1. Đoàn Thị Điểm
Bà Đoàn Thị Điểm, còn được biết đến với hiệu Hồng Hà Nữ sĩ và biệt danh Ban Tang, sinh ra ở làng Hiến Phạm (nay là Giai Phạm, tên nôm là làng Giữa), huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, hiện thuộc Hưng Yên. Theo gia phả họ Đoàn, tổ tiên của bà gồm Ông Lê Công Nẩm, quan võ cấp Thái Thường Tự Thiếu Khanh và Ông Lê Doãn Vi, một văn nhân nổi tiếng, cùng cha là Ông Lê Doãn Nghi (Cử Nhân) sau đổi tên thành Đoàn Doãn Nghi. Ông từng dạy học ở thôn Lạc Viên, nay thuộc Hải Phòng.
Dù là nữ giới, Đoàn Thị Điểm sở hữu trí tuệ vượt trội và từ nhỏ đã được học tập các kinh điển như Tứ Thư, Ngũ Kinh. Năm 16 tuổi, bà đã nổi danh là một tài nữ trẻ tuổi. Quan Thượng thư Lê Anh Tuấn, người quen biết Đoàn Doãn Nghi và đánh giá cao tài năng của Đoàn Thị Điểm, đã nhận bà làm con nuôi. Bà sống tại nhà dưỡng phụ ở trường Bích Câu, Thăng Long, nơi bà tiếp xúc với nhiều học giả và có cơ hội mở rộng kiến thức. Khi dưỡng phụ định tiến cử bà vào cung để dạy các cung nữ, bà từ chối để tránh bị ràng buộc.
Năm 1724, khi nghe tin cha ốm nặng và tình hình chính trị ở Thăng Long bất ổn, bà trở về quê để chăm sóc cha. Năm 1743, bà kết hôn với ông Nguyễn Kiều, một học giả uyên bác (đỗ Giải nguyên năm 18 tuổi và Tiến sĩ năm 21 tuổi). Khi ông Nguyễn Kiều được cử đi sứ sang Trung Quốc, bà Đoàn Thị Điểm đã tự mình chăm sóc cả hai gia đình. Trong thời gian này, bà dịch bản Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn từ Hán văn sang thơ Nôm. Bản dịch này, cùng với Truyện Kiều của Nguyễn Du và Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, được coi là tác phẩm xuất sắc của thi văn trung đại Việt Nam, góp phần đưa tên tuổi bà lên đỉnh cao. Mặc dù bà viết nhiều sách, hiện chỉ còn lại một số tác phẩm như Truyền kỳ tân phả viết bằng chữ nho.
Vào tháng 8 năm 1748, trên đường đến Nghệ An cùng chồng, bà mắc bệnh nặng và qua đời vào ngày 11 tháng 9 năm Đinh Mão (1748). Mộ của bà hiện nằm ở phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội. Đoàn Thị Điểm được kính trọng không chỉ vì tài năng văn thơ mà còn vì phẩm hạnh cao quý, là mẫu mực phụ nữ Việt Nam qua các thời đại. Bà là một ngôi sao sáng trong hàng ngũ nữ sĩ Việt Nam, một nhà giáo và lương y tài đức vẹn toàn.
Tác phẩm nổi bật: Chinh Phụ Ngâm Khúc
2. Lâm Thị Mỹ Dạ (1949 - 2003)
Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ngày 18 tháng 9 năm 1949 tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Bà từng công tác tại Ty Văn hóa Quảng Bình và từ năm 1978 đến 1983 theo học tại Trường Viết Văn Nguyễn Du. Sau đó, bà làm phóng viên và biên tập viên cho tạp chí Sông Hương của Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Thừa Thiên-Huế. Bà là ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn Học Nghệ Thuật Thừa Thiên-Huế, hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam khóa III, và hội viên Hội Đồng Thơ của Hội Nhà Văn Việt Nam khóa V. Chồng bà, Hoàng Phủ Ngọc Tường, cũng là một nhà văn và nhà thơ nổi tiếng. Bà qua đời vào lúc 5 giờ sáng ngày 6 tháng 7 năm 2023 tại nhà riêng ở quận Bình Thạnh, TP.HCM, sau 14 năm mắc bệnh Alzheimer. Chồng bà cũng qua đời chỉ 18 ngày sau đó.
Bà đã giành Giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ (1971-1973); Giải thưởng Văn học Hội Nhà Văn Việt Nam cho tập thơ Bài thơ không năm tháng; Giải A thơ của Ủy Ban Toàn Quốc các Hội LHVHNT Việt Nam năm 1999; và Giải A thơ Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Cố Đô (1998-2004) của UBND tỉnh và Hội LH VHNT Thừa Thiên-Huế. Năm 2007, bà được Chủ tịch nước trao Giải thưởng Nhà nước về Văn Học Nghệ Thuật với ba tập thơ: Trái Tim Sinh Nở (1974), Bài Thơ Không Năm Tháng (1983) và Đề Tặng Một Giấc Mơ (1988). Năm 2005, tập thơ Cốm Non của bà được dịch sang tiếng Anh và phát hành tại Hoa Kỳ.
Tác phẩm nổi bật: Khoảng Trời Hố Bom, Trái Tim Sinh Nở (1974), Bài Thơ Không Năm Tháng (1983) và Đề Tặng Một Giấc Mơ
3. Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh (1942 – 1988), tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh tại xã La Khê, thị xã Hà Đông, nay thuộc quận Hà Đông, TP Hà Nội. Bà là một trong những nhà thơ nữ nổi bật của Việt Nam, với nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng được công chúng yêu mến.
Vào tháng 2 năm 1955, Xuân Quỳnh gia nhập Đoàn Văn Công Nhân Dân Trung Ương, nơi bà được đào tạo làm diễn viên múa. Trong sự nghiệp múa, bà đã nhiều lần biểu diễn quốc tế và tham gia Đại hội Thanh niên Sinh viên Thế giới năm 1962 tại Áo. Từ năm 1963 đến 1964, bà bắt đầu dấn thân vào lĩnh vực văn chương, học tại khóa 1 Trường Bồi dưỡng Viết Văn của Hội Nhà Văn Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp, bà làm việc tại Báo Văn Nghệ và Báo Phụ Nữ Việt Nam. Năm 1967, bà được kết nạp vào Ban Chấp Hành Hội Nhà Văn Việt Nam khóa III. Năm 1973, bà kết hôn với nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, sau khi đã trải qua một cuộc hôn nhân đầu tiên với một nhạc công.
Từ năm 1978 đến khi qua đời, bà làm biên tập viên tại NXB Tác Phẩm Mới. Xuân Quỳnh qua đời ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một vụ tai nạn giao thông tại Hải Dương, cùng với chồng là Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quang Thơ, khi cậu mới 13 tuổi. Năm 2001, bà được phong tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật và năm 2017, Chủ tịch nước quyết định truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật cho bà với hai tập thơ: Lời Ru Mặt Đất và
Xuân Quỳnh được biết đến với nhiều bài thơ ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc như: Thuyền và Biển, Sóng, Tiếng Gà Trưa, Thơ Tình Cuối Mùa Thu,… Bà đã nhận được Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh nhờ những đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam.
Tác phẩm nổi bật: Thuyền và Biển, Sóng, Tiếng Gà Trưa, Thơ Tình Cuối Mùa Thu,…
4. Phan Thị Thanh Nhàn
Phan Thị Thanh Nhàn (sinh ngày 9 tháng 8 năm 1943) là một trong những nhà thơ nữ nổi bật của Việt Nam. Bà hiện giữ chức Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà văn Thành phố Hà Nội và Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp Văn học và Nghệ thuật Thành phố Hà Nội. Đồng thời, bà còn là thành viên kỳ cựu trong Ban Chung khảo Hội đồng Giám khảo Quốc gia cuộc thi Viết thư quốc tế UPU tại Việt Nam, do Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đứng đầu, với nhiệm vụ chọn lọc bài dự thi gửi tham gia cuộc thi quốc tế của Liên minh Bưu chính Thế giới.
Phan Thị Thanh Nhàn sinh ngày 9 tháng 8 năm 1943 tại phường Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội. Bà bắt đầu làm thơ từ rất sớm, với những bài thơ đầu tiên được đăng báo vào đầu thập niên 1960. Năm 1969, bài thơ Hương Thầm của bà giành giải nhì trong cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ. Bà là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam và từng là Ủy viên Ban Chấp hành của hội giai đoạn 2001-2005. Bên cạnh việc viết thơ, bà còn viết báo, truyện ngắn và truyện cho thiếu nhi. Phan Thị Thanh Nhàn kết hôn với nhà thơ Thi Nhị, người đã qua đời năm 1979. Hiện tại, bà sống cùng con gái duy nhất tại Hà Nội. Bà được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.
Tác phẩm nổi bật: Hương Thầm, Chân Dung Người Chiến Thắng, Xóm Đê Ngày Ấy, …
5. Đoàn Thị Lam Luyến
Đoàn Thị Lam Luyến sinh ngày 14 tháng 6 năm 1953, quê ở xã Anh Dũng, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên. Bà lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo, và năm 1966, khi mới 13 tuổi, đã được nhận vào học tại Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật khu tự trị Tây Bắc. Từ năm 1976 đến 1982, bà theo học tại Đại học Mỹ thuật Công nghiệp. Kể từ năm 1983, bà làm biên tập viên mỹ thuật tại Nhà xuất bản Thanh niên và gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1996. Hiện bà sinh sống tại thị trấn Nghĩa Đô, quận Từ Liêm, Hà Nội.
Đoàn Thị Lam Luyến đã xuất bản 10 tập thơ và nhận nhiều giải thưởng, bao gồm giải thưởng cuộc thi thơ của báo Văn nghệ (1989-1990), giải thưởng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam (1995) và Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội (2003). Dù xuất hiện muộn hơn so với các nhà thơ nữ khác, thơ của bà mang phong cách mạnh mẽ và nữ tính, phản ánh cuộc sống đời thường một cách nhuần nhị và mượt mà. Đọc thơ của bà, người ta cảm nhận như bà đang trò chuyện với chính mình và những người xung quanh, chứ không phải là một cuộc vật lộn với ngôn từ. Các chủ đề như tình yêu, gia đình và hạnh phúc trong thơ bà luôn có sự khác biệt riêng, tạo nên dấu ấn độc đáo trong lòng người đọc.
Tác phẩm nổi bật: Mái Nhà Dưới Bóng Cây; Lỡ Một Thì Con Gái
6. Ý Nhi
Ý Nhi (sinh năm 1944) là một trong những nhà thơ nữ nổi bật của nền thơ hiện đại Việt Nam. Những tác phẩm của bà đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và nhận được sự công nhận từ các nhà phê bình thơ phương Tây, coi bà là một trong những nhà thơ tiên phong sau thời kỳ Đổi mới. Tên thật của bà là Hoàng Thị Ý Nhi, sinh ra tại Hội An, Quảng Nam, trong một gia đình có truyền thống học vấn. Bà là con gái lớn của giáo sư Hoàng Châu Ký, một nhà hoạt động cách mạng và nghiên cứu về nghệ thuật tuồng. Ý Nhi lớn lên tại Hà Nội và tốt nghiệp cử nhân Ngữ Văn tại Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1968. Bà kết hôn với giáo sư Nguyễn Lộc, một nhà nghiên cứu tuồng và là đồng sáng lập Trường Đại học Văn Hiến.
Bà được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985 với tác phẩm Người đàn bà ngồi đan. Cùng với Thanh Thảo và Nguyễn Duy, Ý Nhi thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nhưng thực sự nổi bật sau chiến tranh nhờ những đổi mới hiện đại, làm mới thơ Việt Nam về cả nội dung lẫn hình thức. Thơ của Ý Nhi mang một sự giản dị nhưng đầy trí tuệ, với giọng điệu trầm lắng, suy tư và sâu sắc. Ngôn ngữ thơ của bà có chiều sâu triết luận, phản ánh nỗi khắc khoải của trái tim trên hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống. Bà cũng là một trong những nhà thơ nữ hiếm hoi được công chúng đón nhận nồng nhiệt và có niềm đam mê với bóng đá (truyện ngắn: Roy Evan rời bỏ Liverpool).
Năm 2015, nhà thơ Hoàng Thị Ý Nhi được trao giải thưởng văn học Thụy Điển Cikada, vinh danh bà vì “những bài thơ xuất sắc bảo vệ sự bất khả xâm phạm của đời sống”. Đây là lần đầu tiên một nhà thơ Việt Nam nhận được giải thưởng cao quý này.
Tác phẩm nổi bật: Nỗi nhớ con đường, Đến với dòng sông, Người đàn bà ngồi đan
7. Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848)
Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, là một thi sĩ nữ tiêu biểu của thời kỳ cận đại trong lịch sử văn học Việt Nam. Bà sinh ra tại phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây (nay thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ), Hà Nội. Cha bà, Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1783 dưới triều Lê Hiển Tông. Bà là học trò của danh sĩ Phạm Quý Thích (1760-1825) và kết hôn với Lưu Nghị (1804-1847), người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Ông Nghị đỗ cử nhân năm 1821, từng làm tri huyện Thanh Quan và đạt chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình, nhưng mất sớm ở tuổi 43. Dưới triều Minh Mạng, bà được mời vào kinh để dạy học cho các công chúa và cung phi. Sau khi chồng mất, bà xin thôi việc, dẫn bốn con về Nghi Tàm và sống độc thân đến cuối đời. Dù không rõ chính xác thời gian sống của bà, nhiều tư liệu cho biết bà sinh năm 1805 và mất năm 1848. Mộ bà được đặt bên Hồ Tây, nhưng sau này đã bị sóng gió làm sạt lở.
Bà Huyện Thanh Quan sáng tác không nhiều, nhưng các tác phẩm của bà thể hiện sự khéo léo trong lối chơi chữ, tuân theo vần điệu luật lệ, đồng thời chứa đựng nét nữ tính và lòng yêu nước sâu sắc. Hồn thơ của bà không chỉ bắt nguồn từ truyền thống khoa bảng của gia đình mà còn từ mảnh đất quê hương nơi xưa đã từng là địa điểm học hành của công chúa Từ Hoa, con dâu vua Thần Tông nhà Lý ở thế kỷ XII.
Các tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan gồm: Qua chùa Trấn Bắc, Qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh đền Trấn Võ, Cảnh Hương sơn.
8. Hồ Xuân Hương (1771-1822)
Hồ Xuân Hương (1772-1822) là một thi sĩ nổi bật ở cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, một nhân vật vẫn còn gây nhiều tranh cãi trong giới học thuật hiện đại. Vào năm 2021, bà cùng Nguyễn Đình Chiểu đã được UNESCO vinh danh là 'danh nhân văn hóa thế giới' với kỷ niệm năm sinh và năm mất. Các tác phẩm của bà hoàn toàn là thơ và chủ yếu được viết bằng chữ Nôm. Nhà thơ hiện đại Xuân Diệu đã tôn vinh bà là Bà chúa thơ Nôm. Thơ của Hồ Xuân Hương đã vượt qua các quan niệm sáng tác cũ, thể hiện một tiếng nói độc đáo của thời đại mình, và được mô tả là 'thanh thanh tục tục'.
Trong một thời kỳ đầy biến động, Nghệ An đã chứng kiến sự xuất hiện của một thi nhân với tài năng thơ ca phi thường. Tuy nhiên, cuộc đời của Hồ Xuân Hương vẫn chứa đựng nhiều bí ẩn chưa được giải mã. Không có nhiều tài liệu chính thức về năm sinh và mất của bà, nhưng tên tuổi của Hồ Xuân Hương vẫn rực rỡ như một viên ngọc quý trong lòng người Việt. Bà sống chủ yếu ở Thăng Long, nay là Hà Nội, và một ngôi nhà gần Hồ Tây, mang tên 'Cổ Nguyệt Đường,' đã ghi dấu những bước chân của bà. Dù cuộc sống của bà đầy khó khăn và biến cố, Hồ Xuân Hương đã để lại những bài thơ sắc sảo và đôi khi nghịch ngợm, khắc sâu tài hoa của mình.
Thơ Hồ Xuân Hương thường được viết theo thể thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, với bút pháp điêu luyện và chữ Nôm đặc sắc hơn chữ Hán. Các ý tưởng trong thơ bà thường táo bạo, phản kháng lễ giáo đương thời nhưng không suy đồi. Hồ Xuân Hương được xem là một hiện tượng kỳ thú trong thi ca cổ điển Việt Nam, đưa ra cái nhìn đối lập với truyền thống đạo đức mà không làm giảm giá trị nghệ thuật của mình. Di sản thơ ca của bà phản ánh thực trạng xã hội và sự mục rữa của nhiều lề lối cũ.
Các tác phẩm nổi bật: Bánh trôi nước, Bỡn bà lang khóc chồng, Cái kiếp tu hành, Cái nợ chồng con, Cái quạt
9. Anh Thơ (1921 – 2005)
Anh Thơ được sinh ra tại thị trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương và có quê quán ở thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Cha của bà là một nhà nho đậu tú tài, làm công chức dưới thời Pháp thuộc và phải di chuyển nhiều nơi, khiến Anh Thơ phải thay đổi trường học từ Hải Dương đến Thái Bình rồi trở lại Bắc Giang mà chưa hoàn thành bậc tiểu học. Ban đầu bà dùng bút danh Hồng Anh, sau đó đổi thành Anh Thơ. Anh Thơ bắt đầu sáng tác từ rất sớm; ở tuổi 17, tập thơ đầu tay của bà mang tên Bức tranh quê đã nhận giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn. Bà còn cộng tác viết bài cho báo Đông Tây và một số báo khác.
Dù không được học hành nhiều ở trường lớp, nhưng tình yêu văn học đã sớm bộc lộ, phần nào chịu ảnh hưởng từ gia đình Nho giáo bên ngoại và cuộc sống tù túng của một cô gái trong gia đình Nho phong. Trong thời kỳ phong trào 'Thơ mới' đang bùng nổ, Anh Thơ đã chọn thơ như một con đường giải thoát và khẳng định giá trị của phụ nữ trong xã hội đương thời. Từ năm 1931, thơ của bà bắt đầu xuất hiện trên báo. Tập thơ đầu tiên - Bức tranh quê (in 1941) - bao gồm 45 bài, miêu tả cảnh sắc nông thôn theo bốn mùa với sự quan sát tinh tế và nhạy cảm, là điểm khởi đầu cho một phong cách riêng trong phong trào Thơ mới, tập trung vào vẻ đẹp của nông thôn Việt Nam. Những bức tranh thiên nhiên này không chỉ thể hiện vẻ đẹp của làng quê mà còn chứa đựng sự khao khát sống và yêu đương của một tâm hồn thiếu nữ muốn thoát khỏi sự ràng buộc xã hội.
Trước Cách mạng tháng Tám, Anh Thơ tham gia Việt Minh năm 1945, từng là Bí thư huyện Hội phụ nữ ở bốn huyện: Việt Yên, Lục Ngạn, Bắc Sơn, Hữu Lũng (tỉnh Bắc Giang), và ủy viên thường vụ Tỉnh hội phụ nữ hai tỉnh Bắc Giang và Lạng Sơn. Thơ của bà thời kỳ này tập trung vào tâm tình và hình ảnh người phụ nữ ở hậu phương, đặc biệt là những nữ cán bộ đã vượt qua đau thương và mất mát, góp phần vào chiến thắng của dân tộc. Trong những năm chống Mỹ, Anh Thơ mở rộng đề tài thơ, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống mới và chủ nghĩa anh hùng của con người Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ bình dị. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam (1957) và ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 1 và 2).
Từ năm 1971 đến 1975, bà là biên tập viên của tạp chí Tác phẩm mới và là ủy viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Bà qua đời tại Hà Nội do bệnh ung thư phổi và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật vào năm 2007.
Tác phẩm tiêu biểu: Bức tranh quê, Xưa, Răng đen