1. Vũ Trọng Phụng
Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là một nhà văn và nhà báo hàng đầu của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912 tại làng Hảo, nay thuộc thôn Ông Hảo, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, ông sống và qua đời tại Hà Nội. Ông là một trong những người Việt đầu tiên được học bằng tiếng Pháp và chữ Quốc Ngữ, điều này đã ảnh hưởng lớn đến phong cách viết của ông. Sau khi làm việc tại nhiều cơ sở như nhà hàng Gôđa và nhà in IDEO (Viễn Đông), ông chuyển sang viết báo và văn học chuyên nghiệp.
Vào năm 1930, Vũ Trọng Phụng bắt đầu sự nghiệp văn học với truyện ngắn đầu tay Chống nạng lên đường đăng trên Ngọ Báo. Dù ban đầu chỉ viết truyện ngắn, ông dần thu hút sự chú ý với vở kịch Không một tiếng vang vào năm 1931. Năm 1934, ông công bố tiểu thuyết đầu tay Dứt tình và sau đó, trong năm 1936, ông cho ra mắt bốn tiểu thuyết nổi bật: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, và Làm đĩ, tất cả đều thể hiện những vấn đề xã hội sâu sắc. Trong đó, Số đỏ là tác phẩm tiêu biểu, nổi bật với nhiều nhân vật và câu nói đã trở thành biểu tượng trong đời sống. Ông cũng nổi tiếng với các phóng sự, đặc biệt là Cạm bẫy người và Kỹ nghệ lấy Tây, góp phần xây dựng danh tiếng là 'ông vua phóng sự của đất Bắc'. Tuy nhiên, tác phẩm của ông cũng gặp phải nhiều chỉ trích và tranh luận, đặc biệt về các yếu tố nhạy cảm trong nội dung. Vũ Trọng Phụng qua đời ngày 13 tháng 10 năm 1939 do bệnh lao phổi khi mới 27 tuổi, để lại di sản văn học đồ sộ với hơn 30 truyện ngắn, 9 tiểu thuyết, 9 phóng sự, 7 vở kịch, và nhiều bài viết khác.
Với phong cách trào phúng sắc bén, ông được so sánh với Balzac của Việt Nam, nhưng cũng bị chỉ trích và cấm xuất bản trong nhiều năm do các yếu tố 'tả chân' và nhạy cảm trong tác phẩm. Các tác phẩm của ông chỉ được lưu hành trở lại vào cuối những năm 1980.
Tác phẩm nổi bật: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, Làm đĩ


2. Nguyên Hồng
Nguyên Hồng, sinh ngày 5 tháng 11 năm 1918 tại phố Hàng Cau, thuộc phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, có một tuổi thơ đầy khó khăn. Cha ông làm cai đề lao nhưng sau đó thất nghiệp và mắc bệnh lao, khiến gia đình rơi vào cảnh nghèo đói. Mẹ ông là người hiền hậu và tần tảo nhưng lại không hạnh phúc trong hôn nhân. Nguyên Hồng từ nhỏ đã nhận thức rõ ràng rằng cuộc hôn nhân của cha mẹ không xuất phát từ tình yêu và ông là kết quả của sự gượng ép ấy. Năm 12 tuổi, ông mồ côi cha và mẹ tái hôn lén lút, dẫn đến việc ông phải sống với bà nội và cô ruột, chịu đựng sự khinh miệt và thiếu thốn. Những năm tháng tuổi thơ của ông tràn đầy đau khổ vì đói nghèo và thiếu tình thương, phải đi làm thêm để kiếm sống và giao du với nhiều hạng trẻ hư hỏng tại các khu vực như vườn hoa, chợ, bến tàu.
Nguyên Hồng bắt đầu sự nghiệp viết lách từ năm 1936 với truyện ngắn 'Linh Hồn' đăng trên Tiểu thuyết thứ 7. Ông thực sự nổi bật trên văn đàn với tiểu thuyết 'Bỉ vỏ' vào năm 1937, miêu tả chân thực số phận những người lao động nghèo như Tám Bính và Năm Sài Gòn. Ông tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ tại Hải Phòng và sau đó bị bắt và giam giữ tại Bắc Mê (Hà Giang) vào năm 1940. Năm 1943, Nguyên Hồng gia nhập Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với nhiều nhà văn nổi tiếng khác và trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Nguyên Hồng, 'Núi rừng Yên Thế', được viết vào năm 1980, nhưng ông qua đời trước khi hoàn thành tác phẩm này. Ông mất ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Tân Yên (Bắc Giang) vì đột tử, hưởng thọ 63 tuổi. Năm 1980, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Các tác phẩm nổi bật: Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938); Bảy Hựu (truyện ngắn, 1941); Những ngày thơ ấu

3. Phạm Duy Tốn
Nhà văn Phạm Duy Tốn, sinh ra tại Hà Nội. Quê ông thuộc làng Phượng Vũ, hiện nay là huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Năm 1901, ông tốt nghiệp trường thông ngôn và được bổ nhiệm vào chức thông ngôn Tòa sứ Bắc Kỳ, sau đó từ chức để tập trung viết báo. Ông được xem là một trong những cây bút kỳ cựu trong làng báo thời bấy giờ. Phạm Duy Tốn đã cộng tác với nhiều tờ báo như Đại Việt tân báo, Nông cổ mín đàm, Đông Dương tạp chí, Lục tỉnh tân văn, Nam phong tạp chí, Trung Bắc tân văn, Đăng cổ tùng báo dưới các bút danh như Ưu Thời Mẫn, Thọ An, Đông Phương Sóc, và Phạm Duy Tốn.
Những tác phẩm tiêu biểu của Phạm Duy Tốn bao gồm: Bực mình (1914), Sống chết mặc bay (1918), Con người Sở Khanh (1919), và Nước đời lắm nỗi (1919). Ngoài ra, ông còn biên soạn Tiếu lâm quảng ký (3 tập) dưới bút hiệu Thọ An – cuốn sách này được đông đảo độc giả đón nhận và được in lại nhiều lần trong những năm 20.
Phạm Duy Tốn là một người theo hướng “tân học”, chịu ảnh hưởng của xu hướng viết văn nhằm “treo gương đạo đức”. Tuy nhiên, nhìn chung, các tác phẩm của ông nghiêng về việc phản ánh xã hội theo cảm hứng hiện thực chủ nghĩa. Sáng tác của Phạm Duy Tốn không chỉ nhằm xây dựng hoặc khẳng định một khuôn mẫu cụ thể mà còn nhằm phê phán những bất công và độc ác dưới chế độ thực dân nửa phong kiến: ở thành phố là sự tàn phá hạnh phúc gia đình bởi đồng tiền và lối sống cá nhân, còn ở nông thôn là cuộc sống vất vả của người nông dân do thiên tai (hạn hán, lụt lội) và nạn tham nhũng quan lại. Truyện Sống chết mặc bay (1918) là một ví dụ điển hình cho tinh thần tố cáo xã hội của ông.

4. Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan xuất thân từ làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (hiện nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông được sinh ra trong một gia đình quan lại Nho học đã lâm vào cảnh thất thế. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Công Hoan đã tiếp xúc với nhiều câu thơ, câu đối và các giai thoại mang tính châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại, điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ các vị trí quan trọng: Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) là Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng là Phó Tổng Giám đốc Nha Công an, và Nguyễn Công Mỹ là Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ.
Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm và dạy học ở nhiều địa phương như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,... cho đến khi Cách mạng tháng Tám diễn ra. Ông bắt đầu viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, xuất bản năm 1923 bởi Tản Đà thư điếm) là một đóng góp quan trọng cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ và Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó, ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông gia nhập Đảng Lao động Việt Nam năm 1948. Năm 1951, ông làm việc tại Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 cho lớp 7 hệ chín năm. Ông cũng viết cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Sau năm 1954, ông trở lại với nghề văn và đảm nhận vai trò Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), và Ủy viên Ban Thường vụ các khóa sau của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông còn là Ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam và chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan qua đời ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội, để lại một di sản nghệ thuật phong phú với hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều tiểu luận văn học.
Tác phẩm nổi bật: Kiếp hồng nhan (truyện ngắn, 1923), Răng con chó của nhà tư sản (truyện ngắn, 1929; đăng Annam tạp chí số 23 năm 1931 với nhan đề Răng con vật nhà tư bản), Hai thằng khốn nạn


5. Nam Cao
Nam Cao, tên thật là Trần Hữu Tri (cũng có tài liệu ghi là Trần Hữu Trí), sinh ngày 29 tháng 10 năm 1915, nhưng giấy khai sinh lại ghi năm 1917. Ông quê ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân (hiện tại thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Ông đã lấy hai chữ đầu của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao. Xuất thân từ một gia đình Công giáo ở vùng nông thôn, cha ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề mộc và có thời gian làm thầy lang trong làng, còn mẹ ông là bà Trần Thị Minh, vừa làm nội trợ, vừa làm vườn, làm ruộng và dệt vải.
Thuở nhỏ, Nam Cao học tại trường làng. Sau đó, gia đình gửi ông vào Nam Định học tại trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung (nay là trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định). Dù hoàn thành bậc trung học vào năm 1934, nhưng do bị bệnh nên chưa thể thi lấy bằng Thành chung. Vào năm 1935, ông kết hôn với Trần Thị Sen (tên thánh Maria Sen), người cùng làng. Tháng 11/1935, Nam Cao chuyển vào Sài Gòn, sống bằng nghề thư ký tại hiệu may Ba Lễ, đồng thời bắt đầu viết văn và gửi bài cho các báo. Năm 1936, các truyện ngắn 'Cảnh cuối cùng' và 'Hai cái xác' của ông được đăng dưới bút danh Thúy Rư trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy (Hà Nội). Năm 1937, tiếp tục với các truyện ngắn 'Một bà hào hiệp', 'Nghèo', 'Đui mù' trên Tiểu thuyết thứ bảy, và truyện 'Những cánh hoa tàn' trên báo Ích Hữu (Hà Nội). Tháng 5/1938, vì lý do sức khỏe, Nam Cao trở về quê. Ông là một trong những nhà văn hiện thực nổi bật trước Cách mạng Tháng Tám, và một nhà báo kháng chiến sau Cách mạng, đóng góp quan trọng vào việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20.
Tác phẩm tiêu biểu: Chí Phèo, Một bữa no....

6. Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố, sinh năm 1893 và qua đời năm 1954, xuất thân từ làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông là con thứ hai nhưng là trưởng nam trong gia đình có bảy anh chị em, gồm ba trai và bốn gái. Ngô Tất Tố được tiếp xúc với nền giáo dục Nho học ngay từ khi còn nhỏ. Từ năm 1898, ông được ông nội dạy chữ Hán, sau đó học tại nhiều làng trong vùng. Năm 1912, ông học chữ Pháp trong thời gian ngắn và tham gia các kỳ thi truyền thống của triều Nguyễn. Dù đỗ kỳ sát hạch, nhưng ông không thành công ở kỳ thi hương đệ nhất. Năm 1915, ông đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, được gọi là đầu xứ Tố, và thi hương lần thứ hai vào khoa Ất Mão, là kỳ thi hương cuối cùng ở Bắc Kỳ, nhưng lại thất bại ở kỳ đệ nhị.
Vào năm 1926, Ngô Tất Tố lên Hà Nội làm báo và viết cho tờ An Nam tạp chí. Tuy nhiên, do thiếu kinh phí, tờ báo phải ngừng hoạt động, và Ngô Tất Tố cùng Tản Đà đã chuyển vào Sài Gòn. Dù không đạt thành công lớn ở Nam Kỳ, nhưng thời gian ở đây đã giúp ông tiếp cận tri thức và văn hóa thế giới tại vùng đất thuộc địa của Pháp và chuẩn bị cho nghề báo của mình. Ông sử dụng các bút danh như Bắc Hà, Thiết Khẩu Nhi, Lộc Hà, Tân Thôn Dân trong thời gian này.
Sau gần ba năm ở Sài Gòn, Ngô Tất Tố trở về Hà Nội và tiếp tục viết cho các báo như An Nam tạp chí, Thần chung, Phổ thông, Đông Dương, Hải Phòng tuần báo, Thực nghiệp, Con ong, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba, Tương lai, Công dân, Đông Pháp thời báo, Thời vụ, Hà Nội tân văn, Tuần lễ... với 29 bút danh khác nhau như Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn Dân, Phó Chi, Tuệ Nhơn, Thuyết Hải, Xuân Trào, Hy Cừ... Trong giai đoạn từ 1936 đến 1939, ông viết nhiều tác phẩm chỉ trích quan lại phong kiến tham nhũng. Theo Hà Văn Đức trong bài viết Ngô Tất Tố - Nhà văn tin cậy của nông dân (báo Nhân dân, ngày 10 tháng 6 năm 1997), năm 1935, Ngô Tất Tố từng bị mời lên để 'mua chuộc', nhưng đã từ chối. Ông cũng nhiều lần bị cấm viết báo và bị trục xuất khỏi Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Năm 1939, chính quyền thực dân Pháp cấm tác phẩm Tắt đèn, và Ngô Tất Tố bị bắt giam ở Hà Nội trong vài tháng. Do sức khỏe yếu và mắc bệnh huyết áp, ông qua đời ngày 20 tháng 4 năm 1954 tại Yên Thế, Bắc Giang, hưởng thọ 61 tuổi.
Tác phẩm nổi bật: Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình, Lều chõng
