện Kiều, mặc dù là câu chuyện tình yêu lãng mạn, nhưng cũng đầy bi kịch.
Trong xã hội cũ, tư duy xã hội bị ảnh hưởng bởi triết lý của Khổng Tử, phụ nữ ít có tự do và hạnh phúc theo ý mình. Phụ nữ lúc đó sống phụ thuộc vào cha, chồng và con cái. Phụ nữ nào vượt quá ranh giới của 'Tam Tòng, Tứ Đức' thì cuộc sống của họ coi như mất giá trị trong mắt gia đình và xã hội. Tức là suốt đời họ bị kiểm soát bởi nam giới, từ khi còn ở nhà phải theo cha, lấy chồng phải theo chồng, chồng mất phải theo con. Phụ nữ trong xã hội xưa phải có cả bốn phẩm chất như: Công (biết nghề nghiệp và khôn khéo trong mọi việc), Dung (diện mạo duyên dáng, hòa nhã), Ngôn (lời nói nhẹ nhàng, lễ độ), Hạnh (tính nết hiền lành, ngoan ngoãn, đạo đức).
Để đánh giá một người phụ nữ trong xã hội cũ, tư duy của họ rất nghiêm ngặt, đôi khi tàn nhẫn. Nhưng trong truyện Kiều, Kiều đã tự quyết định về tình yêu mà không cần sự cho phép của cha mẹ, tự mình sang nhà Kim Trọng, bán thân vào chốn lầu xanh, có nhiều mối quan hệ với các đàn ông... Những hành động này hoàn toàn không được chấp nhận trong xã hội lúc đó. Nếu phụ nữ đọc được truyện này, họ sẽ bị ảnh hưởng và có tư duy không tốt, không phù hợp với lễ giáo mà ông cha truyền lại. Tất cả độc giả truyện Kiều đều cho rằng, Kiều là người đáng khinh, nhơ nhớp và mạt hạng:
'Bạc mệnh không sai khi nói về lòng trung hiếu,
Trải qua biến cố gian nan tạo nên tình cảnh cảm thấy nhục nhã,
Bán bản thân trong suốt nhiều năm,
Dễ hiểu sai chữ hiếu làm thế nào được ai,
Suy nghĩ về cuộc đời và cảm thấy chán nản với nó.'
Có thể hiểu câu nói đó theo hai cách, đồng thời là phụ nữ không nên đọc Truyện Kiều, cũng như người như Thúy Kiều Thúy Vân không thể được coi là phụ nữ. Trong xã hội ngày nay, con người đã có cái nhìn linh hoạt hơn, vì vậy Kiều là người không may, đáng thương chứ không nên trách móc.
Cửa ra vội vàng kéo rèm lại,
Bước chân nhẹ nhàng qua lối vườn trong đêm tĩnh mịch.
Phận nữ nhi giữa đêm tối sang nhà một người đàn ông bị coi là hành động sai lầm và không đạo đức, khó chấp nhận. Nhưng khi đọc kỹ, chúng ta mới hiểu rằng Kiều sang nhà Kim Trọng vào đêm khuya chỉ để thề nguyện, không có sự lợi dụng vật chất hoặc thể xác nào. Việc thề nguyện là điều không thể thiếu trong một tình yêu trong sáng.
Có nhiều người cho rằng, việc Kiều bán mình để chuộc cha là một biểu hiện của giá trị đạo đức và luân lý đang suy thoái, có nhiều cách khác để kiếm tiền chuộc cha mà lại chọn cách hạ sách nhất. Nhưng thực tế, không phải Kiều muốn bán mình để chuộc cha mà là xã hội thối nát đó đã đẩy nàng vào tình thế khó khăn, nàng cảm thấy nhục nhã và áy náy nhưng vẫn đưa ra quyết định vì lòng hiếu khí. Nàng đã làm tròn bổn phận của một con người theo quan niệm của lễ giáo cổ truyền, nhưng lại bị cái lễ giáo ấy chỉ trích.
Nếu gia đình Kiều không gặp rắc rối, nếu không có người đến mua Kiều để làm vợ, cuộc đời nàng sẽ không chìm vào cảnh khốn khó như vậy. Nàng đã cố gắng thoát ra khỏi bùn lầy nhưng càng cố gắng, nàng lại càng sâu hơn vào trong.
Chỉ khi hiểu hết những gánh nặng mà Kiều phải chịu đựng, chúng ta mới thấy sự ngưỡng mộ và tôn trọng. Nàng không chỉ là một người có tài năng và nhan sắc hoàn hảo mà còn là một người sống có phẩm chất cao quý và một tấm lòng trong sáng, cao thượng, đầy đức tính. Bằng cách mô tả nhân vật Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng nhân ái đối với những người phụ nữ không may mắn trong xã hội xưa.
Tính nhân đạo và tính vượt thời đại của Truyện Kiều được Nguyễn Du thể hiện rất sâu sắc. Chính tính vượt thời đại này đã dẫn đến sự hiểu biết hạn chế và kết luận vội vã của một số người xưa, người luôn coi lễ nghĩa của Nho giáo là tiêu chuẩn tuyệt đối trong việc đánh giá con người.
Quan niệm 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' chỉ là một quan niệm cổ xưa và sai lầm. Chúng ta không nên đánh giá Kiều thấp và thay vào đó hãy hiểu và cảm thông với nàng.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 1 - Mẫu 2
Truyện Kiều đã lâu đã được công nhận là một tác phẩm vĩ đại, đỉnh cao của văn học thơ ca tiếng Việt và thi hào Nguyễn Du đã được công nhận là một trong những nhà văn vĩ đại của thế giới. Tuy nhiên, trong quá khứ, Truyện Kiều đã bị coi là 'dâm thư' và trong dân gian có câu nói truyền miệng: Đàn bà không nên kể chuyện như Thúy Vân, Thúy Kiều. Dựa trên giá trị vĩnh cửu của Truyện Kiều, chúng ta có thể khẳng định rằng đây là một quan điểm sai lầm của một số người Nho bảo thủ.
Phiên bản đầy đủ của câu nói đó như sau:
Đàn ông không nên kể về Phan Trần,
Đàn bà không nên kể về Thúy Vân, Thúy Kiều.
Ý nghĩa của câu này là răn đe nam nữ không nên noi gương Phan Trần trong truyện thơ Phan Trần và Thúy Kiều trong Truyện Kiều, làm những điều trái với chuẩn mực đạo đức phong kiến. Các nhà Nho bảo thủ cho rằng Thúy Kiều là một cô gái hư vì đã coi thường chuẩn mực đạo đức phong kiến. Chuẩn mực đó quy định người phụ nữ phải giữ chữ trinh làm đầu. Trong khi luân lí quy định nam nữ thụ thụ bất thân, nhưng Thúy Kiều lại dám hành động không đúng lúc khi sang gặp Kim Trọng vào lúc khuya để thổ lộ lòng. Trong quãng đời mười lăm năm lưu lạc, Thúy Kiều phải trải qua nhiều biến cố nhưng những điều đó đã khiến các nhà Nho bảo thủ phê phán mà không tìm hiểu và phân tích rõ nguyên nhân.
Chúng ta nhận thấy họ đã phạm sai lầm và hẹp hòi khi đánh giá Thúy Kiều và Truyện Kiều vì Thúy Kiều là một người phụ nữ đáng thương và đáng trân trọng. Nàng không chỉ tài năng và nhan sắc hoàn hảo mà còn có phẩm hạnh cao quý hiếm có. Trong tình yêu với Kim Trọng, Thúy Kiều là một người tình tuyệt vời. Nàng đã dám vượt qua những trói buộc của lễ giáo phong kiến để tìm hạnh phúc. Điều đó thể hiện sự dũng cảm và tiến bộ của Thúy Kiều.
Hãy nhìn lại mối tình đặc biệt của Kim Trọng và Thúy Kiều, mối tình này đã góp phần làm nên quan niệm cực đoan đó. Hai người bị 'tiếng sét ái tình' đánh trúng từ phút đầu tiên gặp gỡ, để rồi sau lúc chia tay, hình bóng Kim Trọng vẫn in sâu trong tâm trí của Thúy Kiều. Tình yêu chân thành và mãnh liệt đã thúc đẩy Thúy Kiều hành động mạnh mẽ. Hành động của Thúy Kiều thực sự đáng yêu và đáng ngưỡng mộ. Dưới thời phong kiến, họ không thể chấp nhận một người phụ nữ như Thúy Kiều có tư tưởng và hành động tự do, lo sợ rằng nàng sẽ là gương mẫu xấu cho phụ nữ khác.
Thúy Kiều đã tự mình tìm đến với người yêu và tình yêu. Mặc dù là người chủ động trong việc tìm đến với Kim Trọng, nhưng Thúy Kiều luôn giữ cho mình sự đoan trang và đúng mực. Trong đêm thề nguyền đính ước, khi Kim Trọng có ý định thể hiện tình cảm, Thúy Kiều đã khéo léo nhắc nhở:
Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Phải tuồng trên bộc trong dâu,
Thì con người ấy ai cầu làm chi!
Thúy Kiều không phạm sai trái với đạo đức, nàng chỉ không tuân theo những ràng buộc phi lý, cổ hủ của chế độ phong kiến.
Nếu nhìn nhận và đánh giá tình yêu giữa Kim Trọng và Thúy Kiều theo quan niệm của thời đại hiện đại, chúng ta thấy rằng đó là một tình yêu trong sáng và hồn nhiên. Nó không bị chi phối bởi các vấn đề vật chất mà là sự giao hòa của hai trái tim, hai tâm hồn. Do đó, nó nhanh chóng trở thành lời thề vàng đá trăm năm.
Tình yêu và phẩm giá của Thúy Kiều hoàn toàn xứng đáng với những lời ca ngợi của Nguyễn Du và nhận xét của Chu Mạnh Trinh.
Với cha mẹ, Thúy Kiều là một người con hiếu thảo hiếm có. Sau khi bị vu oan, gia đình nàng tan tác. Thúy Kiều buộc lòng phải gác lại mối tình đầu trong sáng, thiết tha với Kim Trọng và quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em khỏi chốn ngục tù. Hành động này khiến mọi người đều cảm phục và thương xót.
Sau khi bước chân lên chiếc xe định mệnh, Thúy Kiều đã bước vào cuộc sống đầy gian nan. Suốt mười lăm năm lưu lạc, nàng luôn bị những thế lực đen tối áp đặt xuống bùn đất. Mọi nỗ lực thoát khỏi số phận khốn khó đều bị đánh bại. Không ai có thể trách cô gái yếu đuối như Thúy Kiều. Có lẽ, xã hội đang áp đặt lên mình trách nhiệm đối với số phận của người phụ nữ đáng thương ấy.
Để thoát khỏi cuộc sống nhục nhã tại lầu xanh, Thúy Kiều phải chấp nhận làm lẽ Thúc Sinh. Nhưng cuộc hôn nhân này không kéo dài được bao lâu khi nàng bị vợ cả của Thúc Sinh bắt cóc và đày đọa. Thoát khỏi cảnh nghèo đói, Thúy Kiều lại rơi vào cạm bẫy của Bạc Bà và Bạc Hạnh. Chịu đựng đau đớn và tuyệt vọng, nàng lên tiếng phàn nàn:
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!
Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Từ Hải yêu Thúy Kiều không phải vì nàng hiếu thảo mà vì sắc và tài. Chàng bỏ tiền chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và cưới nàng làm vợ. Mặc dù sống hạnh phúc bên người hiền nhưng Thúy Kiều vẫn không thể quên tình cũ:
Thương tiếc đoái những nghĩa cũ phai phôi,
Dù chia tay vẫn còn vương mãi trong lòng.
Xã hội trọng nam kinh nữ, quan niệm rằng: Trai thì nhiều vợ, gái chỉ nên có một chồng. Do đó, các nhà Nho dựa vào quan niệm đó để kết tội Thúy Kiều mà không xem xét kỹ về nguyên nhân thực sự đã đẩy nàng vào hoàn cảnh đau khổ.
Có lẽ chỉ Nguyễn Du mới thấu hiểu và cảm thông sâu sắc nhất với nỗi đau của Thúy Kiều, từ đó đưa ra nhận định sâu sắc, đầy chất chứa cảm xúc chua xót, đắng cay:
Phận đàn bà đau đớn thật đáng thương,
Lời rằng số phận là lời chung của mọi người!
Nguyễn Du đã bày tỏ tình cảm và tôn trọng đối với Thúy Kiều thông qua những câu thơ diễm tuyệt:
Như nàng thực hiện hiếu nghĩa,
Không gì có thể làm mờ đi vẻ đẹp ấy…
Hoa tàn vẫn còn tươi đẹp,
Trăng tan vẫn sáng hơn cả rằm xưa…
Thúy Kiều không chỉ đáng thương mà còn đáng quý. Khi đọc Truyện Kiều, chúng ta cảm thông với nỗi đau và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của cô gái tài năng ấy.
Câu 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' không chỉ là một nhận định sai lầm về nhân vật Thúy Kiều mà còn là một đánh giá không đúng về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện Kiều là một tác phẩm vĩ đại của văn học dân tộc, là đỉnh cao của thơ ca tiếng Việt, vì thế khi đánh giá Truyện Kiều, chúng ta cần phải có quan điểm khách quan, đúng đắn.
Khi đọc Truyện Kiều, chúng ta nhìn thấy sự tàn ác của chế độ phong kiến đối với phụ nữ. Một người con gái tài năng, hiếu nghĩa như Thúy Kiều lại bị coi thường như một món hàng: Mua bán thoải mái, không thiếu nơi để lưu trú. Cuộc đời của Thúy Kiều đầy gian truân, đau khổ cũng bởi sự áp đặt của xã hội đen tối. Sức mạnh của tiền bạc khiến những kẻ vô luân đẩy Thúy Kiều từ nỗi đau này sang nỗi đau khác. Trong Truyện Kiều, bức tranh về một xã hội rối ren, bất ổn, tan nát được vẽ rất rõ. Nguyễn Du đã thốt lên với nỗi đau này:
Trải qua nhiều sóng gió khó khăn,
Đau đớn lòng khi nhìn thấy những điều đó!
Truyện Kiều đạt đến đỉnh cao của nhân đạo vì nó là tiếng kêu thét về số phận của một người con gái tài năng, vẹn toàn, mà thay vì sống trong tình yêu và hạnh phúc, lại phải chịu đựng sự đau khổ, nhục nhã.
Về mặt nghệ thuật, Truyện Kiều đạt tới đỉnh cao của văn chương, đặc biệt là nghệ thuật thơ ca tiếng Việt. Nguyễn Du đã thành công xuất sắc trên nhiều phương diện như mô tả cảnh vật, tả người, thể hiện tâm lý nhân vật... Với Truyện Kiều, Nguyễn Du thực sự là đại thi hào của dân tộc Việt Nam.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 1 - Mẫu 3
“Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du, với những nét đẹp nhân cách đáng quý của Thúy Kiều và Thúy Vân, đã để lại nhiều ấn tượng tích cực trong lòng độc giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, câu 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' là một quan điểm sai lầm, chúng ta cần phải nhìn nhận đúng để hiểu sâu hơn về câu nói này.
Nguyên văn của câu nói đó là:
“Đàn ông đừng kể về Phan Trần,
Đàn bà đừng kể về Thúy Vân, Thúy Kiều.”
Ông cha ta trước kia thường có quan điểm rất nghiêm ngặt. Phụ nữ và con gái bị cấm đọc những câu chuyện tình cảm lãng mạn. Đàn ông cũng bị cấm đọc những câu chuyện tình cảm ảnh hưởng tới tính cách của họ, vì 'Đầu đội trời, chân đạp đất.' Câu nói trên được hiểu như là ông cha muốn nói rằng phụ nữ và con gái không nên đọc (đừng kể) Truyện Kiều và không nên hành động giống như Thúy Vân, Thúy Kiều vì họ không tuân theo lễ giáo phong kiến.
Quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến, theo các nhà Nho xưa, bao gồm lễ giáo phong kiến nghiêm ngặt, hạn chế quyền tự do của con người, đặc biệt là phụ nữ phải tuân thủ 'tam tòng tứ đức', phải giữ 'tam cương ngũ thường', 'công dung ngôn hạnh'... và phải nghe theo cha mẹ 'cha mẹ đặt đâu con ngồi đó'. Theo quan điểm này, Thúy Vân và Thúy Kiều đã có những hành động không phù hợp với lễ giáo phong kiến. Điển hình là việc Kiều theo đuổi tình yêu mà không được sự cho phép của cha mẹ, và việc bán mình để chuộc cha và em trai.
Trong thời đại đó, quan điểm trên có thể đúng với lễ giáo nghiêm ngặt, nhưng đó là một cách nhìn hẹp hòi. Đó là một cách đánh giá cổ hủ, sai lầm, không nhìn nhận toàn diện và khách quan về tình huống cụ thể của chị em Kiều, đặc biệt là Thúy Kiều. Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, có phẩm hạnh... Điển hình nhất là tấm lòng hiếu thảo của nàng. Nàng hy sinh tình yêu và bán mình để chuộc cha và em trai, thể hiện sự hiếu thảo đích thực. Chính những bất công, sự bóc lột của chế độ phong kiến đã gây ra những bi kịch trong cuộc đời của Kiều. Mặc dù sống trong môi trường đầy rẫy hiểm nguy và bất công, Kiều vẫn giữ vững phẩm giá cao quý của mình.
“Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay”
Thúy Kiều, dù bị mắc kẹt trong những hoàn cảnh khó khăn, luôn cố gắng tìm cách thoát khỏi lầu xanh, nhưng số phận không bao giờ tha thứ. Dù cuộc sống của nàng đầy bi thương là do xã hội tàn bạo tạo ra, nhưng nàng vẫn không quên tôn trọng mối tình đầu và gia đình. Dù số phận không công bằng, những gánh nặng không dễ dàng gánh vác, nhưng nàng vẫn làm tròn trách nhiệm hiếu thảo và tài năng của mình. Vì những lẽ đó, ý kiến 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' là sai lầm, không công bằng.
Truyện Kiều là một tác phẩm vĩ đại của dân tộc, phản ánh sự tàn bạo của xã hội phong kiến, nhấn mạnh quyền của phụ nữ bị tước đoạt. Tác phẩm này ca ngợi nhân cách của Thúy Vân, Thúy Kiều dù phải trải qua nhiều gian khổ, vẫn giữ được vẻ đẹp tinh thần, cần được tôn trọng và kính trọng.
'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' thực sự là một quan điểm sai lầm, không công bằng. Thúy Vân, Thúy Kiều là những nạn nhân của xã hội phong kiến tàn bạo, nhưng vẻ đẹp tinh thần của họ vẫn sáng rực, xứng đáng được tôn trọng. Đây là tấm lòng nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du, đồng thời cũng là vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam.
Truyện Kiều là một kiệt tác vĩ đại của đại thi hào Nguyễn Du, là niềm kiêu hãnh của dân tộc. Thúy Kiều, Thúy Vân với những phẩm chất đáng quý đã tạo nên nhiều dấu ấn đẹp trong lòng bạn đọc. Tuy nhiên, ý kiến 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' là sai lầm, cần được nhìn nhận lại.
'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' là một quan điểm sai lầm, không công bằng, cần phải được sửa đổi. Thúy Vân và Thúy Kiều là những nhân vật đầy tình người trong Truyện Kiều, xứng đáng được tôn trọng và ngợi ca.
Câu trích hoàn chỉnh là:
'Nam nhân đừng kể về Phan Trần,
Phụ nữ chớ kể về Thúy Vân, Thúy Kiều.'
Quan điểm của cha ông về Kiều và Vân ám chỉ rằng phụ nữ không nên đọc Truyện Kiều và không nên theo đuổi tình yêu mơ mộng như Thúy Vân, Thúy Kiều. Cha ông cho rằng họ không tuân thủ đạo lý của thời phong kiến.
Lý do của quan điểm đó là do xã hội phong kiến quá nhiều lễ nghi và quy định, đặc biệt là với phụ nữ. Phụ nữ phải tuân thủ nguyên tắc 'tam tòng tứ đức', phải tuân theo lễ giáo phong kiến và phải nghe theo cha mẹ.
Tư tưởng này đã bị truyền miệng qua hàng nghìn năm và ảnh hưởng sâu sắc vào ý thức của cha ông. Hành động của Thúy Vân, Thúy Kiều được coi là không phù hợp với lễ giáo phong kiến vì họ theo đuổi tình yêu và không tuân thủ quy định của cha mẹ.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, ý kiến đó có đúng với quan điểm đạo đức của xã hội phong kiến với nhiều lễ giáo và nghiêm ngặt, nhưng vẫn còn nhiều khía cạnh cần xem xét. Quan điểm đó không thực sự phản ánh đúng tình hình của chị em Kiều, đặc biệt là Thúy Kiều. Thúy Kiều là một người con gái có đầy đủ phẩm giá và đức hạnh... Mặc dù nàng là người con gái hiếu thảo đáng khen ngợi, nhưng những hành động của nàng lại bị hiểu lầm, coi nhẹ, vi phạm quy định đạo đức. Nàng đã tự giải quyết vấn đề nhưng đã sẵn sàng hy sinh tình yêu, danh dự và tự do để bảo vệ gia đình.
Dù gặp nhiều khó khăn và biến cố trong cuộc đời, Kiều vẫn giữ vững giá trị đạo đức của mình. Kiều có một tình yêu cao thượng, trước khi bán mình, nàng đã trao cho Thúy Vân cơ hội sống. Dù trải qua nhiều khó khăn, nàng vẫn giữ trọn vẹn tình yêu với Kim Trọng, và vì điều đó, nàng phải chịu những đau khổ không ngờ. Dù sống trong môi trường bẩn thỉu, Kiều vẫn giữ được phẩm giá của mình và không bao giờ từ bỏ nguyên tắc.
Dù gặp nhiều khó khăn, Kiều luôn cố gắng thoát khỏi số phận buồn. Nhưng số phận lại không dễ dàng tha thứ, mỗi lần nàng cố gắng vùng lên cũng là một lần bị đánh gục. Cuộc sống của nàng gặp nhiều gian nan, nhưng đó cũng là do xã hội tàn bạo tạo ra, và nàng không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, sau 15 năm đi lang thang, khi gia đình hòa mình, gặp lại Kim Trọng, mặc dù nàng vẫn giữ trung thành với tình yêu cũ, nhưng nàng vẫn tôn trọng mối quan hệ đầu tiên và tạo ra một mối quan hệ thân thiết với họ. Cuối cùng, sau tất cả, nàng vẫn làm tròn trách nhiệm, trung trực, và tài năng của mình.
'Phụ nữ không nên kể về Thúy Vân, Thúy Kiều' bởi những lý do trên thực sự là một quan điểm sai lầm, không công bằng. Trong bi kịch của xã hội phong kiến khắc nghiệt, và với các quy định nghiêm ngặt, Thúy Vân, Thúy Kiều vẫn tỏa sáng với phẩm giá và đạo đức. Điều này là biểu hiện của tâm hồn nhân đạo của nhà văn lừng danh Nguyễn Du, cũng như là minh chứng cho vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam trong quá khứ.
Bài viết mẫu lớp 11, số 5 - Đề 2
Đề 2: Đánh giá hình tượng nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao
Dàn ý bài viết mẫu lớp 11 đề 2
I. Mở đầu
- Giới thiệu về hình tượng của những người đau khổ, cô đơn trong văn học Việt Nam: Có nhiều trường hợp xuất hiện trong lịch sử văn học như Chị Dậu, lão Hạc, …
- Nhưng khi đọc về Chí Phèo trong tác phẩm của nhà văn Nam Cao, ta có thể bất ngờ nhận ra rằng đây mới là biểu hiện đầy đủ nhất cho khổ đau, bất hạnh của cuộc sống con người
II. Nội dung chính
1. Chí Phèo - Tấm gương của lòng nhân ái và trí tuệ
- Chí Phèo, một người nông dân, được biết đến với những phẩm chất tốt lành:
- Là một người tốt bụng: luôn làm việc chăm chỉ, từ nhà này sang nhà khác, làm công nghiệp cấy cày để kiếm sống ⇒ làm ăn trung thực
- Mơ ước về cuộc sống đơn giản: mong muốn có một mái ấm nhỏ, một cánh đồng nhỏ... ⇒ Chí Phèo là một người đức hạnh.
- Có lòng tự trọng: dù bị ông Ba Kiến đánh, đạp, nhưng Chí vẫn giữ vững lòng tự trọng ⇒ Cho thấy sự tự trọng của mình.
⇒ Chí Phèo có đủ điều kiện để sống cuộc sống bình yên như bao người khác, và giai đoạn sống an lành của Chí kéo dài khoảng 20 năm đầu đời
- Khi gặp gỡ Thị Nở, lòng tốt của Chí Phèo một lần nữa được thể hiện:
- Nắm bắt được âm nhạc của cuộc sống: Tiếng chim hót, tiếng cười của người đi chợ
- Mong muốn hòa nhập vào xã hội, mong muốn có một tổ ấm với Thị Nở ⇒ Ước ao về sự giản dị như ngày xưa trở lại với Chí Phèo
⇒ Bản tính tốt lành của Chí Phèo luôn hiện hữu
2. Chí Phèo - Một người sống cô đơn
- Sự cô đơn bắt đầu từ khi sinh ra: không có cha, không có mẹ, không có nhà, không có cửa, thậm chí không có mảnh đất để đặt chân
- Chí Phèo lập tức gây ấn tượng với hành động khiến mọi người không thoải mái: “Hắn vừa đi vừa chửi…” nhưng sau cơn giận, Chí Phèo hiện ra là một người sống cô đơn
- Qua lời nguyền rủa, nét đặc trưng của nhân vật hiện ra:
- Người nào say rượu là thường chửi rủa
- Nhưng sau đó nhận ra rằng Chí Phèo chỉ là nạn nhân cố gắng tự vực dậy, mong muốn được xã hội chấp nhận như một người bình thường
- Khi tỉnh dậy sau cơn ốm, Chí Phèo nhận ra và hình dung sự cô đơn và tuổi già của mình cùng với nỗi đau và cảm giác cô đơn, nhấn mạnh rằng cô đơn là điều đáng sợ nhất ⇒ Bản thân Chí Phèo luôn sống trong sự cô đơn nên mới cảm thấy cô đơn đến như vậy
3. Chí Phèo - Một người nông dân phải đối diện với nhiều bi kịch
• Bi kịch bị tha hóa: Sau khi bị Bá Kiến đẩy vào tù, và sau khi ra tù:
- Về hình dáng: “Đầu trọc lốc, răng cạo trắng, mặt đầy vết sẹo, hai con mắt ngấn nước” ⇒ Chí Phèo đã mất hết dáng vẻ nhân dạng.
- Về tính cách: say sưa, đánh nhau, chửi rủa, phá phách và trở thành công cụ của Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã mất hết tính cách.
- Quá trình biến đổi của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến để trả thù ⇒ Chí trở thành công cụ của Bá Kiến
⇒ Chí Phèo đã bị mất cả nhân dạng lẫn tính cách, là minh chứng cho hình ảnh của người nông dân bị đè nén đến cùng cực
• Bi kịch bị từ chối quyền tồn tại như một con người
- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội.
- Trạng thái tâm trạng của Chí Phèo:
- Ban đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
- Sau đó Chí hiểu ra mọi chuyện: Tuyệt vọng, Chí uống rượu xong rồi lấy dao đến nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự tử.
- Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự tử của Chí:
- Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy lại danh dự của người nông dân tỉnh thức về quyền sống.
- Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên bước thềm trở về cuộc sống làm người
⇒ Chí Phèo là biểu tượng cho số phận của người nông dân trong xã hội cũ bị áp đặt, đẩy vào bước đường cùng
III. Kết luận
- Tổng quan về nghệ thuật xây dựng nhân vật Chí Phèo
- Khẳng định dù thời gian trôi qua, hình tượng nhân vật Chí Phèo và tác phẩm cùng tên vẫn sẽ sống mãi trong lòng độc giả: “Nhà văn mất, nhân vật từ trang sách, vẫn ngày ngày vật lộn giữa thế giới” (Nguyễn Đức Mậu)
Bài viết số 5 lớp 11 đề 2 - Mẫu 1
“Chí Phèo” thực sự là một kiệt tác trong văn học hiện đại, là đỉnh cao của sáng tác của nhà văn Nam Cao. Nam Cao với quan tâm, khám phá riêng về số phận của người lao động bị chà đạp. Nhân vật Chí Phèo - một biểu tượng về nghệ thuật sáng tạo trong văn học Việt Nam - đã thể hiện cái nhìn mới mẻ, độc đáo và sâu sắc về nỗi khổ của con người theo cách riêng của Nam Cao.
Chí Phèo ra đời không có cha không có mẹ, không có gia đình, không có nhà, không có cửa, không có miếng đất để đặt chân, suốt đời không hề biết đến sự chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp thị Nở... Anh ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của anh bơ vơ “đi ở nhà này rồi lại đi ở nhà kia”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Người nông dân cùng khổ ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người lẫn linh hồn người để trở thành một con thú dữ, và bị loại khỏi xã hội loài người. Mở đầu là tiếng chửi dữ dội, thách thức của Chí Phèo: 'Anh vừa đi vừa chửi.Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là anh chửi...'. Đó là tiếng chửi của một kẻ say rượu, vô thức. Nhưng đằng sau tiếng chửi ấy là nỗi đau khôn cùng của một người đàn ông trước đây hiền “như đất'. Qua tiếng chửi đó, độc giả thấy được ba thái độ: thái độ thù hằn của Chí Phèo; sự bất lực của người đời và tình thương của tác giả dành cho nhân vật. Tiếng chửi ấy thực sự đánh thức lòng nhân ái của độc giả.
Cuộc đời của Chí Phèo dần hé lộ những điều đau thương. Bản tính lương thiện của anh bị xã hội tiêu diệt. Ông lão cường hào Bá Kiến vì ghen tỵ đã bày mưu giải Chí Phèo lên huyện rồi sau đó để anh Chí ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã phục vụ ông lão cường hào bắt giam Chí Phèo lương thiện, vô tội để sau đó thả ra một Chí Phèo lưu manh, hung ác. Trở về làng, Chí Phèo trở thành một con người khác hẳn - con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Anh muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ... Để làm vậy anh phải dũng cảm, phải mạnh mẽ. Những thứ đó Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Và Chí Phèo luôn say, và “anh say thì anh làm bất cứ điều gì người ta bảo anh làm”. Chí Phèo đã thay đổi cả về ngoại hình lẫn tính cách: “Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn...hai mắt gườm gườm trông rùng rợn”.... Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người và xa lạ với chính mình. Chí Phèo bây giờ đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại “để làm thú quái cho bao nhiêu người làng”, “anh đạp đổ bao nhiêu ước mơ làm tan nát bao gia đình, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người...” Và do đó anh không còn ai coi là người nửa “mọi người đều tránh né anh mỗi khi anh đi qua”. Tuy nhiên, điều nổi bật và đáng quý hơn trong tác phẩm của Nam Cao là ngay cả khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến cùng cực, Nam Cao vẫn phát hiện ra trong đáy tâm của nhân vật bản chất tốt đẹp đã có sẵn, chỉ cần một chút tình thương vuốt nhẹ là có thể sống dậy với mọi điều tốt lành. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt. Con người xấu “đồ quỷ đại” ấy lại là nguồn ánh sáng đã soi rọi vào bóng tối của Chí Phèo, đánh thức, gợi dậy bản tính người của Chí Phèo, làm sáng bừng một tinh thần qua bao ngày tháng bị xua đuổi.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, Chí Phèo hiểu ra rằng có một thế giới bên ngoài tỏa sáng rực rỡ, với tiếng chim vui vẻ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng ồn ào của người đi chợ... Chí Phèo đã cảm nhận 'tuổi già của mình, đói rét, ốm đau và cô độc - điều này đáng sợ hơn cả đói rét và ốm đau... Anh khao khát được hòa mình với mọi người...' Nhờ Thị Nở, hay chính xác hơn là nhờ tình thương của Thị Nở, Chí đã thực sự trở lại làm người. Bát cháo hành như một loại chất xúc tác kì lạ khiến tâm hồn của Chí lên cao, tạo nên chất người mà anh đã lãng quên suốt bao lâu nay. Tuy nhiên, khi con đường trở lại làm người của Chí Phèo mới chỉ mở ra thì đã bị phủ kín. Bà cô Thị Nở không cho phép cháu gái mình lấy 'một thằng không cha chỉ biết một nghề là rạch mặt ăn vạ'. Hoặc để nói chính xác hơn, định kiến xã hội không cho phép Chí trở thành một người. Chí Phèo thực sự chìm vào bi kịch tinh thần đau đớn. Anh lại uống rượu, nhưng 'càng uống, anh càng tỉnh táo hơn'. Tỉnh táo để cảm nhận sâu sắc nỗi đau không lời của thân phận mình. Chí Phèo tìm đến nhà Bá Kiến quyết định kết án ông và giết chết ông, sau đó tự sát. Anh không muốn sống nữa vì ý thức về nhân phẩm đã trở lại. Anh không thể sống như một tên lưu manh, sống như một con quỷ dữ nữa. Anh đã chết trên bước ngưỡng của cuộc sống. Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã đặt ra câu hỏi với ý nghĩa xã hội lớn lao. Nam Cao đã tạo dựng hình ảnh đặc trưng của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám - Chí Phèo.
Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một con người trong thời kỳ đen tối đã qua. Nhưng chúng ta cũng không thể quên mà phải ghi khắc để suy ngẫm về cuộc sống hiện tại. Điều đó thể hiện giá trị lâu dài của tác phẩm và tầm quan trọng của Nam Cao.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 2 - Mẫu 2
Nam Cao là một trong những tác giả nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị. 'Chí Phèo' là một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất của Nam Cao, viết về những người nông dân trước Cách mạng. Tác phẩm không chỉ là tiếng nói của người nông dân, mà còn là lời tố cáo xã hội thời đó đã bóp méo quyền sống của con người.
Trong phần mở đầu của tác phẩm, Nam Cao đã tạo cho nhân vật của mình một ấn tượng mạnh mẽ: 'Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi'. Tiếng chửi của Chí đã trở thành một thói quen. Tiếng chửi khiến nhân vật của Nam Cao trở nên đầy mê hoặc với độc giả. Cuộc sống của Chí cuối cùng đã trải qua bao nhiêu đắng cay để phải thốt ra những lời chửi như vậy?
Chí Phèo sinh ra không biết cha, không biết mẹ. Người sinh hắn đã bỏ rơi từ khi hắn còn nhỏ. Chí không được cha mẹ nhận nuôi, chăm sóc, mà lại được những người xa lạ đưa về nuôi. Ban đầu là một người nhặt ống lươn, sau đó là một góa phụ và rồi lại đến tay bác phó cối. Cuối cùng, Chí trở thành đứa trẻ không chỗ dựa khi bác phó cối qua đời. Cuộc đời của Chí một phần nào đó thể hiện cuộc sống khó khăn của những người phải vất vả trước cách mạng tháng Tám. Mười tám tuổi, Chí vào làm ở nhà Bá Kiến với hy vọng kiếm được bữa cơm qua ngày. Chí có bản chất chân chất, mộc mạc nhưng lại bị xã hội hủy hoại. Chí bị Bá Kiến giam vào tù vì ghen tuông, nhưng Chí không bao giờ khuất phục trước áp lực. Xã hội không dành cho những người lương thiện như Chí.
Sau bảy, tám năm trong tù, Chí trở về làng Vũ Đại. Nhưng Chí không còn là người nông dân thật thà, chân chất như trước. Người ta gọi Chí là 'quỷ dữ' với hình ảnh trọc lốc, răng cạo trắng và xăm trổ khắp người. Nam Cao miêu tả Chí là 'ghê chết'. Tính khí lưu manh của Chí được thể hiện qua hành động rạch mặt ăn vạ, đốt quán rượu và trở thành tay sai của Bá Kiến. Chí ngày càng lún sâu vào tội lỗi với vài đồng bạc từ Bá Kiến. 'Chí Phèo' lần này không chỉ tái hiện cuộc sống khốn khổ, mà còn phản ánh con đường lưu manh hoá của những người nông dân. Nam Cao vạch trần sự tàn ác của xã hội qua cuộc sống của Chí.
Chí gặp Thị Nở và cuộc gặp gỡ này thay đổi cuộc đời Chí. Thị Nở như ánh trăng dịu dàng, làm thức tỉnh lòng ham muốn làm người lương thiện trong Chí. Lần đầu tiên, Chí nghe thấy âm thanh của cuộc sống hằng ngày, từ tiếng chim hót đến tiếng hỏi thăm của các bà, các cô đi chợ. Chí nhớ về ước mơ có một gia đình nhỏ, sống hạnh phúc qua ngày. Chí cũng có những phút giây 'người' khi cười thật hiền trước bát cháo hành của Thị. Thị khiến Chí suy nghĩ về tương lai, hy vọng về một gia đình hạnh phúc. Nhờ Thị, Chí muốn trở về cuộc sống lương thiện.
Những trang viết về Chí làm bừng sáng cuộc đời. Mọi hành động, lời nói của Chí khiến người đọc cảm động. Mong ước giản dị của Chí lại đến từ người phụ nữ bị xã hội xa lánh. Điều này khiến độc giả suy nghĩ, trân trọng hơn hạnh phúc của mình.
Cuộc đời Chí không dừng lại ở đó. Chí bị từ chối bởi gia đình Thị Nở, nhưng cũng là sự phản ánh của xã hội. Không ai nhìn ra sự thay đổi của Chí, không ai chấp nhận Chí. Chí tiếp tục quay về những tháng ngày bi kịch với rượu và lời chửi rủa. Cuộc đời Chí lại là những tháng ngày tuyệt vọng. Chí đến tìm Bá Kiến, ông giết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
Câu hỏi của Chí, cái chết của hắn cùng đứa con trong bụng Nở kết thúc một câu chuyện đầy day dứt. Cái chết của Chí là lời tố cáo rõ nhất cho xã hội thối nát. Chí chọn cái chết làm giải thoát cho mình vì đó là cách duy nhất trong xã hội bấy giờ. Cái chết của Chí cũng là niềm tin của Nam Cao dành cho những người khó khăn. Qua từng chi tiết, Nam Cao chỉ ra nguyên nhân đẩy Chí vào con đường tha hoá. Chí rơi vào đó vì xã hội cướp đi quyền làm người của hắn và những người nông dân từ chối hắn.
Mặc dù 'Chí Phèo' đã kết thúc nhưng hình ảnh của Chí vẫn sống mãi trong tâm trí độc giả. Chí đã tạo ra một màu sắc đặc biệt trong văn học nông thôn.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 2 - Mẫu 3
Trước cách mạng tháng tám, số phận của người nông dân luôn là đề tài đặc biệt được các nhà văn quan tâm. Ngô Tất Tố và Vũ Trọng Phụng đã có cái nhìn riêng về họ, nhưng Nam Cao đã khai thác một cách khác biệt. Chí Phèo là biểu tượng của những người nông dân và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Nam Cao bắt đầu tác phẩm bằng tiếng chửi của Chí Phèo, đem lại ấn tượng mạnh mẽ. Chí Phèo sinh ra trong cảnh mồ côi và sống trong thiếu thốn. Hắn là người lương thiện nhưng cuối cùng lại bị tha hóa thành quỷ dữ.
Bá Kiến, do sự ghen tuông, đẩy Chí Phèo vào nhà tù thực dân. Tại đây, Chí trải qua sự tàn bạo của nhà tù, khiến hắn mất cả nhân hình và nhân tính. Sau thời gian ở đó, hắn trở về với dáng vẻ đáng sợ, biến mất bản chất lương thiện của mình.
Nam Cao đã tiến xa hơn so với những tác phẩm trước đó, khẳng định bản chất lương thiện của người nông dân và chỉ ra nguyên nhân của sự tha hóa: nhà tù thực dân và bọn cường hào ác bá.
Thị Nở xuất hiện như một luồng sáng mới trong cuộc đời Chí Phèo. Nhờ vào cô, hắn nhận ra mục tiêu sống và khao khát được làm người lương thiện.
Bi kịch của Chí Phèo không chỉ dừng lại ở đó. Thị Nở từ người cứu hộ trở thành người phụ nữ làm tan nát hy vọng của Chí. Cuối cùng, Chí tự kết liễu đời mình sau khi giết Bá Kiến, để lại cho mình một chút lương thiện.
Chí Phèo của Nam Cao đã để lại ấn tượng sâu sắc về một người nông dân chất phác, lương thiện nhưng cuối cùng phải đối mặt với cái chết để khôi phục danh dự. Tác giả cũng lên án xã hội thực dân độc ác, bất nhân đẩy người nông dân vào bước đường cùng.
Viết về người nông dân, Nam Cao đã thể hiện sự tin yêu vào bản chất lương thiện của họ thông qua nhân vật Chí Phèo, một kẻ lương thiện nhưng bị xã hội tha hóa và coi là con quỷ dữ.
Nam Cao đã viết về người nông dân với tác phẩm xuất sắc như 'Chí Phèo', một kẻ lưu manh nhưng sâu thẳm là người lương thiện. Chí Phèo là hình tượng độc đáo và gây ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Nam Cao đã khắc họa nhân vật Chí Phèo với ấn tượng mạnh mẽ, đặc biệt qua tiếng chửi của hắn. Tiếng chửi đó thể hiện sự bất hạnh và tuyệt vọng của Chí trong một xã hội không chấp nhận hắn.
Trong việc viết về người nông dân, Nam Cao tập trung vào số phận bi thảm của họ và Chí Phèo là một biểu tượng của những người này. Cảnh Chí Phèo chửi rủa thể hiện sự tuyệt vọng và bế tắc trong cuộc sống của hắn.
Chí Phèo, một thằng lưu manh tha hóa, đã mất hết nhân hình và nhân tính. Nam Cao mô tả hắn với hình ảnh 'Trông giống thằng sắng cá! Đầu trọc lốc, răng cạo trắng sáng, mặt đen cơng cơng, hai mắt gườm gườm đáng sợ. Hắn mặc quần nái đen kết hợp với áo tây vàng. Ngực hắn đầy những họa tiết rồng, phượng, và một vị tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng vậy. Thật đáng sợ'.
Nếu không có Bá Kiến, Chí Phèo có lẽ không rơi vào tình cảnh tha hóa. Nhưng Bá Kiến đã tận dụng tình thế để biến Chí thành tay sai, một công cụ cho âm mưu của hắn. Chí Phèo từ một người hiền lành đã biến thành một kẻ lưu manh dữ dội, sống trong kiếp thú vật độc ác.
Chí Phèo, sau khi trượt dài trên con đường tha hóa, đã rơi vào vòng xoáy của men say và tuyệt vọng. Hắn trở thành một con quỷ dữ, phá hủy cơ nghiệp và hạnh phúc của người khác, sống với kiếp thú vật độc ác.
Sau bảy tám năm biệt, Chí Phèo trở về làng với thân hình biến dạng, nhân tính méo mó. Hắn sống trong tăm tối, sống không hơn không kém. Hoàn cảnh của Chí Phèo là biểu tượng cho số phận của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.
Bản chất của người nông dân là hiền lành, lương thiện nhưng khi đối mặt với áp đặt của xã hội, họ buộc phải vùng lên để bảo vệ quyền sống của mình. Chí Phèo, dù bị chèn ép, vẫn giữ được nhân cách của một người bình thường, biết lo sợ và tự trọng.
Sự lương thiện trong Chí Phèo tỉnh giấc mạnh mẽ khi gặp thị Nở, cảm nhận được tình người qua bát cháo hành và tình cảm chân thành của thị. Chí cảm thấy ngạc nhiên và cảm động trước sự ân cần, quan tâm của thị. Lần đầu tiên, giọt nước mắt tình người rơi, trái tim sắt đá của Chí được yêu thương hồi sinh. 'Chí thèm khát lương thiện, muốn làm hòa với mọi người! Thị Nở sẽ mở ra con đường cho Chí. Thị có thể sống hạnh phúc bên Chí, thì sao người khác lại không thể'.
Chí Phèo là biểu tượng của người nông dân Việt Nam trong chế độ phong kiến tàn ác. Nhân vật Chí Phèo được mô tả sắc sảo, linh hoạt với giọng điệu trần thuật của tác giả, tạo nên một nhân vật đặc biệt trong văn học Việt Nam.
Nhờ tài năng của mình, Nam Cao để lại một kiệt tác nghệ thuật và một hình tượng nhân vật độc đáo trong văn học dân tộc. Dù trang sách đã đóng lại, tiếng kêu thống thiết của Chí vẫn khiến độc giả phải suy ngẫm về bản chất tốt đẹp trong con người.
.....................
Bài viết số 5 lớp 11 đề 3
Dàn ý bài viết số 5 lớp 11 đề 3
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
- Vang bóng một thời là tập truyện của Nguyễn Tuân gồm 11 truyện ngắn kể về một thời đã qua, thời nhà Nguyễn suy tàn, thời thực dân Pháp xâm lược nước ta.
- Chữ người tử tù là truyện ngắn tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân trong tập truyện Vang bóng một thời. Nhân vật Huấn Cao được Nguyễn Tuân lấy cảm hứng từ Cao Bá Quát - một anh hùng dân tộc!
- Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ tài ba mà còn là một trượng anh hùng kiên cường. Dù không thành công trong sự nghiệp, anh vẫn luôn kiêng nể và mạnh mẽ. Phân tích thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục ở hai thời điểm khác nhau sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về nhân vật này.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục khi mới đến nhà tù.
a) Giới thiệu về nhân vật Huấn Cao.
- Là người có tài cả văn lẫn võ: 'Thật ra, y văn võ đều có tài'; là người có tài viết chữ 'nhanh và rất đẹp'.
- Là người có tâm: một nghệ sĩ chân chính, có nhân cách, biết tự trọng, luôn đặt chữ tâm lên trên chữ tài, lên trên bạc vàng: 'Ta sinh ra không vì tiền bạc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bất kỳ lúc nào'.
b) Thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục khi Huấn Cao mới đến nhà lao.
- Khi viên quản ngục 'biệt đãi' ông Huấn Cao rượu thịt trong bữa ăn hàng ngày thì ông lạnh lùng 'thản nhiên nhận rượu thịt'.
- Khi viên quản ngục hỏi ông xem có muốn gì, ông đã tỏ thái độ khinh miệt viên quản ngục: 'Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây nữa'.
c) Vì sao Huấn Cao lại có thái độ như vậy?
- Vì mới đến, ông Huấn Cao chưa hiểu về viên quản ngục.
- Ở nơi tù ngục, con người thường sống tàn nhẫn và lừa dối. Viên quản ngục đã làm việc ở đó lâu nên có lẽ cũng sẽ là những kẻ lừa dối, tàn ác. Viên quản ngục đại diện cho quyền lực tại đây, tại sao lại có cách đối xử khác nhau như vậy?
- Chính thái độ kín kẽ và những lời dặn dò mơ hồ của viên quản ngục đã làm cho Huấn Cao nghi ngờ. Như vậy, khi mới đến nhà tù này, ông Huấn Cao đã có thái độ lạnh lùng, khinh bỉ và nghi ngờ viên quản ngục. Đó là thái độ đúng, phù hợp với bản tính con người.
2. Thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục sau khi ông hiểu về bản chất của viên quản ngục.
- Ông nhận thấy một tấm lòng cao đẹp, có đức của viên quản ngục giữa chốn tội ác.
- Ông nhận thấy viên quản ngục là người hiểu cái đẹp, yêu và biết trân trọng cái đẹp ' Chúng ta đã biết, không có ai như thầy quản ở đây mà lại có những sở thích cao quý như thế. Chỉ thiếu chút nữa, chúng ta đã mất đi một tấm lòng quý trong thế giới này '.
- Trước khi bị hành quyết, ông đồng ý cho viên quản ngục viết bài thơ của mình. Hình ảnh việc viết thơ trong tù là một cảnh tượng chưa từng thấy. Ông viết thơ trong một căn phòng giam tối tăm, đầy mùi hôi, ô uế. Người viết thơ 'bị trói cổ, chân bị xiềng', tay như rồng bay phượng múa trên tấm vải trắng. Huấn Cao đang đổ trí tuệ và tài năng vào cây bút. Sáng mai, Huấn Cao sẽ phải nhận án tử hình. Thân thể ông có thể mất đi, nhưng tâm hồn và phẩm chất của ông sẽ sống mãi mãi.
- Ông đã dành những lời khuyên chân thành cho viên quản ngục: 'Tôi khuyên thầy nên rời khỏi đây, nơi đây không phải là nơi để treo một tấm lụa trắng'; 'Thầy nên trở về quê hương của mình, hãy thoát khỏi nơi đây trước khi nghĩ đến việc viết thơ. Ở đây, không thể giữ được lòng tốt vĩnh viễn, cuộc sống đầy rẫy những gian nan sẽ làm cho lòng tốt cũng mềm yếu đi' .
—> Từ khi chưa hiểu biết đến khi hiểu rõ vẻ đẹp trong tâm hồn và tính cách của viên quản ngục, ông Huấn Cao đã thay đổi cách nhìn về viên quản ngục. Điều quan trọng là ông đã nhận ra vẻ đẹp của viên quản ngục giữa chốn lao tù. Sự thay đổi trong cách nhìn của ông Huấn Cao về viên quản ngục là phù hợp với sự phát triển tính cách của nhân vật.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
- Thách thức qua hai đoạn hội thoại, Nguyễn Tuân đã hình thành một hình tượng Huấn Cao với cái nhìn đúng đắn về viên quản ngục.
- Từ sự nhìn nhận chính xác, Huấn Cao đã nhận ra vẻ đẹp của viên quản ngục. Từ đó, ông đã biến viên quản ngục thành bạn. Ông giúp viên quản ngục loại bỏ những dơ bẩn để trở lại con đường thiện lương.
- Thái độ thay đổi của Huấn Cao trong cách nhìn đã làm cho ta hiểu rõ hơn, kính trọng hơn một con người với tâm hồn và tài năng, và đặc biệt là lòng dũng cảm. Đồng thời, ta cũng hiểu rõ hơn về viên quản ngục: giữa thế giới tội ác, viên quản ngục vẫn giữ nguyên phẩm chất trong sáng và đẹp đẽ.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 3 - Mẫu 1
Nhà văn Nguyễn Tuân, một tài năng vượt trội, luôn sử dụng bút pháp lãng mạn trong mỗi tác phẩm. Nhân vật Huấn Cao trong truyện 'Chữ người tử tù' được Nguyễn Tuân lấy cảm hứng từ Cao Bá Quát, một người vừa có tài năng văn võ, nhưng không gặp may mắn trong cuộc đời. Bằng cách nhấn mạnh vào nét đẹp của Huấn Cao, tạo dựng một hình ảnh hoàn mỹ cho nhân vật, tác phẩm này đã khẳng định bút pháp lãng mạn của Nguyễn Tuân cũng như khả năng sáng tạo của tác giả.
'Chữ người tử tù' là minh chứng cho bút pháp lãng mạn của Nguyễn Tuân và khả năng tạo hình ảnh của ông. Thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục là một phản ánh của triết lý sống và quan điểm nhân sinh của tác giả, với sự tôn trọng đối với cái đẹp và cái thiện trong cuộc sống. Huấn Cao là một người học thức, tài năng, và đặc biệt là quyết tâm. Ông không kính trọng quyền thế, không tôn trọng những kẻ vụ lợi. Ông tỏ ra phẫn nộ với chế độ phong kiến vì ông cho rằng nó là một hệ thống bất công và chỉ biết lợi dụng người dân lương thiện. Vì vậy, khi ông nhận sự thiết đãi từ viên quản ngục, ông không chỉ không cảm kích mà còn tỏ ra lạnh nhạt, thể hiện sự lạnh lùng đối với viên quản ngục. Khi viên quản ngục hỏi ông cần gì, ông chỉ đơn giản nói rằng ông muốn anh ta biết rời xa nơi này. Nhưng sau này, khi ở giam giữ, Huấn Cao nhận ra tình cảm chân thành của viên quản ngục và hiểu rằng anh ta là một người tốt. Ông giữ vững lòng lương thiện, và cuối cùng đã nhận viên quản ngục là một người bạn thân.
Huấn Cao không chỉ cho viên quản ngục chữ của mình, một hành động hiếm hoi và quý báu. Ông cũng tặng cho viên quản ngục những lời khuyên chân thành từ trái tim của mình. Huấn Cao mong muốn viên quản ngục rời bỏ công việc hiện tại, vì ông hiểu rằng sống trong một môi trường đầy bạo lực và ác độc như thế sẽ làm mất đi lòng tốt. Những lời khuyên của Huấn Cao thể hiện một triết lý sâu sắc: dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, cái đẹp và lòng thiện luôn được tôn trọng. Tuy nhiên, cái đẹp và lòng thiện không thể tồn tại chung với sự xấu xa và thấp kém, và chỉ có ở những nơi tôn vinh cái đẹp mà con người mới có thể cảm nhận được sự hoàn mỹ của nó. Ý nghĩa sâu sắc của Huấn Cao thể hiện tư tưởng và quan điểm nhân sinh của nhà văn Nguyễn Tuân.
Nhân vật Huấn Cao được miêu tả như một cái gương sáng, và điều này càng được tôn vinh khi viên quản ngục biết trân trọng cái đẹp. Khi một người biết đánh giá cái đẹp, thì cái đẹp trở nên rực rỡ gấp ngàn lần. Bản tính mạnh mẽ của Huấn Cao trước sự lương thiện của người khác làm cho ông rung động, thể hiện sự biết trân trọng những người sống tình nghĩa, lương thiện.
Trong phần kết của truyện, hình ảnh Huấn Cao đứng thẳng, viết từng nét chữ như rồng bay phượng múa trên giấy tặng cho viên quản ngục, là điều làm xúc động lòng người đọc nhất. Điều này là minh chứng rõ ràng cho sự hiện diện của cái đẹp ở mọi nơi, khi tài năng và lòng tốt của con người kết hợp với nhau một cách hoàn hảo, tạo ra điều tuyệt vời. Nhờ nhân vật Huấn Cao, chúng ta nhận ra sức mạnh của cái đẹp, khiến con người nhìn nhận và theo đuổi sự thiện lương trong cuộc sống.
Truyện 'Chữ người tử tù' là một tác phẩm vĩ đại của Nguyễn Tuân, nó phản ánh rõ ràng quan niệm về cái Đẹp của tác giả. Thông qua thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục, chúng ta thấy rằng chỉ có sự chân thành và lương thiện mới tạo nên mối quan hệ đáng tin cậy giữa con người. Sự thay đổi tâm trạng của Huấn Cao trong truyện là minh chứng cho sức mạnh của cái đẹp và lòng lương thiện trong cuộc sống.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 3 - Mẫu 2
Truyện 'Chữ người tử tù' được in trong tập Vang bóng một thời, xuất bản năm 1940. Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện quan điểm về cái Đẹp của Nguyễn Tuân. Huấn Cao, nhân vật chính, được miêu tả như một con người tài năng, trong sáng. Thông qua sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, chúng ta hiểu rõ hơn về tâm hồn cao quý của nhân vật tài hoa này.
Từ đầu tác phẩm, qua cuộc trao đổi giữa viên quản ngục và thầy thơ, Nguyễn Tuân đã giới thiệu Huấn Cao như một nhân vật đặc biệt. Ông là một nhà văn võ kiêm toàn, có tài viết chữ Hán nổi tiếng khắp tỉnh Sơn. Huấn Cao được vua quan coi là kẻ nguy hiểm, dám cầm đầu 'quân phiến loạn' chống lại triều đình.
Với sự khí phách ngang tàng và tài năng thông tuệ, Huấn Cao là một tử tù đặc biệt. Viên quản ngục có thái độ ưu ái đặc biệt đối với ông, gửi rượu thịt hàng ngày xuống buồng giam. Thái độ của Huấn Cao dần thay đổi, làm ta hiểu rõ hơn về tâm hồn và tính cách của ông.
Trong những ngày đầu ở ngục tối, Huấn Cao khinh bạc trước sự quan tâm quá mức từ viên quản ngục. Nhưng thái độ của ông bắt đầu thay đổi khi viên quản ngục thể hiện lòng tôn trọng và chăm sóc ông. Huấn Cao cho thấy bản lĩnh anh hùng của mình, không khuất phục trước cường quyền.
Tuy nhiên, viên quản ngục không phản ứng như ông Huấn Cao nghĩ. Thay vào đó, y chỉ lễ phép rút lui và tiếp tục biệt đãi ông cùng các bạn đồng chí. Sự đối xử đó khiến Huấn Cao ngạc nhiên.
Huấn Cao thường nghĩ rằng viên quản ngục muốn tìm hiểu bí mật của mình, nhưng ông đã khai hết. Ngoài thái độ khinh bạc và lạnh lùng, Huấn Cao còn phải suy nghĩ về sự tươm tất của viên quản ngục.
Giữa chốn ngục tù u ám, viên quản ngục được Nguyễn Tuân so sánh như một thanh âm trong trẻo, giữa bản đàn với nhạc luật xô bồ. Sự dịu dàng và lòng biết trọng người của viên quản ngục đã khiến Huấn Cao cảm động.
Trong một tình huống kịch tính, Huấn Cao thay đổi thái độ sau khi nghe thấy viên quản ngục bày tỏ ước nguyện tha thiết. Ông nhận ra lòng biết giá người và biết trọng người của viên quản ngục, và nhận thấy rằng ông đã hiểu lầm ông ta trước đó.
Cảnh Huấn Cao viết chữ trong buồng giam tối tăm đã tạo ra một bức tranh đẹp đẽ, tương phản với sự u ám của không gian. Ông dành lời khuyên chân thành cho viên quản ngục và thể hiện sự thấm thía với hoàn cảnh của ông.
Lần này là lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng Huấn Cao cho chữ. Ông nhận ra giá trị của việc này và thể hiện sự kính trọng và sự thông cảm đối với viên quản ngục. Sự giao hòa giữa lòng tự trọng và lòng trân trọng đã làm cho Huấn Cao cảm động sâu sắc.
Trong tâm hồn của Huấn Cao, sự kính trọng và hiểu biết về viên quản ngục đã nâng ông ta lên một vị thế cao quý. Điều đó làm cho Huấn Cao cảm động và thấu hiểu sâu sắc hơn về tình cảm giữa họ.
Tận mắt chứng kiến ông Huấn Cao viết chữ, mọi người không khỏi kinh ngạc trước cảnh tượng lạ lùng và đẹp đẽ như trong truyền thuyết. Ánh sáng đỏ rực từ bó đuốc phản chiếu lên tấm lụa trắng, trong không gian khói lửa, ông Huấn Cao vẫn tập trung viết chữ trên tấm lụa ấy.
Trong bức tranh đen trắng của buổi tối, lời khuyên chân thành của Huấn Cao đến viên quản ngục như là một lời cảnh báo về cuộc sống hiện tại của họ. Ông gợi nhớ về những giấc mơ và hoài bão đã mất, và khuyên viên quản ngục nên tìm lại những giá trị đích thực trong cuộc sống.
Ánh đóm phát sáng rực rỡ, ánh lửa tan chảy vào không gian u ám của buồng giam, rồi tàn lửa dần dần trở nên yên bình.
Ba người đều nhìn về bức châm sáng, rồi đồng thanh nhìn nhau với ánh mắt đầy ý nghĩa.
Viên quản ngục, dưới ảnh hưởng của sự kiện đầy ý nghĩa này, không kìm được cảm xúc và gửi đi một lời biểu dương chân thành đến ông Huấn Cao, với dòng nước mắt lưng tràn: 'Tôi kính lễ trước kẻ mê muội này'.
Trong lúc trước, ba người chưa thấu hiểu lẫn nhau, nhưng trong bước ngoặt này, họ gặp nhau với tấm lòng chung, yêu mến và trân trọng Cái Đẹp - Cái Đẹp của cả tâm hồn và chữ viết.
Sự thay đổi bất ngờ trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục là điều tự nhiên, phản ánh chính bản tính và tính cách của ông. Thái độ cao ngạo ban đầu của Huấn Cao là hợp lý trong bối cảnh đó, nhưng sự hiểu biết và đồng cảm đã làm thay đổi ông.
Nếu Huấn Cao không thay đổi thái độ đối với viên quản ngục, hình tượng của ông trong tác phẩm sẽ không trọn vẹn. Sự thay đổi này cho thấy phẩm chất cao quý của Huấn Cao, vượt qua tài năng và khí phách.
Thái độ mới của Huấn Cao tiết lộ sự cao quý của ông và cũng là cơ hội để người đọc hiểu sâu hơn về bản tính của nhân vật. Sự thay đổi này cũng là cơ hội để đánh giá cao viên quản ngục, người giữ gìn và trân trọng Cái Đẹp.
Thái độ của Huấn Cao trước và sau thay đổi, nhưng vẫn giữ được sự độ lượng và cao quý, một bức tranh hoàn thiện về phẩm cách con người trong mọi hoàn cảnh.
Nguyễn Tuân đã thành công khi đưa hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục gần nhau. Hai nhân vật này bổ sung và soi sáng lẫn nhau, tôn vinh giá trị của Cái Đẹp trong tác phẩm.
Trong tập truyện Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã thực hiện được ước nguyện của mình khi tìm lại và tôn vinh những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông để lại ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp tinh thần mà con người luôn khao khát.
Viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân có ý đồ gì sâu xa hơn? Điều chắc chắn là ông muốn thể hiện sự tiếc nuối về một con người xuất sắc, một nhân cách vĩ đại trong thời kỳ đất nước suy thoái. Đồng thời, ông cũng muốn bày tỏ nỗi đau chung cho dân tộc đang chịu sự áp bức của thực dân.
Bài viết số 5 lớp 11 đề 3 - Mẫu 3
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông thường đạt được thành công nghệ thuật lớn. Bằng cách xây dựng nhân vật và diễn biến tâm lý, ông đã tạo ra những tác phẩm đầy ấn tượng, góp phần làm nên thành công của truyện ngắn.
Huấn Cao được tác giả tôn vinh với niềm yêu mến và quý trọng tột độ. Ông là anh hùng với trí tuệ và tài năng vượt trội, là biểu tượng của sự anh dũng và tài hoa văn võ.
Tác giả đã tạo ra một không gian đặc biệt trong tác phẩm bằng cách xây dựng ngục tù, nơi diễn ra cuộc đối đầu giữa các luồng tư tưởng trái ngược. Huấn Cao và viên quản ngục đại diện cho hai phái đối lập nhau.
Viên quản ngục không phải là một người đại diện cho chính quyền bảo thủ, mà lại là một tấm gương của tấm lòng cao cả và nhân từ. Sự giao thiệp giữa Huấn Cao và viên quản ngục là minh chứng cho sự đẹp đẽ và cao quý trong con người.
Huấn Cao, sau khi nhận ra tấm lòng nhân từ của viên quản ngục, đã tỏ ra biết ơn và sẵn lòng tha thứ cho người đó. Ông dành những lời cuối cùng của mình để khích lệ và khuyên bảo viên quản ngục quay về với lương tâm của mình.
Thái độ của Huấn Cao trong việc đối đầu với viên quản ngục phản ánh sự phức tạp của con người và của cuộc sống. Dù ban đầu có sự khinh bạc và thách thức, nhưng cuối cùng ông cũng nhận ra tấm lòng nhân từ và hiểu biết của người đó.
Thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục là điều tất yếu. Trong suy nghĩ của ông, viên quản ngục đại diện cho chính quyền ông ghét bỏ. Huấn Cao, một nhân vật xuất chúng, không sợ kẻ giữ tù. Ông coi bản thân là người tự trọng, không bao giờ bị áp đặt bởi quyền lực.
Thái độ này của Huấn Cao làm người đọc cảm phục ông hơn. Ông không chịu khuất phục trước ác quyền và biết ghét cái ác đến cùng. Viên quản ngục không giống như những người thông thường, ông là một tâm hồn uẩn khúc kì lạ. Hiểu rõ điều đó, Huấn Cao đã có một thái độ khác lúc ban đầu.
Huấn Cao hối hận về sự coi thường viên quản ngục và cảm kích về tấm lòng của người đó. Ông dành những dòng cuối cùng của mình để tặng người quản ngục và khuyên bảo an ủi. Đoạn văn này gây nhiều cảm xúc và xứng đáng là một trong những tác phẩm đẹp nhất của văn học Việt Nam.
Cảnh tượng mà Nguyễn Tuân miêu tả là điều chưa từng thấy. Ông tập trung sự bay bổng vào cảnh này. Viết chữ, cho chữ, chiêm ngưỡng chữ thánh hiền... Cảnh này tạo ra một bức tranh rất đặc biệt trong tâm trí người đọc.
Vào đêm trước ngày Huấn Cao phải đối mặt với tội lỗi của mình, việc cho chữ thiêng liêng đã diễn ra trong một không gian tăm tối. Người cho chữ - người tù trong sáng - mặc thể xác bị giam cầm, nhưng tâm thế vẫn cao cả. Người quản ngục đối diện với sự nhân từ của người tử tù.
Trong đêm tĩnh mịch, nhà tù nổi lên trong bóng tối đầy ám ảnh, nhưng ánh sáng của đuốc và mùi thơm của mực tàu lại lan tỏa. Sự hiện diện của ánh sáng và mùi thơm là biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp và tinh thần thanh khiết của con người.
Tiếng nói của cái đẹp và của lòng nhân từ đã thay đổi cảm nhận của Huấn Cao đối với viên quản ngục. Cảnh tượng này thể hiện sức mạnh của cái thiện trong cuộc sống.
Sự hòa nhập giữa Huấn Cao và viên quản ngục chỉ là minh chứng cho sức mạnh của cái đẹp và của lòng nhân từ. Hai thế giới đối lập đã tìm thấy sự hòa hợp qua ánh sáng của chữ thánh hiền.
Thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục là kết quả tự nhiên của việc họ cùng nhau tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống. Đây là sự kết hợp giữa tài năng và lòng nhân từ.
Nguyễn Tuân đã thành công trong việc miêu tả sự thay đổi của Huấn Cao và viên quản ngục, tạo ra một hình mẫu hoàn hảo cho cái đẹp và cái thiện. Sự biến đổi trong nhân vật cũng là một minh chứng cho sức mạnh của cái thiện trong xã hội.
Hình tượng của Huấn Cao trong văn học Việt Nam được tạo ra không chỉ đơn thuần là một hình ảnh hoàn mĩ mà còn là sự kết hợp tinh tế giữa tâm trạng và logic. Điều này làm tôn vinh tài năng văn học của Nguyễn Tuân.
Huấn Cao được mô tả như một biểu tượng của sự kiên cường và đáng kính trong hoàn cảnh khó khăn. Hình ảnh của anh ta là một tấm gương sáng cho thế hệ sau.
Nhân vật Huấn Cao trong chữ người tử tù không chỉ đẹp về hình thức mà còn là biểu tượng cho sự hòa hợp giữa những yếu tố tâm linh và lý trí trong văn học.
Nguyễn Tuân đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học Việt Nam không chỉ qua tác phẩm chữ người tử tù mà còn qua việc tạo ra nhân vật Huấn Cao, một hình ảnh đầy tinh tế và tài năng.
Trong câu chuyện về Huấn Cao và viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã thể hiện sự đối lập giữa cái đẹp và cái xấu, cũng như tôn vinh vẻ đẹp của lòng nhân từ và tinh thần thiện lương.
Khi mới đến nhà giam, Huấn Cao đã tỏ ra lạnh lùng và khinh thường viên quản ngục một cách không đáng có. Tuy nhiên, sau này khi hiểu được tâm tư thiện lương của viên quan, thái độ của Huấn Cao đã thay đổi hoàn toàn.
Ban đầu, Huấn Cao không để ý đến viên quan ngục và tỏ ra khinh bỉ. Tuy nhiên, khi nhận ra tấm lòng thiện lương của người đó, Huấn Cao đã trân trọng và chấp nhận sự đóng góp của viên quan.
Sau khi thấu hiểu lòng thiện lương của viên quan coi ngục, Huấn Cao đã quý trọng và tôn trọng hơn. Ông đã dành tâm huyết của mình để tặng cho người đó, thể hiện sự biến đổi trong tư duy và thái độ của mình.
Trong quá trình trải qua, Huấn Cao đã thể hiện sự đổi thay rõ rệt trong quan hệ với viên quản ngục. Từ sự khinh bỉ ban đầu, ông đã chuyển sang sự tôn trọng và gần gũi hơn với người đó.
Thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục thể hiện rõ sự trưởng thành và sự hiểu biết về lòng thiện lương và tinh thần đồng lòng của con người.
......................
Vui lòng tải file tài liệu để đọc thêm thông tin chi tiết về bài viết số 5 lớp 11.