Tổng hợp trên 30 bài văn Viết một bài văn nghị luận phê phán về tác phẩm theo các khía cạnh nội dung và nghệ thuật tự lựa chọn tốt nhất với cấu trúc chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn tốt hơn.
Danh sách Top 30 Viết một bài văn nghị luận phê phán về tác phẩm theo các khía cạnh nội dung và nghệ thuật tự lựa chọn (tốt nhất)
Đề bài: Trong số các tác phẩm văn học mà bạn đã đọc theo gợi ý từ bài học trong môn Ngữ văn lớp 10, tập hai, tác phẩm nào đã để lại ấn tượng và suy nghĩ sâu sắc nhất trong bạn? Viết một bài văn nghị luận phê phán về tác phẩm đó theo các khía cạnh nội dung và nghệ thuật tự lựa chọn.
Viết một bài văn nghị luận phê phán về tác phẩm theo các khía cạnh nội dung và nghệ thuật tự lựa chọn - mẫu 1
Nguyễn Trãi được coi là một trong những nhà thơ vĩ đại của dân tộc, một danh nhân văn hóa của thế giới. Ông để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm văn học có giá trị to lớn. Trong số đó, 'Bình Ngô đại cáo' của ông đầy nhiệt huyết và lòng tự hào dân tộc, trong khi bài thơ 'Cảnh ngày hè' tái hiện một bức tranh về sự thanh tao và tâm hồn thơ mộng của Nguyễn Trãi.
Bài thơ 'Cảnh ngày hè' bắt đầu bằng sáu câu thơ mô tả cảnh ngày hè:
'Hòa mình trong dáng ngả ngơi
Cành dương rủ, lá xanh tươi
Bên hè sen phôi nắng đỏ
Trước cửa tùng vọng hương lời
Làng chài nhộn nhịp chợ cá
Ve kêu dịu dàng, lẽo đẽo dạng'
Tác giả đã miêu tả cảnh ngày hè một cách tự do, nhẹ nhàng nhưng vẫn rất sâu sắc và tươi đẹp. Bức tranh cảnh ngày hè tràn ngập màu sắc, với cây dương xanh, hoa sen đỏ, vàng nắng chiều. Không chỉ đặc sắc ở thị giác, Nguyễn Trãi còn lồng ghép âm thanh và mùi hương vào bức tranh của mình, tạo nên một không gian sống động và phong phú hơn. Ông nhận biết được sự bận rộn của làng chài, tiếng ve êm đềm và hương thơm của sen, tất cả góp phần làm cho cảnh ngày hè trở nên đặc sắc và đầy sức sống. Mặc dù đã là cuối ngày, khi mặt trời dần lặn, nhưng mọi vật vẫn còn sống động và đầy năng lượng. Tác giả muốn gửi gắm thông điệp về tình yêu và trách nhiệm đối với đất nước, dân tộc của mình thông qua bức tranh cảnh ngày hè.
Hai dòng cuối cùng của bài thơ chứa đựng tâm trạng và suy tư sâu xa của Nguyễn Trãi:
'Có đàn Ngu, tiếng dương hòa
Đời thịnh nhân đầy khắp nơi'
Mặc dù tác giả mô tả cảnh ngày hè với tư thế thoải mái và bình yên, nhưng trong tâm trí ông vẫn lo lắng và quan tâm đến cuộc sống của nhân dân, đất nước. Ông cảm nhận được sự sôi động của làng chài, tiếng ve nhè nhẹ và tấp nập của cuộc sống. Tác giả mong muốn mang lại hạnh phúc và sự sung túc cho nhân dân và đất nước thông qua việc cống hiến của mình. Vì vậy, ông ao ước sở hữu cây đàn của vua Ngu, để có thể mang lại niềm vui và phát triển cho mọi người.
Bài thơ 'Cảnh ngày hè' được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, nhưng không tuân theo cấu trúc quen thuộc. Thậm chí, tác giả còn thể hiện sự độc lập và sáng tạo bằng cách sắp xếp lại cấu trúc của thể thơ. Bài thơ mang đậm dấu ấn cá nhân và nét riêng biệt của Nguyễn Trãi, nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Thêm vào đó, hình ảnh hoa sen còn gợi nhớ đến hai câu thơ của Nguyễn Du:
'Nở hoa sen đầu tường sáng
Khắp phố đông vui vẻ âm thanh'
Câu thơ của Nguyễn Du rất sắc nét trong việc tạo hình, trong khi câu thơ của Nguyễn Trãi lại phản ánh rõ nét nhiệt huyết của mình. Điều này là minh chứng cho tài năng văn chương đặc biệt của Nguyễn Trãi.
Bài thơ 'Cảnh ngày hè' không chỉ xuất sắc về nội dung mà còn về nghệ thuật. Qua đó, chúng ta thấy được tâm hồn tươi sáng và đẹp đẽ của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương. Tuy nhiên, hơn hết, ông là một người tài năng và tận tâm với sứ mệnh của mình, luôn quan tâm đến cuộc sống của nhân dân và sự phát triển của đất nước. Ông muốn dùng nhiệt huyết của mình để làm cho nhân dân hạnh phúc, đất nước mạnh mẽ. Tư tưởng của Nguyễn Trãi là một bài học cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước và lòng hiếu khách.
Dàn ý viết văn nghị luận về tác phẩm theo các vấn đề nội dung và nghệ thuật tự chọn
a) Khởi đầu:
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích và vấn đề cần nghị luận (một khía cạnh của nội dung hoặc nghệ thuật...)
b) Nội dung chính:
Dù là loại văn bản nào, học sinh cần đảm bảo bao gồm ba điểm quan trọng sau:
* Quan điểm 1: Tổng quan chung
- Trình bày về bối cảnh sáng tạo và giá trị nội dung tổng quát của tác phẩm.
- Hoặc là mô tả về vai trò, hướng dẫn nội dung của tác phẩm đến đoạn trích.
* Quan điểm 2: Hiểu rõ vấn đề được đề xuất
- Phân tích, làm rõ vấn đề theo yêu cầu của câu hỏi. Tách vấn đề thành các quan điểm và sử dụng chi tiết, hình ảnh, nhân vật để làm sáng tỏ cho quan điểm.
- Hoặc là phân tích, cảm nhận, nhận xét về một vấn đề trong phạm vi của đoạn trích.
* Quan điểm 3: Nhận xét tổng quát (bình luận)
- Đánh giá tổng quan về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích hoặc tác phẩm.
c) Kết luận: Tóm tắt, xác nhận vấn đề được đề cập.
Viết một bài văn nghị luận về tác phẩm đó dựa trên các vấn đề về nội dung và nghệ thuật tự chọn - mẫu 2
Trong kho tàng văn học Việt Nam, có nhiều danh tác nổi tiếng. Một trong số đó là Nguyễn Dữ, một nhà văn đã góp phần làm nên tên tuổi của thời kỳ văn học. Trong số các tác phẩm của ông, 'Chuyện chức phán sự đền Tản Viên' là một tác phẩm nổi bật, ca ngợi lòng dũng cảm, trí tuệ và lòng yêu nước của nhân vật Ngô Tử Văn.
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” thuộc thể loại văn xuôi truyền kỳ, được viết bằng chữ Hán. Thể loại này sử dụng yếu tố kì bí để phản ánh hiện thực cuộc sống, với các nhân vật đa dạng có thể là người, ma quỷ hoặc thần thánh, tương tác với nhau trong một thế giới hoang đường.
Tác phẩm này ra đời vào thế kỷ XVI, khi xã hội Việt Nam đang trải qua những biến động, khủng hoảng. Nguyễn Dữ đã sử dụng bộ truyện này để phản ánh tình hình xã hội và thể hiện quan điểm cá nhân về cuộc sống.
Nội dung truyện kể về Ngô Tử Văn, một người sĩ quan kiên cường và chính trực. Khi một tướng giặc đặt trại gần đền, gây hại cho dân làng, Tử Văn không ngần ngại đốt đền để bảo vệ cộng đồng.
Sau khi đốt cháy đền, Tử Văn bắt đầu mắc phải cơn sốt. Trong lúc sốt mê man, chàng nhận thấy tên ma quỷ xấu xa đến yêu cầu hoàn trả ngôi đền và đe dọa sẽ đưa Tử Văn xuống âm phủ để bị Diêm Vương trừng phạt.
Tuy nhiên, vào buổi tối, Thổ thần hiện ra và thể hiện sự kính trọng trước hành động can đảm của Tử Văn. Chàng được Thổ thần hướng dẫn về lịch sử và tội ác của tên ma quỷ, đồng thời chỉ bảo cách đối phó.
Vào ban đêm, khi căn bệnh trở nặng thêm, Tử Văn bắt gặp hai tên quỷ sứ đến bắt chàng xuống âm phủ. Trước mặt Diêm Vương, Tử Văn đã tố cáo tội ác của tên ma quỷ với đầy đủ bằng chứng. Cuối cùng, công lý được thi hành, Diêm Vương trừng phạt tên ma quỷ (đày vào ngục Cửu U), để Thổ thần được phục vụ lại, và sai người đưa Tử Văn về thế gian (nghĩa là Tử Văn được sống lại). Một tháng sau đó, Tử Văn chứng kiến Thổ thần đến cảm ơn. Để đáp lại lòng nhân từ, Thổ thần đã đề cử Tử Văn làm phán sự đền Tản Viên.
Qua cuộc chiến không khoan nhượng chống lại sự ác trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, Nguyễn Dữ đã tiếp tục hé mở bộ mặt đen tối của những kẻ thường xuyên 'lừa dối, gian trá, thích làm trò quỷ quái”. Ông lên án thẳng thắn bộ phận quan lại thời đó, mạnh mẽ tố cáo hiện trạng “gốc gác của tội ác lan rộng, khó lòng thay đổi” và đứng về phía của kẻ gian tà cùng với hiện trạng của xã hội phong kiến lúc ấy có quá nhiều người có danh vọng nhưng thiếu ý nghĩa, lợi dụng quyền lực, địa vị để thực hiện những việc không công bằng. Truyện kết thúc một cách sâu sắc, thể hiện lòng nhân ái của nhân dân, chứng tỏ sự mạnh mẽ của cái thiện so với cái ác.
Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Dữ đã kết hợp một cách tinh tế yếu tố thực và huyền bí trong truyện để truyền tải nội dung. Thế giới của âm phủ với những linh hồn, hồn ma, bóng ma, những kẻ từ thế giới dương gian chuyển xuống địa phủ, từ thế giới âm trở lại thế giới dương tạo ra yếu tố kỳ bí cho câu chuyện. Tuy nhiên, tác giả cũng giới thiệu họ tên, quê quán và thời gian, địa điểm diễn ra sự kiện một cách cụ thể, kết hợp yếu tố thực với yếu tố huyền bí. Sự kết hợp này khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn và đầy ý nghĩa về mặt xã hội.
Bên cạnh đó, với cốt truyện đầy kịch tính, cách xây dựng nhân vật sắc nét và ngôn ngữ kể chuyện trau chuốt, súc tích, truyện đã khen ngợi nhân vật Ngô Tử Văn, một học giả Việt Nam có trí tuệ, nhân cách kiên cường và đáng kính, từ đó phản ánh niềm tin vào công lý, vào việc chống lại sự ác.
Với những giá trị đó, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên trở thành một tác phẩm nổi bật trong văn học trung đại Việt Nam, đồng thời góp phần xây dựng tên tuổi của Nguyễn Dữ. Và rất nhiều năm sau, tác phẩm vẫn giữ được giá trị của mình.
Viết một bài luận văn tả lại vẻ đẹp của tác phẩm đó, nhấn mạnh vào các phong cách nghệ thuật và thông điệp của tác phẩm - mẫu 3
Trong văn học, 'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi là biểu tượng vĩ đại của lòng yêu nước từ thời xa xưa, được coi như lá cờ tuyên ngôn cho sự độc lập của dân tộc.
Năm 1428, Nguyễn Trãi viết 'Bình Ngô đại cáo' khi cuộc chiến chống quân Minh kết thúc, góp phần giữ vững độc lập cho đất nước. Ông là anh hùng dân tộc, cũng là một nhà văn và nhà chính trị kiệt xuất.
'Bình Ngô đại cáo' được viết bằng thể cáo, một loại văn bản truyền thông quan trọng, đồng thời mang thông điệp quan trọng về sự kiện lịch sử và chính sách quốc gia.
Bài cáo chia thành bốn phần. Phần đầu tiên nhấn mạnh vào ý nghĩa của cuộc chiến đấu dân tộc, kết hợp với tư tưởng nhân nghĩa và độc lập.
Phần thứ hai tố cáo tội ác của quân Minh, với những hành động tàn bạo và âm mưu xâm lược đất nước, đồng thời nhấn mạnh vào ý chí của nhân dân trong cuộc kháng chiến.
Bài cáo kết hợp mạch lạc giữa chính luận sắc bén và nghệ thuật văn chương, tạo nên tác phẩm vừa truyền cảm vừa sắc bén.
'Đại bình ngô ca' của Nguyễn Trãi là tác phẩm ca ngợi chiến thắng lịch sử của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Tác phẩm không chỉ là di sản văn học lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng vĩ đại cho lòng yêu nước của người Việt.
'Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có…'
Viết một bài luận văn nhận định về tác phẩm đó, tập trung vào các khía cạnh nội dung và nghệ thuật tùy chọn - mẫu 4
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn...”
Những dòng thơ trong 'Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?' của Tố Hữu là lời khẳng định về tầm quan trọng của Truyện Kiều trong văn học Việt Nam. Truyện Kiều không chỉ là di sản văn học mà còn là biểu tượng của sự bền vững của dân tộc.
Truyện Kiều còn được biết đến với tên gọi là 'Đoạn trường tân thanh', tên này thể hiện nỗi đau đớn và tiếng khóc mới về nỗi đau. Tên này được lấy cảm hứng từ các câu chuyện cổ truyền của Trung Quốc và thể hiện sự đau khổ và sự chịu đựng của con người.
Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm, với hình thức thơ lục bát, thể loại thơ đặc trưng của Việt Nam. Tác phẩm này là sự kết hợp giữa di sản văn học Trung Quốc và sự sáng tạo của Nguyễn Du, tạo ra một tác phẩm văn học với giá trị văn hóa và nghệ thuật cao.
Trong Truyện Kiều, chúng ta được chứng kiến cuộc đời đầy sóng gió của Thúy Kiều sau khi cô bán mình để chuộc cha. Vương Quan, Thúy Vân và Thúy Kiều là con của Vương quan ngoại. Cả hai chị em đều xinh đẹp, nhưng Thúy Kiều không chỉ có vẻ đẹp mà còn có tài cầm, kỳ, thi, họa và đặc biệt là tài đánh đàn. Trên đường về từ chuyến du xuân, Kiều đã gặp nấm mồ của Đạm Tiên, sau đó gặp Kim Trọng. Trong giấc mơ, Kiều được Đạm Tiên cảnh báo về số phận đau khổ của mình. Kim Trọng đã yêu Kiều và chuyển về sống gần nhà cô. Kiều đã bị bán cho Mã Giám Sinh - Tú Bà, nhưng cô không đồng ý tiếp khách và đã chọn cái chết để bảo vệ trinh tiết. Tú Bà hứa sẽ gả Kiều cho người tử tế sau khi cô lành bệnh, nhưng thực ra lại âm thầm ép cô ra tiếp khách. Kiều được Thúc Sinh cứu và cưới, nhưng lại bị Hoạn Thư đánh ghen. Sau nhiều biến cố, Kiều được Từ Hải cứu và có cuộc sống hạnh phúc ngắn ngủi.
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác với những giá trị tư tưởng và nghệ thuật sâu sắc. Tác phẩm tạo ra một bức tranh chân thực về xã hội phong kiến thời đó, nơi mà tiền bạc có thể mua được mọi thứ, kể cả công lý và đạo đức. Truyện Kiều cũng là lời cáo buộc đầy mạnh mẽ về sự đen tối của xã hội và sức mạnh của tiền bạc.
Trong tác phẩm, chúng ta theo dõi cuộc đời đầy bi kịch của Thúy Kiều, một người con gái tài năng nhưng luôn phải đối mặt với những thử thách và khó khăn. Kiều luôn nhớ về Kim Trọng và khao khát được trở về nhà, nhưng nỗi ám ảnh về món nợ hồng nhan không bao giờ rời bỏ cô.
“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”
Đọc Truyện Kiều, người đọc cảm thấy thương cảm và đồng cảm với số phận của Kiều, đồng thời cảm nhận được khát vọng về tình yêu tự do và công lý của tác giả. Tình yêu tự do và ước mơ về công lý là hai chủ đề quan trọng được Nguyễn Du nhấn mạnh trong tác phẩm.
Truyện Kiều cũng là một bức chân dung tinh thần của Nguyễn Du, với sự sâu sắc và đa chiều của con người. Tác phẩm thể hiện sự đau đớn, tủi nhục và hy vọng của con người trong một xã hội thối nát.
Viết một bài văn nghị luận về Truyện Kiều, chúng ta có thể tập trung vào các khía cạnh nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, để hiểu rõ hơn về giá trị văn học và tư tưởng mà nó mang lại.
Mỗi lĩnh vực trong cuộc sống đều đem lại nguồn cảm hứng và cảm xúc đặc biệt cho con người. Văn học không ngoại lệ, khi tiếp xúc với nó, ta có thể cảm nhận, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn cùng nhân vật và hiểu được những tư tưởng đạo lý được tác giả truyền đạt. Trong tất cả những tác phẩm mà tôi đã đọc, 'Lặng lẽ Sa Pa' của Nguyễn Thành Long để lại ấn tượng sâu sắc nhất với tôi.
Khi nhắc đến Nguyễn Thành Long, người ta nghĩ ngay đến một cây bút chuyên nghiệp, nhất là với thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Mỗi trang văn của ông đều phản ánh sự thơ mộng, giàu tình cảm, khiến người đọc như lạc vào một thế giới tinh tế, dịu dàng. Trong số đó, 'Lặng lẽ Sa Pa' là một ví dụ điển hình.
Tác phẩm này là kết quả của chuyến đi thực tế của tác giả tới Lào Cai vào năm 1970 và được xuất bản trong tập 'Giữa trong xanh' (1972). Với 'Lặng lẽ Sa Pa', Nguyễn Thành Long đã nêu bật cuộc sống mới, hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tác phẩm tôn vinh những người sống và làm việc một cách nhẹ nhàng, không mong chờ gì đổi lại cho cuộc sống này.
Truyện bắt đầu với cuộc hành trình từ Hà Nội đến Lào Cai, với sự gặp gỡ giữa ông họa sĩ, bác lái xe và cô kỹ sư trẻ. Cuộc gặp gỡ này đã để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm trí mọi người, đặc biệt là với anh chàng làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Tuy gặp nhau chỉ trong thời gian ngắn, nhưng anh đã để lại dấu ấn đáng nhớ trong lòng mọi người.
Tác phẩm được chia thành ba phần, mỗi phần tương ứng với một sự kiện: Phần đầu kể về lời kể của bác lái xe về anh chàng làm công tác khí tượng, phần tiếp theo là cuộc gặp gỡ giữa anh chàng này với ông họa sĩ và cô kỹ sư, và phần cuối là cuộc chia tay đầy cảm xúc. Đồng thời, tác phẩm cũng tả lại vẻ đẹp của Sa Pa, cảnh thiên nhiên và con người nơi đây.
Thiên nhiên ở Sa Pa hiền hòa và đẹp đẽ, với ánh nắng, con đèo, hoa tử kinh, rừng cây, mỗi thứ đều thấm đẫm sương, tạo nên một vẻ đẹp tinh khiết, gần gũi. Chỉ cần vài đường nét, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên Sa Pa một cách sinh động, bằng ngôn ngữ mộng mơ, sâu lắng, khiến người đọc cảm nhận sâu sắc về con người và cuộc sống ở đây.
Tác phẩm 'Lặng lẽ Sa Pa' là một minh chứng cho sức mạnh của văn học, khả năng làm cho người đọc hiểu và cảm nhận những điều tinh tế, thâm sâu từ cuộc sống hàng ngày. Nhờ tác phẩm này, ta có thể cảm nhận được sự hòa hợp, sự tĩnh lặng và vẻ đẹp tinh thần của Sa Pa và con người ở đây.
Vẻ đẹp của những người dân tộc nơi vùng núi rừng Sa Pa không phải là những vị thần huyền thoại, cũng không phải là những anh hùng vĩ đại trong truyền thuyết. Họ là những con người chăm chỉ, làm việc mỗi ngày, sống trong điều kiện khắc nghiệt của núi rừng.
Ngoài ra, còn có những nhân vật như ông hoạ sĩ, cô kỹ sư, bác lái xe, ông kỹ sư vườn rau, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét. Họ đã mang đến cho câu chuyện những màu sắc đa dạng.
Tác phẩm 'Lặng lẽ Sa Pa' không chỉ là câu chuyện về những người dân tộc sống ở Sa Pa mà còn là bài học về sự sống và trách nhiệm cá nhân. Nhà văn đã sử dụng những nhân vật và sự kiện cụ thể để thể hiện những giá trị nhân văn đích thực.
Văn học từ mọi thời đại đều để lại những tác phẩm mang giá trị lịch sử. Bài thơ Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là biểu tượng của niềm tự hào dân tộc.
Cảm hứng cho việc sáng tác bài thơ Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là những hồi ức về quá khứ hào hùng của dân tộc. Bài thơ không chỉ là sự kể chuyện mà còn là một bài học về lòng yêu nước và trách nhiệm.
Về mặt hình thức, bài thơ Phú Sông Bạch Đằng được viết bằng chữ Hán và theo thể loại Phú. Lối kể chuyện độc đáo của tác giả đã tạo ra một tác phẩm độc đáo và ấn tượng.
Bài thơ mang đến một hành trình qua sông Bạch Đằng, một hành trình của trí tuệ và tâm hồn. Qua những câu chuyện của bô lão và những lời ca của khách, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp và ý nghĩa lịch sử của sông Bạch Đằng.
Về phần nội dung cụ thể của tác phẩm, ta có thể đi sâu vào từng phần một. Phần mở đầu của bài thơ Phú, tác giả mô tả cảnh người khách thong thả thuyền trên dòng sông:
'Khách nào
Giơ buồm chơi với gió,
Lướt sóng, ngắm trăng lững lờ'.
Trong những dòng thơ này, hình ảnh của người khách hiện ra rõ ràng. Họ là những người du khách mạnh mẽ, tự do. Họ đang tận hưởng cuộc sống và đồng thời tìm kiếm lịch sử của dân tộc Đại Việt. Tâm trạng của họ chứa đựng nhiều suy tư và cảm xúc, như 'đứng lặng giây phút dài', 'nhớ về anh hùng đâu đã biến mất?', 'tiếc nuối dấu vết lịch sử vẫn còn lại'... Dưới bút của Trương Hán Siêu, nhân vật khách trở nên sống động. Có thể người khách chính là tác giả. Họ là biểu tượng của sự kiêng nể, nhạy cảm và lòng yêu nước của một nhà văn.
Theo dòng lịch sử, người khách gặp bô lão. Nhân vật bô lão đại diện cho một tập thể, xuất hiện như một người bạn đồng hành với khách. Họ cũng là những người chứng kiến lịch sử. Sự gặp gỡ này tạo ra một không khí tự nhiên, giúp người khách hồi sinh với những trận chiến lừng lẫy từng diễn ra ở đây.
Tất cả những kỳ tích lịch sử được tái hiện một cách sống động qua những hình ảnh chi tiết:
'Đây là địa bàn của trận Trùng Hưng, khi hai vị anh hùng bắt được Ô Mã.
Bãi đất này từng là nơi Ngô Chúa Phú Hoàng Thao từng đặt chân'.
Không khí của cuộc chiến phấn khích hiện ra trong từng câu văn:
'Thuyền đầy vóc bát ngát
Uy nghiêm phấp phới,
Hùng hổ sáu quân,
Vũ khí lấp lánh'...
Các hình ảnh đặc sắc và các sự kiện lịch sử được đề cập, nhấn mạnh sự thất bại thảm hại của địch trong quá khứ (Xích Bích, Hợp Phì, Bồ Kiên...). Chiến thắng trên sông Bạch Đằng được tái hiện dưới hình thức bài thơ tự sự anh hùng. Tiếng trống chiến, tiếng gươm vang vọng hòa vào cảm hứng tự hào, kiêu hãnh trước khi lắng xuống trong suy tư. Những trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng cũng khẳng định tầm vóc lịch sử của dân tộc ta không kém cạnh Trung Quốc.
Viết một bài văn nghị luận về tác phẩm đó tập trung vào các vấn đề nội dung và nghệ thuật - mẫu 7
Trong lĩnh vực văn xuôi hiện đại của Việt Nam, Nam Cao được biết đến là một nhà văn tài năng và có phong cách riêng. Ngòi bút của ông vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa đậm nét suy tư và tình yêu. Văn của Nam Cao rất chân thực, ông coi sự thật là trên hết, không gì cản trở ông tiếp cận với sự thật, vừa nuôi dưỡng những ý nghĩa triết lý và tình cảm trữ tình. Ông có khả năng mô tả, phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ trong tác phẩm sống động, lanh lợi, tinh tế, gần gũi với lời nói hàng ngày. Với tài năng và sức sáng tạo, Nam Cao đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của văn xuôi hiện đại ở Việt Nam.
Tác phẩm của Nam Cao chủ yếu là những truyện ngắn, trong đó, “Lão Hạc” là một ví dụ xuất sắc và điển hình.
Truyện ngắn “Lão Hạc” được đăng báo lần đầu vào năm 1943, kể về nhân vật chính – lão Hạc, một người nông dân nghèo, trung dung, vợ lão Hạc mất sớm, để lại lão và cậu con trai, trong nhà chỉ có một mảnh vườn và “cậu vàng” – con chó do con trai lão mua. Vì không đủ tiền cưới vợ, con trai lão cảm thấy chán nản và quyết định đi làm công ở một mỏ phu đồn điền cao su, để lão ở nhà một mình với cậu vàng. Lão Hạc chăm chỉ làm vườn, tiết kiệm để chuẩn bị cho việc con trai trở về và lấy vợ. Nhưng sau một thời gian ốm đau, tiền tiết kiệm cũng dần cạn kiệt, sức khỏe lão suy yếu, vườn không còn thu hoạch được gì, lão Hạc trở nên đói khổ hơn, phải lo từng bữa ăn. Lão Hạc hối hận khi phải bán cậu vàng, người bạn thân thiết của mình. Lão gửi số tiền và mảnh vườn cho ông giáo và nhờ ông giữ chó của Binh Tư để kết thúc cuộc sống của mình. Lão Hạc qua đời trong cảnh đau đớn, nhưng cái chết đã làm sáng tỏ phẩm chất trong sạch của lão.
Qua số phận và cái chết của lão Hạc, Nam Cao đã thể hiện sự tôn trọng và tinh thần nhân đạo đối với lão Hạc và người nông dân nói chung, những người sống trong sạch sẽ, trung đức, sẵn lòng chịu đau khổ thay vì làm những điều trái với lương tâm của họ. Nam Cao cũng đã nêu bật một triết lý nhân sinh rằng: con người chỉ xứng đáng được gọi là con người khi biết trân trọng và chia sẻ, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương ở con người.
Nam Cao đã đồng cảm với những số phận đáng thương, và thông qua tác phẩm, ông lên tiếng chỉ trích xã hội hiện nay đầy bất công, không cho phép những người có phẩm chất cao như lão được sống.
Tác phẩm “Lão Hạc” cũng mang lại giá trị nghệ thuật sâu sắc, thể hiện được phong cách độc đáo của Nam Cao. Câu chuyện được kể qua góc nhìn của nhân vật tôi, làm cho nội dung trở nên gần gũi, chân thực với một hệ thống ngôn ngữ mộc mạc, dễ hiểu và giàu triết lí.
Trong tác phẩm, có nhiều giọng điệu, kết hợp một cách hòa hợp giữa hiện thực và tình cảm. Đặc biệt, bút pháp mô tả nhân vật tài tình của Nam Cao được thể hiện rõ ràng qua ngôn ngữ sống động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và sức gợi cảm.
Có thể nói “Lão Hạc” là một truyện ngắn thành công tuyệt vời của Nam Cao. Nhà văn không chỉ thể hiện tấm lòng nhân đạo, mà còn vượt qua phong cách nghệ thuật độc đáo và hiếm có của mình.
Viết một bài văn nghị luận về tác phẩm tập trung vào các vấn đề nội dung và nghệ thuật - mẫu 8
Mỗi lĩnh vực trong cuộc sống đều mang lại cảm hứng và cảm xúc khác nhau cho con người. Văn học cũng như vậy, khi tiếp cận văn học, con người có thể sống cùng, vui cùng, khóc cùng nhân vật, cảm nhận được những tư tưởng đạo lý mà người nghệ sĩ muốn truyền đạt. Và tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long đã khiến cho người đọc cảm nhận rõ điều đó.
Khi nhắc đến nhà văn Nguyễn Thành Long, ông là một cây bút chuyên viết về tiểu thuyết và truyện ngắn từ thời kháng chiến chống Pháp. Mỗi trang văn của Nguyễn Thành Long đều chứa đựng chất thơ đậm đà, giàu ý vị nhẹ nhàng, tình cảm, khiến người đọc như được bước vào một thế giới mơ mộng, thanh thản, và đồng thời cũng chứa đựng nhiều triết lý sâu sắc trong từng câu từ. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” cũng không phải là ngoại lệ.
Tác phẩm được tạo ra dựa trên trải nghiệm thực tế của tác giả tại Lào Cai vào năm 1970, được xuất bản trong tập sách “Giữa trong xanh” (1972). Qua tác phẩm này, nhà văn đã nêu bật vấn đề về cuộc sống mới dưới thời hòa bình, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, với việc ca ngợi những người dân sống và lao động một cách im lặng, hy sinh cho quê hương, cho cuộc sống.
Câu chuyện mở đầu bằng việc giới thiệu về chuyến xe khách từ Hà Nội đi Lào Cai với sự hiện diện của ông họa sĩ già, bác lái xe, và cô kỹ sư trẻ. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này đã để lại nhiều ấn tượng đặc biệt với mọi người, đặc biệt là anh chàng thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Anh chàng này đã làm cho lòng người rung động bằng sự chân thành và tinh thần trách nhiệm với công việc của mình.
Câu chuyện được chia thành ba phần, mỗi phần tập trung vào một sự kiện cụ thể: việc giới thiệu về anh thanh niên qua lời kể của bác lái xe, cuộc gặp gỡ và trò chuyện giữa anh thanh niên với ông họa sĩ và cô kỹ sư, và cuộc chia tay đầy ấn tượng. Đồng thời, qua câu chuyện, độc giả cũng có thể trải nghiệm được vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa và nét đẹp tinh tế của con người nơi đây.
Vẻ đẹp dịu dàng của Sa Pa được mô tả qua những hình ảnh như nắng, con đèo, cây hoa tử kinh, rừng già... Tác giả đã tạo ra một bức tranh về Sa Pa với vẻ đẹp thơ mộng, bằng ngôn ngữ trong sáng, đường nét mềm mại. Đồng thời, qua đó cũng mở ra phần nào về con người và cuộc sống nơi đây.
Con người ở Sa Pa không phải là những vị thần hay anh hùng vang danh, mà là những người lao động âm thầm, sống và làm việc mỗi ngày với tinh thần trách nhiệm và lòng hiếu khách. Nhân vật chính, anh thanh niên làm việc trên đỉnh núi Yên Sơn, đã được nhà văn khắc hoạ lên như một người sống chất phác, tự tìm niềm vui trong công việc và yêu thương cuộc sống.
Câu chuyện nhấn mạnh vào vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc im lặng trong cuộc sống. Qua những trang sách, người đọc được nhận thức về tinh thần hi sinh, sự cống hiến cho cuộc sống, cho xã hội.
“Lặng lẽ Sa Pa” là một tác phẩm ngắn đầy cảm xúc và ý nghĩa. Đó là một câu chuyện mà mỗi người nên đọc và cảm nhận ít nhất một lần trong đời.
Viết một bài văn nghị luận bàn về tác phẩm đó theo các vấn đề nội dung và nghệ thuật tự chọn - mẫu 9
Nam Cao (1917-1951) là một nhà văn hiện thực nổi tiếng của Việt Nam, là một trong những biểu tượng của nhân đạo trong thế kỷ XX. Tác phẩm của ông vượt qua thử thách của thời gian, ngày càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tinh thần nhân đạo cao quý và nghệ thuật tinh tế, độc đáo.
Ông đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự phát triển của truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX. “Lão Hạc” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nam Cao. Tác phẩm này đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc với độc giả về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ đe dọa của nạn đói và cảnh đời cùng túng.
Tác giả tập trung vào tâm trạng của nhân vật chính – lão Hạc – qua việc mô tả về việc bán chó, từ đó làm sáng tỏ tấm lòng của một người cha thương tâm, một con người với nhân cách đáng quý và sự thật phũ phàng của cuộc sống.
Thấu hiểu qua những tình tiết của câu chuyện, độc giả có thể cảm nhận được đau khổ cuộc sống của người nông dân trước cách mạng. Cuộc đời lão Hạc đầy đau thương: vợ mất sớm, con trai bỏ đi, thất nghiệp, và cuối cùng là sự lâm vào đường cùng.
Mỗi ngày trôi qua là một ngày lão sống trong nỗi đau khổ. Hình ảnh lão Hạc là biểu tượng của người nông dân Việt Nam trong bóng tối. Cuộc sống của họ được tái hiện bằng những lời kể chân thực của Nam Cao, người viết văn thực như cuộc đời.
Mỗi người nông dân đều thấy mình trong những tác phẩm của Nam Cao: nghèo đói, túng quẫn, nhưng lương thiện. Nam Cao đã thể hiện tình yêu thương và sự tôn trọng đối với người nông dân Việt Nam trước cách mạng bằng giọng văn đặc biệt của mình.
Dường như tất cả những phẩm chất tốt đẹp ấy đều tập trung hoàn hảo trong nhân vật lão Hạc. Trước hết, lão là một người cha mẫu mực, trọn đời sống vì con, chăm sóc, yêu thương con trai một cách tha thiết. Sau khi không thể tổ chức đám cưới cho con để nó phải rời đi, lão Hạc luôn sống trong nỗi lo âu và đau khổ. Lão dành ngày đêm suy nghĩ về con, lo lắng cho cuộc sống của con khi nó quay trở lại dù không biết đến khi nào.
Tình yêu của lão Hạc dành cho con chính là những cung bậc cao đẹp nhất, tuyệt vời nhất của tình cha con. Tình yêu dành cho con đã được lão truyền dồn vào tình yêu dành cho con chó Vàng mà lão để lại. Dù nó chỉ là một con chó, nhưng lão coi nó như một người, ăn chung, ngủ cùng, chia sẻ như những người bạn. Cao trào của câu chuyện chính là lúc Nam Cao mô tả sự đau khổ tột cùng của lão Hạc khi phải bán con chó.
Lão yêu thương nó như vậy, nhưng lại phải bán nó đi. Có gì đau đớn hơn khi phải bán người bạn của mình? Nhưng lão Hạc làm thế, tất cả cũng chỉ vì lo cho tương lai của đứa con ở xa. Sau khi bán con Vàng, lão lại hối tiếc. Sự lương thiện, lòng nhân hậu của một con người chân chính khiến lão cả đời không làm điều ác, khiến lão đau lòng vì đã bán một người bạn như con. Lão coi nó như con, như bạn mà lại dám bán nó đi.
Điều đó khiến lão chịu đựng đau đớn cho đến khi qua đời. Cuộc sống của một lão nông dân khiến lão Hạc chẳng bao giờ có một ngày no đủ. Nhưng nhờ phẩm chất lương thiện, lão dù nghèo nhưng chưa bao giờ ăn cắp của ai, dù thiếu thốn nhưng chưa bao giờ kêu xin ai. Vì yêu thương con, lo lắng cho tương lai của nó và bảo vệ cho đến cùng bản tính lương thiện của mình, lão Hạc đã quyết định đau đớn nhất cuộc đời: tự tử bằng cách nghẹn bả chuột.
Chắc chắn những ai đã từng một lần đọc “Lão Hạc” không thể kìm lòng trước cái chết đau đớn, khốc liệt của lão. Muốn chết mà cũng phải đau đến thế à? Nhưng lão chết mà vẫn còn lo lắng sắp đặt cho cái chết của mình, lão bình tĩnh sắp xếp để không làm phiền đến bà con xóm làng. Lão chấp nhận chết để bảo toàn số tiền cho con, chết để giữ lại lòng lương thiện, chết trong đau đớn nhưng trong sạch.
Mỗi từ của Nam Cao là một lời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Ông yêu mến họ, thương cảm họ và trân trọng họ. Những người nông dân phải sống cuộc sống khó khăn trước cách mạng nhưng vẫn giữ trọn những gì trong sáng nhất, cao cả nhất, đẹp đẽ nhất của những con người lương thiện. Thành công của truyện ngắn “Lão Hạc” không chỉ dừng lại ở nội dung hiện thực phê phán hết sức tiêu biểu và sinh động mà còn thành công bởi giá trị nghệ thuật đặc sắc.
Đọc tác phẩm của Nam Cao ta thấy như đang được nghe kể những câu chuyện có thật trong cuộc đời bởi cách kể chuyện, dẫn dắt chuyện rất tự nhiên. Lời văn của Nam Cao mộc mạc, chân thành dường như tự bản thân nó đã thế, chẳng cần trau chuốt cầu kỳ. Điều đó khiến độc giả càng hiểu hơn, càng cảm thông và yêu thương hơn những người nông dân Việt Nam nghèo khó, đau khổ nhưng cao đẹp tuyệt vời.
Dường như văn chương của Nam Cao là hồi ký của cuộc đời, là tiếng nói của từng tâm hồn con người. Văn chương và cuộc đời dường như không còn ranh giới, không gian cách. Nam Cao là một nhà văn có tài năng đặc biệt trong việc khám phá sâu vào tâm trí của nhân vật mà ít nhà văn nào có thể sánh kịp. Dưới ngòi bút của Nam Cao, mỗi chi tiết nhỏ nhất, sâu sắc nhất về nhân vật đều được thể hiện một cách chân thực.
Lão Hạc, sau khi bán con chó Vàng, ông đã phải đối mặt với sự ân hận và đau khổ không dứt. Ông cố giấu đi cảm xúc ấy, nhưng càng giấu thì càng trỗi dậy, vì sự đau đớn của ông quá lớn.“Ông cố tỏ ra vui vẻ. Nhưng ánh mắt ông uất ức và đôi mắt ông đầy nước. Khuôn mặt ông co lại. Những vết nhăn đan xen với nhau, khiến nước mắt tuôn trào. Đầu ông nghiêng về một bên và miệng ông khẽ cười, giống như một đứa trẻ. Ông khóc...”Khuôn mặt của Lão Hạc hiện lên với những cung bậc cảm xúc đau đớn và hối tiếc tột cùng.
Ngòi bút miêu tả của nhà văn đã thật sự thành công trong đoạn văn này. Mỗi chi tiết trên khuôn mặt của nhân vật được Nam Cao “vẽ” ra bằng ngôn từ biểu cảm. Có thể là tình yêu thương đối với con người đã giúp Nam Cao có những cảm nhận nhạy bén, miêu tả sắc nét như thế.
Không chỉ thế, nhà văn tài năng Nam Cao còn lồng ghép được những suy tư lo lắng của Lão Hạc, những lo toan về tương lai của con trai, thể hiện lòng trắc ẩn của một người cha đáng kính. Dưới bàn tay của Nam Cao, Lão Hạc trở thành biểu tượng của người nông dân Việt Nam: nghèo khó nhưng lương thiện, đau khổ nhưng cao đẹp, lo toan cho gia đình cho đến khi rời bỏ thế gian.
Những dòng cuối cùng của truyện ngắn “Lão Hạc” khiến độc giả vẫn cảm thấy rưng rưng không nguôi. Chúng ta không chỉ đồng cảm với số phận của những người nông dân đau khổ, không chỉ chia sẻ nỗi đau và sự cố gắng của họ, mà còn trân trọng họ vì những phẩm chất cao đẹp và lòng lương thiện.
Đó là thành công tuyệt vời nhất của nhà văn khi ông có được sự đồng cảm từ độc giả với những nhân vật của mình. Với sự quan sát tỉ mỉ về cuộc sống, với cảm nhận sâu sắc về số phận con người, và đặc biệt là với tấm lòng yêu thương và trân trọng con người, Nam Cao đã viết nên những tác phẩm vĩ đại vượt thời gian.
Viết một bài văn nghị luận bàn về tác phẩm đó theo các vấn đề nội dung và nghệ thuật tự chọn - mẫu 10
Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là một tác phẩm nổi bật trong văn học yêu nước thời Lý - Trần. Trương Hán Siêu, một văn sĩ của thời đại Trần, quê gốc ở Ninh Bình. Trẻ con, ông từng là môn khách của Trần Hưng Đạo, góp phần không nhỏ trong cuộc kháng chiến chống lại Nguyên Mông hai lần. Ông đã giữ nhiều vị trí quan trọng trong triều đại Trần, được các vua Trần tôn trọng như một người thầy, và được các nhà sử học sau này coi là một học giả nho chân chính của thời kỳ Thịnh Trần. Tác phẩm của ông thể hiện tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống vĩ đại của dân tộc, đậm chất trữ tình và hoài cổ. Ngôn ngữ trong văn chương của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng, sử dụng thành công những hình dung giàu cảm xúc, và giọng điệu thi phú rất uyển chuyển.
Bài Bạch Đằng giang phú được sáng tác sau chiến thắng của cuộc kháng chiến chống lại Nguyên Mông khoảng 50 năm. Bạch Đằng là con sông chứng kiến nhiều chiến công vĩ đại của dân tộc như trận thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền, và trận thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Nhiều nhà thơ đã viết về dòng sông lịch sử này, nhưng bài thơ “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là nổi tiếng và đặc sắc nhất. Tác phẩm được viết theo lối phú cổ thể. Đây là một thể loại văn có nguồn gốc từ Trung Quốc, viết bằng văn vần hoặc văn xuôi kết hợp văn vần, miêu tả sự kiện, phong tục, cảnh vật, và cuộc sống.
Mở đầu bài phú, tác giả diễn đạt ước muốn của mình là được đi khắp nơi để tận hưởng và ngắm nhìn vẻ đẹp của quê hương, đất nước.
Khách trên thuyền
Gió thổi buông buồm nổi trôi,
Chèo thuyền ra biển, ngắm trăng rơi.
Tác giả đã liệt kê một loạt những địa danh nổi tiếng, những nơi có vẻ đẹp được nhiều người biết đến ở Trung Quốc như: Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt... Đây là cách tượng trưng niềm khao khát mãnh liệt của tác giả được du ngoạn nhiều nơi để tận hưởng cảnh đẹp của thiên nhiên và đất nước.
Ở phần tiếp theo, chúng ta lại thấy cảnh sông Bạch Đằng qua lời miêu tả của nhân vật khách tạo nên một bức tranh sinh động, giản dị:
Dòng nước vỗnh vang xa trông,
Chim trĩ bay nhảy, một màu xanh.
Bầu trời một màu,
Phong cảnh bốn mùa.
Dựa vào những từ ngữ sinh động, kết hợp với việc đề cập đến những địa danh nổi tiếng liên quan đến sông Bạch Đằng, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp vĩ đại, bao la của dòng sông này. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện cảm xúc của mình khi đối diện với một phần của lịch sử sống động.
Nỗi nhớ anh hùng không phai mờ
Tiếc nuối dấu vết vẫn hiện hữu
Bên cạnh đó, chúng ta cũng được chứng kiến sự hào hùng của quân đội trong trận đánh ở sông Bạch Đằng qua những lời kể kể của các người già thật tráng lệ và uy nghi trong phần trình bày:
Thuyền tàu vô số, tinh thần phấn chấn,
Quân ta mạnh mẽ, quyết đoán như gươm sáng bóng.
...
Giống như ngày xưa:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan hoang tan nát,
Trận Hợp Phì kẻ thù Bồ Kiên hoàn toàn bị hủy diệt.
Từ đó, chúng ta nhận ra những chiến công hùng vĩ được mô tả bằng lối văn truyền cảm, nhanh chóng, tái hiện lại không khí hào hùng, mang đậm dấu ấn của một bản anh hùng ca đầy tự hào. Lời kể của những người lớn tuổi đã làm nổi bật chiến thắng vĩ đại của quân dân ta và thất bại đầy nhục nhã của đối phương.
Đồng thời, tác giả cũng bàn về nguyên nhân của chiến thắng:
Thật vậy: Trời đất bày ra nhiều thử thách,
Và cũng vì: Nhân tài đảm trách cuộc chiến.
Theo quan điểm của các người lớn tuổi, chiến thắng của dân ta không chỉ nhờ vào địa lợi mà còn nhờ vào tài năng của nhiều người. Một trong số những nhân tài xuất sắc của thời kỳ đó là vua Trần Quốc Tuấn - Hưng Đạo Vương. Cuối cùng, tác giả kết thúc bài phú bằng hai lời ca. Đầu tiên là lời của các người lớn tuổi:
Dòng sông Đằng dài trải khắp,
Luồng nước lớn dồn về biển Đông.
Những kẻ vô nghĩa sẽ lụy hại,
Chỉ anh hùng mới trường tồn với danh tiếng.”
Những lời ca của các người lớn tuổi cũng khẳng định một triết lý vững chắc: kẻ vô nghĩa sẽ bị tiêu diệt, còn anh hùng sẽ được ghi danh vĩnh viễn. Ngoài ra, khách còn tiếp tục lên tiếng ca ngợi rằng:
Chín vị anh minh quân vương,
Dòng sông giặc đã rửa sạch mấy lần vũ khí.
Kẻ thù tan hoàn toàn, thế bình lên ngôi.
Vì đất nước hiểm nguy mà dân chúng dũng mãnh.
Tác giả đã khen ngợi lòng anh minh của vua Trần - một người có đức đạo cao, luôn đặt lợi ích của quốc gia lên trên lợi ích cá nhân. Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng chiến thắng của quân đội ta phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể thiếu được những nhân tài và lãnh đạo có đức đạo luôn lo lắng cho dân, cho đất nước…
Qua việc tưởng nhớ về quá khứ, bài phú Bạch Đằng giang phú đã thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, đạo lý nhân nghĩa vĩnh cửu của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao quý thông qua việc tôn vinh vai trò, vị thế của con người trong lịch sử.
Viết một bài văn nghị luận phân tích về tác phẩm đó dựa trên các vấn đề nội dung và nghệ thuật tự chọn - mẫu 11
Tập trung ca ngợi những lao động mới, mạnh dạn và sáng tạo, không sợ khó khăn, say mê trong công việc sáng tạo, nhân hậu và yêu cuộc sống là một trong những thành công của văn học Việt Nam trong việc viết về xây dựng đất nước trên miền Bắc theo chủ nghĩa xã hội. Trong những thành công đó, có Nguyễn Thành Long và truyện ngắn Lặng Lẽ Sapa.
Nhà văn Nguyễn Thành Long (1925-1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, viết văn từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ông nổi tiếng với việc viết truyện ngắn và bút ký. Ông tin rằng công việc sáng tạo nghệ thuật là một con đường gian khổ đòi hỏi người viết phải có cá tính sáng tạo. Truyện của Nguyễn Thành Long thu hút độc giả bằng văn trong sáng, giàu chất thơ, nhẹ nhàng thoải mái, với cốt truyện tưởng như giản đơn nhưng sâu sắc. Tác phẩm của ông đã được xuất bản trong nhiều tập truyện như: Bát cơm Cụ Hồ (1955); Chuyện nhà chuyện xưởng (1962); Những tiếng vỗ cánh (1967); Giữa trong xanh (1972); Nửa đêm về sáng (1978); Lý Sơn mùa tỏi (1980); Sáng mai nào, xế chiều nào (1984); Lặng lẽ Sa Pa (1990). Ông đã được vinh danh bằng Giải thưởng Phạm Văn Đồng với tập truyện kí Bát cơm Cụ Hồ (1953).
Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, viết năm 1970 sau chuyến đi Lào Cai, là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của ông. Truyện viết về một thị xã nhỏ ở tỉnh Lào Cai luôn chìm trong sương mù: Sa Pa. Tác phẩm mô tả những con người thú vị tại nơi này và nhấn mạnh tinh thần lao động và tình yêu đối với đất nước. Bốn nhân vật chính của truyện, không có tên, tuy có tính cách và nghề nghiệp khác nhau, nhưng họ đều có chung tinh thần làm việc và cống hiến cho Tổ quốc một cách vô tư, hồn nhiên, và lặng lẽ.
Lặng lẽ Sa Pa có một cốt truyện đơn giản, tập trung vào cuộc hội ngộ của bốn người không có tên: ông họa sĩ già, cô kỹ sư mới tốt nghiệp, bác lái xe và anh thanh niên làm việc tại trạm khí tượng trên núi Yên Sơn. Tác giả giới thiệu nhân vật qua góc nhìn của những người khác, vẽ nên bức tranh về cuộc sống lao động ở Sa Pa và ý nghĩa của công việc thầm lặng.
Truyện xây dựng tình huống hợp lý, cách kể chuyện tự nhiên, miêu tả nhân vật từ nhiều góc độ, sử dụng ngôn ngữ chân thực giàu chất thơ và họa; kết hợp giữa việc kể chuyện và bình luận.
Viết một bài văn nghị luận phân tích về tác phẩm này theo các vấn đề nội dung và nghệ thuật tự chọn - mẫu 12
Khi nhắc đến văn học trung đại Việt Nam, không thể không kể đến Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều. Với tài năng văn học kiệt xuất và lòng nhân đạo, Nguyễn Du đã để lại dấu ấn sâu sắc qua các tác phẩm, đặc biệt là Truyện Kiều.
Nguyễn Du, hay còn được biết đến với tên Tố Như và hiệu Thanh Hiên (1765 – 1820), xuất thân từ làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông có nguồn gốc từ một gia đình quý tộc với truyền thống văn chương. Cuộc đời ông chứa đựng nhiều biến cố và gian truân, nhưng ông vẫn được coi là một trong những người tài năng nhất của thời đại. Tâm hồn giàu lòng yêu thương và cảm thông sâu sắc với những người nghèo khổ là điều khiến Nguyễn Du nổi tiếng.
Nguyễn Du là một thiên tài văn học, là một ngôi sao sáng trong văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm của ông, đặc biệt là Truyện Kiều, là một tác phẩm văn học vĩ đại, được viết bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Truyện Kiều là một trong những kiệt tác của văn học Việt Nam, thể hiện rõ tài năng sáng tác của Nguyễn Du.
Truyện Kiều, ban đầu có tên là 'Đoạn trường tân thanh', sau đó được đổi thành 'Truyện Kiều', là một tác phẩm thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Du. Tác phẩm này không chỉ kể về cuộc đời của Kiều mà còn tố cáo xã hội phong kiến và ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Truyện Kiều là một trong những tác phẩm văn học có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong văn học Việt Nam.
Truyện Kiều kể về cuộc đời bi thương của Thuý Kiều, một cô gái tài năng và xinh đẹp. Tác phẩm thể hiện rất rõ hiện thực xã hội đương thời và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Cuối cùng, sau bao nhiêu gian truân, Kiều cũng được đoàn tụ với gia đình và người yêu sau mười lăm năm lưu lạc.
Giá trị của Truyện Kiều được thể hiện không chỉ qua nội dung mà còn qua nghệ thuật. Trong tác phẩm, giá trị hiện thực và nhân đạo được đề cao, phản ánh sự tàn bạo của xã hội phong kiến và tình trạng áp bức, bóc lột của người nghèo, đặc biệt là phụ nữ. Cuộc sống bình yên của gia đình nhà Vương bị phá vỡ chỉ vì một lời vu oan, khiến cuộc sống của họ rơi vào cảnh đảo lộn. Đồng tiền đã trở thành thế lực vô cùng đáng sợ, làm băng hoại lương tâm, nhân phẩm của con người.
Trong Truyện Kiều, giá trị nhân đạo được thể hiện qua việc tôn trọng con người từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng đến tình yêu và ước mơ. Nhân vật được tạo ra đều có những phẩm chất tích cực như đạo đức, trung thành và lòng hiếu thảo. Tình yêu chân chính của Kiều và Kim Trọng cũng là một điểm nhấn về giá trị nhân đạo trong tác phẩm.
Trong bài văn nghị luận về Truyện Kiều, ta có thể chọn các vấn đề nội dung và nghệ thuật để thảo luận. Tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề xã hội như tình trạng áp bức, bóc lột, cũng như tình yêu và lòng nhân đạo. Nghệ thuật của Nguyễn Du cũng đáng để nghiên cứu với sự sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình tượng.
Nguyễn Trãi, một trong những tác giả vĩ đại của văn học Việt Nam, đã để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” thể hiện rõ tấm lòng yêu nước, tình thương dân tộc của Nguyễn Trãi.
“Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, là tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm này là một ví dụ xuất sắc về thể loại văn học cáo, với sự kết cấu chặt chẽ và lập luận thuyết phục.
Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được viết bằng thể cáo, thể loại văn học có nguồn gốc từ Trung Quốc. Bài cáo này chia làm bốn phần, với cấu trúc rõ ràng và mạch lạc, thể hiện sự thông suốt và uyên bác của tác giả.
Bài cáo “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được chia làm bốn phần, mỗi phần được xây dựng với cấu trúc chặt chẽ và lập luận sắc bén. Tác phẩm này là một minh chứng rõ ràng cho sự xuất sắc của văn học thời cổ điển Việt Nam.
Vì lòng nhân nghĩa nằm ở việc bảo vệ dân lành
Quân đội trừng phạt trước để loại bỏ sự tàn bạo.
Sau khi đề cập đến luận đề chính nghĩa, tác giả Nguyễn Trãi đã chi tiết mô tả về những tội ác của kẻ thù, bao gồm cả sự tàn ác trong việc giết dân vô tội và những hành động phá hoại môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Từ đó, ông đã thể hiện sự phẫn nộ và quyết tâm của nhân dân trong cuộc chiến.
Bài cáo của Nguyễn Trãi không chỉ mạnh mẽ về nội dung mà còn ấn tượng với nghệ thuật sáng tạo. Việc kết hợp hài hòa giữa lập luận và văn chương cùng với việc sử dụng hình ảnh sinh động đã làm cho bài cáo trở nên sống động và cuốn hút hơn.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là một tác phẩm nổi bật trong văn học Việt Nam, là minh chứng cho sự kiên trì và lòng yêu nước của dân tộc. Đây là một tuyên ngôn về sự độc lập và sức mạnh của lòng dũng cảm.
Viết một bài văn nghị luận về tác phẩm đó, ta có thể chọn các vấn đề nội dung và nghệ thuật để thảo luận. Tác phẩm là một biểu hiện của lòng yêu nước và sự chống đối lại sự bất công, cũng như là một ví dụ về sức mạnh của nghệ thuật văn chương.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một tác phẩm thành công trong việc tạo dựng hình tượng người trí thức Việt Nam quyết đoán và đấu tranh chống lại cái ác. Tác phẩm này là một phần quan trọng của văn học Việt Nam, là một ví dụ về sức sống của truyền thống văn hóa lịch sử của dân tộc.
Nguyễn Dữ, tác giả của truyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên, là một người có uy tín trong giới học thuật và chính trị. Tác phẩm của ông là một phần quan trọng của văn học Việt Nam, với sự ảnh hưởng sâu rộng trên thế hệ sau.
Truyện này thuộc thể loại truyền kỳ, xuất phát từ Trung Quốc và lan truyền vào Việt Nam vào cuối thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI. Truyện truyền kỳ Việt Nam thường mang đậm nét dân gian, hiện thực và nhân văn.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên được rút từ tập Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, viết bằng chữ Hán vào nửa đầu thế kỷ XVI. Tác phẩm này vừa là một sáng tác văn học, vừa là một tác phẩm với sự sáng tạo, trau chuốt của Nguyễn Dữ. Truyện này đề cao tinh thần dân tộc và phẩm chất của người trí thức.
Nhân vật chính trong truyện là Ngô Tử Văn, một người chính trực không chịu được sự gian tà. Hành động của chàng là biểu hiện của sự dũng cảm và lòng yêu nước, bảo vệ cho lẽ phải và công bằng.
Truyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên mang thông điệp về sự đấu tranh giữa thiện và ác, chính và tà. Cuộc chiến này được thể hiện qua nhân vật Ngô Tử Văn, một người dũng cảm và không khuất phục.
Tác phẩm này cũng phản ánh thực tế xã hội và lịch sử thời đại Nguyễn Dữ, với sự suy tàn của chế độ phong kiến và cuộc nội chiến Lê – Mạc. Nó cũng lên án sự tàn bạo của giặc ngoại xâm.
Bối cảnh lịch sử của truyện phần nào thể hiện sự suy tàn của chế độ phong kiến và nội chiến Lê – Mạc. Đồng thời, truyện cũng lên án sự tàn bạo của giặc ngoại xâm.
Viết một bài văn nghị luận về tác phẩm này, ta có thể chọn các vấn đề nội dung và nghệ thuật để thảo luận, từ sự phản ánh thực tế đến các tinh thần và phẩm chất của nhân vật.
Cùng với các thể loại truyện cổ tích, truyền thuyết, truyền kỳ cũng là một trong những thể loại được yêu thích trong văn học dân gian Việt Nam. Nội dung của những thể loại này thường tập trung vào cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, ca ngợi phẩm cách và trí tuệ con người.
Tác giả Nguyễn Dữ, hay còn gọi là Nguyễn Dư, không rõ năm sinh năm mất, sống vào đầu thế kỷ XVI, quê ở tỉnh Hải Dương. Ông được coi là người mở ra hướng đi mới cho thể loại truyền kỳ trong văn học Việt Nam. Tác phẩm duy nhất của ông là Truyền kỳ mạn lục.
Khái niệm truyền kỳ dùng để chỉ các tác phẩm văn xuôi trung đại với yếu tố kì bí. Trong đó, sự xuất hiện của thần thánh, ma quỷ làm tăng tính hấp dẫn, đồng thời phản ánh quan niệm của tác giả.
Truyền kỳ mạn lục là tập truyện gồm 20 câu chuyện khác nhau, được viết bằng chữ Hán, mang nhiều yếu tố kì bí. Tác phẩm này được đánh giá cao bởi những giá trị nhân đạo, hiện thực sâu sắc và là một trong những tác phẩm quan trọng trong văn học dân tộc.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một trong số 20 truyện trong tập Truyền kỳ mạn lục. Nó kể về việc Ngô Tử Văn chiến thắng sự tà ác của tên tướng giặc bại trận, đồng thời là biểu tượng của sự đấu tranh giữa thiện và ác.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên tập trung vào sự kiên định chính nghĩa của Nhân vật Ngô Tử Văn, thể hiện qua thái độ và hành động của chàng trong cuộc chiến chống lại tà ác, cũng như sự anh dũng, mạnh mẽ của người Việt Nam trong cuộc chiến với kẻ thù.
Tác phẩm muốn phê phán sâu sắc cái ác, hồn ma tên tướng giặc khi sống làm quân xâm lược, khi chết lại trở thành yêu quái quấy rối dân lành. Từ đầu đến cuối, tác phẩm mang trong mình dã tâm xâm lược, đòi hỏi phải nhận sự trừng trị, tiêu diệt. Nó cũng phản ánh sự bất công trong xã hội phong kiến thối nát, khi tên tướng giặc hối lộ thánh thần, trong khi lực lượng thực thi công lý lại bị che mắt.
Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên có nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, mở đầu bằng tình tiết khác lạ, xây dựng cao trào truyện đầy kịch tính lô-gíc, với các nút thắt và giải quyết hợp lý, làm thỏa mãn người đọc. Yếu tố kì ảo hoang đường được đưa vào một cách khéo léo, nổi bật chủ đề và khắc họa rõ ràng tính cách của nhân vật. Truyện còn đem lại cảm giác khách quan với sự chia sẻ quan điểm, tình cảm của người viết thông qua thái độ và hành động của nhân vật.
Viết một bài văn nghị luận bàn về tác phẩm đó theo các vấn đề nội dung và nghệ thuật tự chọn - mẫu 16
Nguyễn Trãi là một tác gia lớn của văn học trung đại Việt Nam, để lại cho hậu thế một loạt tác phẩm đáng kính. Tác phẩm nổi bật nhất của ông là 'Bình Ngô đại cáo', là biểu tượng của tinh thần yêu nước, bảo vệ độc lập và chống ngoại xâm của dân tộc Đại Việt. Với bút lực hùng hậu và lời văn truyền cảm mạnh mẽ, tác phẩm đã trở thành một trụ cột văn hóa của dân tộc.
'Bình Ngô đại cáo' là một thông báo bằng văn bản viết theo thể cáo, thông báo sự kiện quan trọng của quốc gia. Tác phẩm này giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử và văn học. Ức Trai đã viết tác phẩm này vào đầu năm 1428, sau khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của quân Lam Sơn thắng lợi, bảo toàn độc lập cho Đại Việt.
Bình Ngô đại cáo là một bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô - một biểu hiện của sự căm thù đối với giặc Minh xâm lược. Bài cáo có cấu trúc chặt chẽ, khắc họa và tố cáo tội ác của giặc, khẳng định chủ quyền dân tộc. Với bốn cảm hứng chính, bài cáo thường được chia thành bốn phần tương đương.
Mở đầu Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi nêu nguyên lí chính nghĩa làm nền tảng cho toàn bộ nội dung của tác phẩm. Tiếp thu từ tinh thần Nho giáo và phát triển nội dung nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã đề xuất một luận điểm có tính dân tộc.
'Việc trước hết là đảm bảo nhân nghĩa trong xã hội
Trừ bỏ sự bạo lực trước khi suy tính đến mọi thứ khác'
Với Nguyễn Trãi, việc quan trọng nhất là phải 'trừ bỏ sự bạo lực' để mọi người có cuộc sống bình yên, sung túc và hạnh phúc. Ông tin rằng để thống trị đất nước, việc đầu tiên phải làm là tuân thủ nguyên tắc nhân nghĩa. Cuộc chiến chống lại xâm lược là hành động nhân nghĩa, phù hợp với nguyên lý chính nghĩa. Sau đó, tác giả phân tích về sự tồn tại độc lập của nước Đại Việt, điều này đã được khẳng định qua hàng ngàn năm lịch sử:
'Nước Đại Việt từ xưa đã tự xưng là một nền văn hiến lâu đời
Núi sông và biên giới đã chia cắt nhiều lần
Phong tục ở miền Bắc và miền Nam cũng khác biệt'
Trong phần thứ hai - về cảm hứng căm thù giặc xâm lược, Nguyễn Trãi thể hiện lòng uất hận mạnh mẽ, viết ra một bản cáo trạng rất sắc bén với một quy trình tư duy logic: vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chính sách cai trị độc ác, tố cáo những hành động tàn bạo. Thông qua việc phân tích luận điệu gian lận 'phù Trần diệt Hồ', tác giả bày tỏ sự phẫn nộ với những hành động không nhân đạo, hủy diệt người dân:
'Dân bị đốt cháy trên ngọn lửa đỏ rực
Trẻ em bị chôn dưới hầm lửa đỏ'
Tội ác của chúng được ghi chép bằng vô số, không kể hết:
'Độc ác không tưởng, đồi Nam Sơn không đủ ghi lại
Bẩn thỉu không ngừng, dòng sông Đông Hải không thể rửa sạch'
Ở phần 3, với nguồn cảm hứng phong phú, Nguyễn Trãi đã mô tả lại quá trình gian khổ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Những khó khăn ban đầu đã dẫn đến chiến thắng sau cùng. Cảm hứng anh hùng lan tỏa khắp đoạn trích. Các chiến công hùng vĩ được miêu tả rất sinh động. Nhịp điệu trong câu rất sảng khoái, hào hùng như sóng biển:
'Gươm gọi đá, đá núi cũng phải mòn
Voi uống nước, dòng sông cũng phải cạn
Chiến đấu một trận, kẻ địch không kinh ngạc
Chiến đấu hai trận, chim muông tan tác'
Và ở phần 4 – kết thúc, Nguyễn Trãi không giấu được niềm hạnh phúc của dân tộc, truyền đạt lời tuyên bố nền độc lập của Lê Lợi:
'Từ nay, xã hội chúng ta vững bền
Vùng đất chúng ta thay đổi từ nay
Chỉ cần biết cách khôn ngoan, khôn ngoan lại thái độc lập
Mặt trời và mặt trăng sẽ luôn tỏa sáng'
Từ đó, chúng ta nhận thấy được tương lai tươi sáng, huy hoàng của quê hương. Hiện thực hiện tại được hình thành từ những nỗi đau của quá khứ 'Vĩnh viễn thái bình'. Câu kết thúc 'Mọi người đều biết' chia sẻ niềm vui, tự hào và hy vọng vào ngày mai, vào tương lai của đất nước.
Bài cáo đã thành công trong việc thể hiện các đặc điểm của thể loại. Ngoài ra, sự biến đổi linh hoạt trong từng phần, từ việc cao trào của sự phẫn nộ, đến sự hùng vĩ của lịch sử - văn học đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Sự hiểu biết sâu sắc của Nguyễn Trãi về lịch sử, về truyền thống, đã làm cho tác phẩm trở nên thuyết phục và hấp dẫn hơn.
“Bình Ngô đại cáo” từ khi ra đời đã được coi là tuyên ngôn độc lập của dân tộc, đồng thời kết án tội ác của quân Minh và khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc. Mặc dù đã trải qua nhiều biến động, giá trị của “Bình Ngô đại cáo” vẫn còn nguyên giữa các thế hệ và Nguyễn Trãi – nhà quân sự tài ba, nhà chính trị tài năng, nhà thơ, nhà văn ưu tú sẽ luôn được ghi nhớ trong lòng người Việt Nam.