1. Phân tích 'Bạch Đằng hải khẩu' - mẫu số 4
Nguyễn Trãi (1380-1442) không chỉ là một anh hùng dân tộc mà còn là một nhà thơ xuất sắc với nhiều tác phẩm vĩ đại như “Bình Ngô đại cáo”. Tập thơ “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập” của ông đã làm rạng danh nền thi ca Đại Việt. Bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng” là một trong những kiệt tác ca ngợi đất nước và nhân tài Việt Nam. Bài thơ như một bút ký trữ tình về cuộc du ngoạn tuyệt đẹp của tác giả.
Mở đầu bài thơ, hình ảnh “cánh buồm căng gió lướt nhẹ vượt Bạch Đằng Giang” mang đến không gian bao la của biển trời. Gió biển thổi mạnh, con thuyền lướt “băng băng” trên mặt biển, tạo nên một tứ thơ khoáng đạt trong tâm hồn thi nhân. Du khách và cánh buồm cùng sống trong cảm giác thư thái:
“Biển lùa gió bấc thổi băng băng,
Nhẹ kéo buồm thơ vượt Bạch Đằng”.
Ức Trai không chỉ thưởng ngoạn vẻ đẹp thiên nhiên mà còn tìm về lịch sử hào hùng của dòng sông này.
Hai câu thơ tiếp theo vẽ nên bức tranh hoành tráng về Bạch Đằng:
“Ngạc chặt kình băm non lởm chởm,
Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng”,
Núi và bờ bãi hiện lên qua các hình ảnh ẩn dụ như “Ngạc”, “kình”, “gươm giáo” mang ý nghĩa tượng trưng. Cảnh vật trên Bạch Đằng như bức trường thành, đại diện cho quân giặc bị chặt và đánh bại. Phép đối thần tình tạo nên vần thơ hài hòa, gợi cảm hứng lịch sử và tự hào về chiến công của dân tộc. Ngô Quyền và Trần Quốc Tuấn đã giành chiến thắng oai hùng tại đây.
Bài thơ tiếp tục với cảm hứng lịch sử và những luận điểm về địa lợi và nhân hòa:
“Quan hà hiểm trở Trời kia dựng,
Hào kiệt công danh đất ấy từng”
Địa thế Bạch Đằng là tử địa đối với giặc phương Bắc, là quà tặng của thiên nhiên để bảo vệ đất nước. Các hào kiệt thời nào cũng đều có, họ đã lập nên chiến công bất tử tại đây. Hai câu thơ cuối cùng sâu lắng, cảm xúc mênh mang và tâm hồn thi nhân hòa quyện với sông núi, gợi nhớ những anh hùng thuở trước.
Câu thơ cảm thán bồi hồi, gợi nỗi nhớ thương và tự hào về dân tộc:
“Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng'
Đọc bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng” giúp ta thêm yêu đất nước và tự hào về những trang sử chống xâm lăng của dân tộc.

2. Phân tích bài thơ 'Bạch Đằng hải khẩu' - phiên bản 5
Nguyễn Trãi (1380-1442) đã sáng tác hơn một trăm bài thơ chữ Hán, hiện được sưu tầm. Vào tháng Tám năm Nhâm Tuất 1442, Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh (vợ vua Lê Thái Tông) và những kẻ gian thần đã âm thầm tấn công, dẫn đến cái chết của Nguyễn Trãi cùng gia đình ông, bao gồm cả bà Lễ Nghi và học sĩ Nguyễn Thị Lộ.
Mục đích chính là diệt khẩu, che giấu việc bà Nguyễn Thị Anh mang thai 3 tháng với Lê Nguyên Sơn trước khi trở thành vợ vua. Hơn hai mươi năm sau, vua Lê Thánh Tông đã ra lệnh minh oan cho Nguyễn Trãi. Khoảng 15 Tiến sĩ được cử đi tìm kiếm di cảo thơ văn của Nguyễn Trãi còn lưu lạc.
Ngoài 254 bài thơ Nôm đã được phát hiện, thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, dù còn ít, nhưng đa phần là những tác phẩm xuất sắc, với nhiều bài đặc biệt hay. Chúng tôi xin giới thiệu một bài thơ tiêu biểu của Đại Thi hào Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi viết bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” trong hoàn cảnh nào? Theo một số nhà nghiên cứu, cửa biển Bạch Đằng xưa chính là cửa sông Chanh ở phía Đông Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh hiện nay, chứ không phải cửa Nam Triệu.
Sông Chanh chỉ là một nhánh của hệ thống sông Bạch Đằng, nơi chứng kiến các trận chiến của Ngô Quyền, Lê Hoàn và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn chống quân phương Bắc, bao gồm cả hai bờ sông Bạch Đằng, với phía Bắc thuộc Quảng Ninh và phía Nam thuộc Hải Phòng ngày nay, trước đây là An Bang, Xứ Đông.
Có thể suy đoán rằng Nguyễn Trãi đã từng chèo thuyền qua cửa Bạch Đằng trong mùa gió bấc, từ bờ Bắc sang bờ Nam, theo gió để “Nhẹ kéo buồm thơ qua cửa Bạch Đằng”...
Thời điểm này có thể là khi Nguyễn Trãi vừa được phục chức dưới triều vua trẻ Lê Thái Tông (Lê Nguyên Long). Ngoài các chức vụ trong triều đình, ông còn quản lý quân dân hai đạo vùng Đông Bắc, một khu vực chiến lược quan trọng.
Vào thời điểm này, Nguyễn Trãi thường đi khinh lý khắp vùng Đông Bắc và sáng tác nhiều bài thơ chữ Hán và chữ Nôm. Bài thơ chữ Hán “BẠCH ĐẰNG HẢI KHẨU” ra đời trong hoàn cảnh đó...
Gió bấc thổi trên biển mang theo “khí lạnh” nhưng không quá sắc bén. “Khí lăng lăng” chỉ là cái lạnh se se của cuối thu, chưa ảnh hưởng nhiều đến việc đi lại, nên thi nhân có thể “Nhẹ kéo buồm thơ qua cửa Bạch Đằng”, với tâm trạng lâng lâng của một thi nhân đang làm chủ hoàn cảnh và cảm thấy tự do.
Hai câu 3 và 4 tả thực cảnh núi non và quang cảnh hai bờ sông Bạch Đằng:
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
Núi non lớp lớp nối tiếp nhau, như lũy, như thành, như cá sấu bị chặt (ngạc đoạn), như cá kình bị mổ (kình khoa); rồi ngổn ngang gò đống, ngòi lạch, như mũi qua chìm (qua trầm), những ngọn kích gãy (kích chiết) bên bờ sông...
Hình ảnh miêu tả và liên tưởng rất chính xác, gợi cảm và hấp dẫn. Tác giả như đang dựng lại lịch sử oai hùng của những trận chiến, với cảm hứng vô cùng hào sảng.
Người đọc có thể hình dung khúc sông này như đang sôi lên với tiếng hò reo và tinh kỳ phấp phới, như thể trận đánh thư hùng chưa phân rõ, chiến lũy Bắc Nam đang chống đối, ánh sáng nhật nguyệt mờ nhạt, bầu trời và đất sắp đổi thay (Trương Hán Siêu – BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ)...
Phải có một tâm hồn khoáng đạt và khả năng liên tưởng nhạy bén mới có thể sáng tạo những câu thơ hào khí như vậy!
Hai câu tiếp theo luận về địa lợi của sông Bạch Đằng:
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
Bách nhị (hai trăm) mượn điển tích từ sách SỬ KÝ bên Trung Quốc, nói rằng hai vạn quân Tần có thể đánh thắng hai trăm vạn quân các nước chư hầu. Địa thế hiểm trở của Bạch Đằng có thể tiêu diệt bất kỳ đội quân xâm lược nào, dù chúng rất hùng mạnh.
Đây là nơi anh hùng hào kiệt có thể lập công danh rạng rỡ như Ngô Quyền, Lê Hoàn, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và nhiều anh hùng khác trong lịch sử chống xâm lăng.
Hai câu kết, cảm thán và suy tư về lịch sử:
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
(Ngoảnh lại việc xưa, than ôi/ Cúi xuống dòng sông mò bóng, ý tình không thể diễn đạt)
Việc xưa trên sông Bạch Đằng, những chiến công lẫy lừng đã trôi vào dĩ vãng. Bọn xâm lược đã tiêu vong, anh hùng lưu danh muôn thuở. Dòng sông vẫn chảy mãi, mà nỗi nhục quân thù không thể rửa sạch. Tâm hồn thi nhân trào lên nỗi cảm hoài, “Cúi xuống dòng sông mò bóng”, thể hiện cảm xúc không thể nói thành lời.
Hình ảnh “Cúi xuống dòng sông mò bóng” rất lạ và giàu sức gợi cảm. Có thể là mò chính cái bóng mình hoặc bóng hình quá khứ. Một ý thơ hàm xúc và độc đáo, đặc trưng của đại thi hào Nguyễn Trãi!
Riêng câu cuối “Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng”, Trung tâm nghiên cứu Quốc học chép là “Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng” và dịch là “Trên sông ngắm cảnh, tình ý khó nói nên lời”…
Chúng tôi đồng ý với bản chép của cụ Đào Duy Anh là “phủ ảnh”, vì đó là chữ của Nguyễn Trãi, thể hiện “thương hiệu Nguyễn Trãi”, một đại bút hàng đầu trong thơ ca Việt Nam.

3. Bài thơ phân tích 'Bạch Đằng hải khẩu' - mẫu 6
Khi nhà thơ Nguyễn Trãi đặt chân đến cửa biển Bạch Đằng, cảm xúc dâng trào đã khiến ông sáng tác bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” (Cửa biển Bạch Đằng) với khí phách mãnh liệt:
“Biển rung gió bấc như bừng bừng,
Nhẹ thả buồm thơ lướt Bạch Đằng.
Kình ngạc băm vàm non mấy khúc
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng.
Quan hà hiểm yếu trời đã định
Hào kiệt công danh đất ấy từng.
Việc trước quay đầu ôi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…”
Điểm thu hút của “Cửa biển Bạch Đằng” trước hết là ở không gian rộng lớn, với biển cả bao la, gió biển lùa vào sông, sóng vỗ dữ dội. Nhà thơ thả buồm dạo chơi trên cửa sông Bạch Đằng:
“Biển rung gió bấc như bừng bừng
Nhẹ thả buồm thơ lướt Bạch Đằng.”
Hình ảnh cánh buồm của nhà thơ được kéo lên tạo thành một nét cuối cùng hoàn hảo trong bức tranh “Cửa biển Bạch Đằng”. Cảnh vật vừa hùng vĩ với núi non, sông nước, cửa biển, vừa thơ mộng với hình ảnh mong manh của cánh buồm trước gió. Nhà thơ không trực tiếp thể hiện như Cao Bá Quát “núi non đã kỳ tuyệt, lại thêm ta đến đây”, nhưng từng chi tiết, hình ảnh trong thơ gợi nhớ đến lời của Cao.
Khi dạo thuyền trên sông, nhà thơ nhận thấy dấu ấn lịch sử ở khắp mọi nơi:
“Kình ngạc băm vàm non mấy khúc,
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng.”
Các hình ảnh ẩn dụ như “Kình ngạc băm vằm” không chỉ miêu tả cảnh núi non hiểm trở mà còn gợi lại những chiến tích chống xâm lăng của tổ tiên. Cảnh vật như một bãi chiến trường với “Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng”. Hình ảnh thơ này xứng đáng với hào khí của người xưa, thể hiện niềm tự hào của tác giả về chiến công ở Bạch Đằng.
Chuyển sang hai câu luận (5,6), tác giả suy ngẫm về địa thế hiểm trở của núi non và những anh hùng hào kiệt của sông nước Bạch Đằng:
“Quan hà hiểm yếu trời đã định
Hào kiệt công danh đất ấy từng.”
Từ “hiểm yếu” được dịch một cách khéo léo. Trong nguyên bản chữ Hán là “bách nhị”, tác giả sử dụng từ của Tư Mã Thiên để khen địa thế của nước Tần là “bách nhị”, tức là địa thế hiểm trở, quân ít có thể chống lại kẻ địch nhiều (hai người có thể đánh bại trăm người). Tác giả còn suy ngẫm một cách thiêng liêng:
“Quan hà hiểm yếu trời đã định”
Trong văn chương, mỗi khi xuất hiện hình ảnh trời đều tạo ra không khí thiêng liêng. Trong bài “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt cũng viết:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
(Núi sông nước Nam vua Nam ở,
Cương giới đã ghi rõ trong sách Trời)
“Quan hà bách nhị do thiên thiết” này gắn liền với các anh hùng hào kiệt như Ngô Quyền (diệt quân Nam Hán thế kỷ IX), Trần Hưng Đạo (diệt quân Nguyên thế kỷ XIII). Mỗi câu thơ đều thấm đẫm tinh thần tự hào về non nước và những anh hùng đã có chiến công lẫy lừng bảo vệ đất nước.
Từ cảm hứng lịch sử với giọng thơ hào hùng, nhà thơ chuyển sang suy tư về thế sự với giọng bùi ngùi:
“Việc trước quay đầu ôi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…”
Tâm trạng của nhà thơ được thể hiện kín đáo nhưng không giấu được sự thất vọng về xã hội hiện tại. Theo ông, những chiến công oanh liệt của tổ tiên và anh hùng hào kiệt chỉ còn là chuyện cũ, của lịch sử.
Còn thời đại của nhà thơ hiện tại thì sao? Một thời đại bắt đầu oanh liệt, nhưng giờ đây chỉ còn lại lũ quan bất tài, nịnh bợ, ghen ghét người trung nghĩa. Nhà thơ dạo qua cảnh sông Bạch Đằng, lòng bồi hồi khôn xiết:
“Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng…”
Mặc dù nhiều nhà thơ đã đến cửa biển Bạch Đằng lịch sử và để lại thơ, nhưng có lẽ bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” của Nguyễn Trãi là xuất sắc nhất. Cảnh sắc Bạch Đằng được miêu tả vừa thơ mộng, vừa hùng vĩ và tráng lệ.
Những chiến tích ở Bạch Đằng không chỉ thuộc về anh hùng hào kiệt mà còn thể hiện khí thiêng của non nước. Cảm hứng lịch sử hòa quyện với cảm hứng thế sự khiến mỗi câu thơ đều rung động lòng người đọc.

4. Phân tích bài thơ 'Bạch Đằng hải khẩu' - mẫu 7
Bài thơ “Bạch Đằng hải khẩu” nằm trong tập thơ “Ức Trai thi tập” với 105 bài thơ chữ Hán. Trong bộ “Nguyễn Trãi toàn tập”, học giả Đào Duy Anh xếp bài thơ này ở số 45/105 bài.
Sông Bạch Đằng gắn liền với những chiến công vang dội. Năm 938, Ngô Quyền đã chặt đầu tướng Hoàng Thao, đẩy lùi quân Nam Hán. Năm 981, Lê Hoàn thắng lợi trước quân Tống. Năm 1288, Trần Quốc Tuấn đại phá quân Nguyên Mông và bắt sống Ô Mã Nhi. Nhiều thi nhân đã ca ngợi sông Bạch Đằng trong thơ của mình.
Bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng” tôn vinh dòng sông hùng vĩ như một mồ chôn quân xâm lược. Khi nhìn về cửa ải hiểm trở này, Nguyễn Trãi cảm thấy tự hào về những anh hùng kiệt xuất và cũng cảm thấy lòng mình bâng khuâng.
Toàn bài thơ được bao phủ bởi cảm hứng lịch sử và niềm tự hào dân tộc. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với ngôn ngữ cổ kính và trang trọng.
Nguyễn Trãi đến cửa biển Bạch Đằng, cánh buồm thơ bay lượn trước gió biển. Gió bấc mạnh mẽ cuốn theo từng đợt sóng, và hình ảnh “cánh buồm thơ nhẹ” như một nét vẽ tinh tế:
“Biển rung gió bấc thế bừng bừng
Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đằng”.
Nhìn biển trời bao la, nhà thơ cảm động khi miêu tả cảnh vật nơi cửa biển Bạch Đằng bằng những hình ảnh ẩn dụ grandiose, gần xa, cao thấp hài hòa:
“Kình ngạc băm vằm non mấy khúc,
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng”.
Núi non chập chờn như những con cá sấu bị chặt đứt, cá kình bị mổ. “Kình ngạc” trong thơ cổ tượng trưng cho quân giặc dữ; trong bài thơ, chỉ quân xâm lược phương Bắc bị đánh bại trên sông Bạch Đằng. Bờ bãi lớp lớp như các giáo gươm (quân địch) bị vùi dập.
Hình ảnh ẩn dụ gợi cảm giác thất bại của quân xâm lược xưa. Đây là những câu thơ với hình tượng vĩ đại, giàu liên tưởng, phản ánh tinh thần lịch sử oai hùng. Sông Bạch Đằng và cửa biển Bạch Đằng là nơi tiêu diệt quân xâm lược phương Bắc:
“Bạch Đằng một cõi chiến tràng
Xương phơi trắng đất, máu màng đỏ sông”.
(Đại Nam Quốc sử diễn ca)
Thơ càng trở nên sâu lắng với những suy tưởng. Nguyễn Trãi nhấn mạnh sự hiểm yếu của cửa ải do thiên nhiên sắp đặt. Đây cũng là nơi để các anh hùng lập chiến công vang dội: “Tiếng thơm đồn mãi – Bia miệng chẳng mòn” (Trương Hán Siêu). Phép đối tạo nên vần thơ đẹp, tôn vinh núi sông hiểm trở và các anh hùng hào kiệt:
“Quan hà hiểm yếu trời kia đặt,
Hào kiệt công danh đất ấy từng”.
Tên tuổi các anh hùng như Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Quốc Tuấn... bất tử với dòng sông Bạch Đằng lịch sử.
Cuối bài thơ, giọng điệu ngày càng trở nên thiết tha. Nhà thơ nhìn cảnh sông mà lòng nhớ về quá khứ, cảm xúc dạt dào. Hoài niệm tạo nên sức mạnh cho bài thơ. Tự hào, nhớ thương, suy ngẫm về quá khứ và hiện tại:
“Việc trước quay đầu ôi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng”.
Bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng” là kiệt tác tiêu biểu cho hồn thơ trang trọng, hào hùng và tráng lệ của Nguyễn Trãi, mãi mãi “lấp lánh sao Khuê”.

5. Bài phân tích 'Bạch Đằng hải khẩu' - mẫu 8
Bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất ca ngợi vẻ đẹp và tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam. Bài thơ như một chuyến hành trình cảm xúc của nhà thơ qua hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ:
“Biển rì rào gió bấc thổi mạnh,
Nhẹ nhàng cánh buồm thơ vươn xa Bạch Đằng.
Ngọn núi gãy nát, non gồ ghề,
Bãi cát như giáo mũi gươm bị vùi dập.”
Phần mở đầu của bài thơ miêu tả hình ảnh cánh buồm nhẹ nhàng lướt trên dòng sông Bạch Đằng rộng lớn, với không gian bao la của biển và trời. Gió thổi mạnh mẽ, tạo ra một cảm giác khoáng đạt, đưa thi nhân vào một tâm trạng thư thái:
“Biển rì rào gió bấc thổi mạnh,
Nhẹ nhàng cánh buồm thơ vươn xa Bạch Đằng.”
Nguyễn Trãi không chỉ cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hồi tưởng về những chiến công hào hùng trên sông Bạch Đằng. Bài thơ mô tả sự hùng vĩ của dòng sông và bãi biển qua các hình ảnh ẩn dụ:
“Ngọn núi gãy nát, non gồ ghề,
Bãi cát như giáo mũi gươm bị vùi dập.”
Bức tranh thiên nhiên hiện lên với sự tương phản mạnh mẽ giữa các hình ảnh “ngạc”, “kình”, và “gươm giáo” mang ý nghĩa tượng trưng cho các cuộc chiến thắng oanh liệt của dân tộc ta. Những bãi cát dài như những giáo mũi gươm bị quân xâm lược đánh bại, tạo nên một hình ảnh ấn tượng và đầy tự hào về lịch sử chiến đấu của dân tộc.
Nguyễn Trãi dùng phép đối để làm nổi bật tinh thần và ý chí của người Việt qua từng câu thơ. Bài học về địa lợi và nhân hòa được thể hiện rõ ràng:
“Quan hà hiểm trở, Trời kia dựng,
Hào kiệt công danh đất ấy từng.”
Địa thế hiểm yếu của Bạch Đằng là sự tạo hóa ban tặng, giúp bảo vệ Tổ quốc khỏi kẻ thù. Những anh hùng như Ngô Quyền và Trần Quốc Tuấn đã ghi dấu ấn trên dòng sông này với những chiến công bất tử. Câu thơ thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào về những chiến thắng lịch sử.
Cuối bài thơ, Nguyễn Trãi thể hiện nỗi hoài niệm và cảm xúc sâu lắng trước những ký ức về quá khứ:
“Chuyện cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt,
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng.”
Nhà thơ không chỉ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên mà còn gửi gắm tình yêu nước và sự tự hào về truyền thống chống xâm lăng của dân tộc. Bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng” là minh chứng cho tình yêu thiên nhiên và lòng tự hào dân tộc của Nguyễn Trãi.
“Núi Dục Thúy mưa tan, non tựa ngọc,
Cửa Đại An triều dậy, nước ngang Trời,”
(Vong Doanh)
“Côn Sơn suối chảy rì rầm,
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”
(Côn Sơn ca)
Những hình ảnh thiên nhiên tráng lệ và nhân dân anh hùng trong thơ của Nguyễn Trãi thể hiện niềm tự hào về sức mạnh và nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam.
Đọc bài thơ “Cửa biển Bạch Đằng”, chúng ta càng thêm yêu đất nước và con người Việt Nam, tự hào về những trang sử chống xâm lăng của dân tộc. Tâm hồn Nguyễn Trãi hòa quyện với núi sông Việt Nam.

6. Bài văn phân tích 'Bạch Đằng hải khẩu' - mẫu 9
Dòng sông Bạch Đằng, biểu tượng của những chiến công vang dội của dân tộc, đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều nhà thơ qua các thời kỳ. Những tác phẩm nổi bật như thơ của Trần Minh Tông, Trần Lâu, ‘Bài phú sông Bạch Đằng’ của Trương Hán Siêu, ‘Bạch Đằng hải khẩu’ của Nguyễn Trãi, ‘Quá Bạch Đằng giang’, và ‘Xuất Bạch Đằng hải môn tuấn An’ của Lê Thánh Tông đều thể hiện những cảm xúc và bút pháp khác nhau khi nhắc đến Bạch Đằng.
Nguyễn Trãi, khi qua Bạch Đằng vào một ngày gió mạnh, đã cảm nhận:
“Biển lùa gió bấc thổi băng băng.”
Khí lãng lăng gợi nhớ không khí của trận chiến xưa. Dù là một nhà quân sự, Nguyễn Trãi vẫn nhìn Bạch Đằng như một thi sĩ, với cánh buồm thơ nhẹ nhàng:
“Nhẹ kéo buồm thơ vượt Bạch Đằng.”
Chữ “quá” có thể dịch là vượt, nhưng dường như dịch là “lướt” thì phù hợp hơn, tạo ra một cảm giác thanh thoát hơn. Cảnh cửa biển Bạch Đằng, với trời mây và núi non hùng vĩ, được Nguyễn Trãi mô tả rất chi tiết:
“Ngạc chặt kình băm non lởm chởm,
Giáo chìm gươm gãy bãi giăng giăng.”
Nguyễn Trãi không chỉ nhìn núi mà còn cảm nhận những trận đánh trong quá khứ. So với cách miêu tả núi Vân Đồn hay Thần Phù, cảnh Bạch Đằng hiện lên với hình ảnh quân giặc bị băm vằm, hào khí lịch sử vẫn sống động trong tâm trí của ông.
Nhà thơ cảm nhận rằng núi non, dù hùng vĩ, vẫn chỉ là nền cho những chiến công anh hùng. Các câu thơ tiếp theo cho thấy sự đối sánh giữa thiên nhiên và lịch sử, giữa núi sông và anh hùng:
“Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt,
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng.”
Nguyễn Trãi, với vai trò là một nhà quân sự và một nhà thơ, đã đến thăm Bạch Đằng không chỉ để nhìn lại lịch sử mà còn để cảm nhận những ký ức xưa. Đối với ông, cảnh sắc và lịch sử hòa quyện thành một cảm xúc sâu lắng, một nét đẹp tâm hồn trong sáng của thế kỷ XV.

7. Phân tích bài thơ ‘Bạch Đằng hải khẩu’ - mẫu 1
Nguyễn Trãi đã được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới nhờ tài năng thiên bẩm và những đóng góp to lớn cho nền văn hóa. Ông không chỉ là một nhân vật văn hóa nổi bật mà còn để lại dấu ấn sâu đậm qua những tác phẩm của mình, đặc biệt là bài thơ 'Bạch Đằng hải khẩu' ('Cửa biển Bạch Đằng'). Bài thơ này thể hiện lòng tri ân sâu sắc của tác giả đối với những chiến công lịch sử và các anh hùng đã làm rạng danh đất nước.
Sau sự kiện 'Lệ chi viên', các tác phẩm của Nguyễn Trãi còn sót lại không nhiều. 'Bạch Đằng hải khẩu' là một trong những tác phẩm quan trọng của ông viết bằng chữ Hán. Lấy cảm hứng từ những trang sử hào hùng của dân tộc, Nguyễn Trãi đã diễn tả niềm tự hào và tình yêu sâu sắc đối với đất nước qua bài thơ. Cảm xúc trong bài thơ chuyển từ sự tự hào đến sự bâng khuâng, trăn trở.
Trong sáu dòng đầu, tác giả bộc lộ niềm tự hào về mảnh đất chiến trường, nơi đã ghi dấu nhiều chiến công vĩ đại. Hai câu đầu tiên khắc họa không gian rộng lớn của dòng sông Bạch Đằng qua hình ảnh thiên nhiên như 'gió bấc' và 'khí'. 'Gió bấc' là cách gọi của dân gian chỉ thời tiết lạnh mùa đông, trong khi từ 'cuồn cuộn' diễn tả sự chuyển động mạnh mẽ của gió. Khí trời cứ ào ào, lớp lớp tiếp nối nhau, thể hiện sự hùng vĩ và dữ dội của cửa biển Bạch Đằng vào mùa đông. Trái ngược với sự bao la của biển là hình ảnh cánh buồm nhẹ nhàng lướt qua, tạo nên vẻ thơ mộng trong câu thơ 'Kinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng' với hình ảnh 'cánh buồm thơ' và từ 'nhẹ giương'.
Trên con thuyền, nhân vật trữ tình quan sát cảnh vật qua các hình ảnh như 'cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ', 'núi uốn lượn quanh co', và 'bờ xếp chồng lởm chởm'. Nhà thơ dùng lối đảo ngữ và so sánh độc đáo để mô tả địa hình hiểm trở nơi Bạch Đằng. Những ngọn núi uốn lượn quanh co như con cá sấu, cá kình bị chặt thành nhiều khúc, và bờ bãi dày đặc như giáo gươm của giặc bị đánh chìm, xếp chồng. Hình ảnh 'cá sấu', 'cá kình' nhấn mạnh sự thất bại của quân giặc. Cửa biển Bạch Đằng lúc này vừa hùng vĩ vừa ghi dấu chiến tích của dân tộc.
Trong câu năm và sáu, tác giả nhắc lại chiến tích của các anh hùng dân tộc trên sông Bạch Đằng. Câu thơ 'Quan hà bách nhị do thiên thiết' dẫn chứng từ 'Sử ký' của Tư Mã Thiên, khẳng định tài năng và mưu lược của các anh hùng khi biết khai thác địa hình hiểm trở để lập nên kỳ tích. Bài thơ tự hào về những chiến công của Ngô Quyền và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, thể hiện lòng tự hào của Nguyễn Trãi về lịch sử hào hùng của đất nước.
Ở hai câu cuối, cảm xúc của nhà thơ chuyển từ sự tiếc nuối đến sự bâng khuâng khi nhìn lại lịch sử. Câu thơ 'Việc cũ ngoái đầu nhìn lại, ôi đã qua rồi' thể hiện sự tiếc nuối về những sự kiện đã qua, giờ chỉ còn là quá khứ xa xôi. Trước cảnh sắc thiên nhiên ở cửa biển Bạch Đằng, tác giả suy tư về những chiến công và lòng trí bâng khuâng, không thể diễn tả hết bằng lời. Bài thơ với thể thất ngôn bát cú, phép đối, phép đảo và từ ngữ giàu hình ảnh ca ngợi các anh hùng dân tộc và lưu giữ niềm tự hào về con sông Bạch Đằng, nơi ghi dấu những chiến tích vang dội.
Nguyễn Trãi, với tài năng hiếm có, đã để lại cho chúng ta những tác phẩm giá trị. Bài thơ là sự kết tinh của tư tưởng tiến bộ và lòng yêu nước, thương dân, trung quân ái quốc. 'Bạch Đằng hải khẩu' sẽ mãi sống cùng dòng chảy của thời gian.

Bài văn phân tích 'Bạch Đằng hải khẩu' - mẫu 2
Nguyễn Trãi không chỉ được biết đến như một nhà thơ lỗi lạc mà còn là một anh hùng dân tộc, với những cống hiến to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Các tác phẩm của ông vẫn giữ nguyên giá trị cho đến hôm nay, đặc biệt là bài thơ 'Bạch Đằng hải khẩu'. Bài thơ không chỉ khắc họa vẻ đẹp của dòng sông lịch sử mà còn lưu giữ những dấu ấn hào hùng của đất nước.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh:
'Sóc phong xuy hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.'
Hai câu thơ đầu tiên giới thiệu bối cảnh thời gian và không gian, với 'Sóc phong' là gió bấc mùa đông mạnh mẽ thổi qua biển, tạo nên những đợt sóng dữ dội. Câu thơ thứ hai với hình ảnh 'Khinh khởi ngâm phàm' thể hiện cánh buồm nhẹ nhàng trên biển, làm dịu đi sự cuồng nộ của sóng. Cảnh tượng này vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, mở ra cho người đọc cái nhìn sâu sắc về con sông Bạch Đằng.
'Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.'
Tác giả đã khéo léo sử dụng phép so sánh để miêu tả địa hình hiểm trở của sông Bạch Đằng. Những hình ảnh như 'cá sấu bị chặt' và 'cá kình bị mổ' tượng trưng cho quân địch thất bại. Những 'cây giáo bị chìm' và 'chiếc kích bị gãy' gợi lên sự chiến thắng của dân tộc, với bờ bãi sông như là chứng nhân của những trận chiến vĩ đại.
'Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.'
Nguyễn Trãi đã trích dẫn từ 'Sử kí' để khẳng định sự hiểm yếu của địa thế. Ông ca ngợi sự mưu lược của các anh hùng lịch sử như Ngô Quyền và Trần Quốc Tuấn, những người đã tận dụng địa hình để chiến thắng quân xâm lược. Những câu thơ này thể hiện niềm tự hào về các chiến công lịch sử và sự giữ gìn độc lập của đất nước.
Cuối cùng, hai câu thơ:
'Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng.'
Diễn tả tâm trạng trăn trở của tác giả khi nhìn lại lịch sử. 'Ôi đã qua rồi' thể hiện sự tiếc nuối về quá khứ, trong khi ngắm nhìn vẻ đẹp hùng vĩ của Bạch Đằng, tác giả không khỏi cảm thấy bâng khuâng về những bài học lịch sử. Bài thơ không chỉ ca ngợi những chiến công mà còn thể hiện sự suy tư sâu sắc của Nguyễn Trãi về quá khứ.
Với thể thơ thất ngôn bát cú và các biện pháp tu từ đặc sắc, bài thơ không chỉ vẽ nên bức tranh hùng vĩ của sông Bạch Đằng mà còn truyền tải niềm tự hào và suy tư của tác giả. Nguyễn Trãi đã để lại một di sản văn hóa quý giá với bài thơ này, ghi dấu ân về lòng yêu nước và sự kính trọng đối với các anh hùng dân tộc.

9. Bài văn phân tích 'Bạch Đằng hải khẩu' - mẫu 3
Sông Bạch Đằng, biểu tượng của lịch sử và thi ca, đã chứng kiến nhiều trận đánh quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, không lạ gì khi nhiều tác phẩm văn học lấy sông Bạch Đằng làm đề tài. Các tác phẩm nổi bật có thể kể đến như 'Bạch Đằng giang phú' của Trương Hán Siêu, 'Bạch Đằng giang' của Lê Thánh Tông, và đặc biệt là 'Bạch Đằng hải khẩu' của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi, nhà văn hóa vĩ đại với kho tàng sáng tác phong phú cả bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm, đã sáng tác 'Bạch Đằng hải khẩu' theo thể thất ngôn bát cú, chia thành bốn phần đề, thực, luận, kết. Bài thơ thể hiện cảm hứng lịch sử và hiện thực, chuyển từ niềm tự hào sang nỗi trăn trở khi đối diện với dòng sông huyền thoại.
Mở đầu, bài thơ mở ra hình ảnh hùng vĩ của cửa biển Bạch Đằng:
'Sóc phong xuy hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.'
Trong câu thơ đầu, 'gió bấc thổi trên biển, khí nổi cuồn cuộn' gợi cảm giác lạnh lẽo và sức mạnh của gió biển, chuẩn bị cho một trận chiến lớn. Ngược lại, 'cánh buồm thơ nhẹ nhàng lướt qua' làm dịu không khí, tạo sự đối lập thú vị giữa vẻ dữ dội của biển và sự thanh thoát của thuyền, làm nổi bật không gian hùng vĩ và sự nhỏ bé của con người trong cảnh thiên nhiên.
'Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
Quan hà bách nhị do thiên thiết
Hào kiệt công danh thử địa tằng'
Bốn câu thơ này ghi lại dấu ấn lịch sử của sông Bạch Đằng. 'Cá sấu bị chặt' và 'cá kình bị mổ' là hình ảnh ẩn dụ cho thất bại của quân địch. 'Cây giáo bị chìm' và 'chiếc kích bị gãy' trên bờ tượng trưng cho vũ khí của kẻ thù đã bị vứt lại. Nguyễn Trãi cũng dẫn lời 'Sử ký' của Tư Mã Thiên để khẳng định sự tài ba của các bậc anh hùng như Ngô Quyền và Trần Quốc Tuấn. Qua đó, tác giả thể hiện niềm tự hào về lịch sử và các anh hùng dân tộc.
Cuối cùng, hai câu thơ cuối diễn tả nỗi trăn trở của tác giả:
'Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng.'
Tác giả cảm thấy tiếc nuối và bồi hồi trước vẻ đẹp của sông Bạch Đằng và những bài học lịch sử. Bài thơ sử dụng các phép đối, phép đảo và từ ngữ gợi hình để tạo sức hút mạnh mẽ, và chắc chắn sẽ mãi lưu danh.
Những tác phẩm về sông Bạch Đằng tuy cùng đề tài nhưng mỗi bài đều mang một giá trị riêng biệt. Nguyễn Trãi đã làm cho 'Bạch Đằng hải khẩu' trở thành một tác phẩm độc đáo và nổi bật trong số đó.
