1. Bài văn phân tích đoạn trích 'Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ' số 1
2. Bài văn phân tích đoạn trích 'Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ' số 3
Chào đời vào nửa đầu thế kỉ XVIII với bản Hán văn của Đặng Trần Côn, Chinh Phụ Ngâm đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của mọi tầng lớp xã hội. Trải qua hơn hai thế kỉ và nhiều hơn nữa đến nay, Chinh Phụ Ngâm vẫn giữ nguyên giá trị của một tác phẩm văn học lấp lánh, là niềm tự hào của mảnh đất được biết đến với danh xưng 'đất nước thi thư'. Trong đoạn trích 'Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ' số 3, tâm trạng cô đơn của người vợ, nhớ chồng đang chiến trận, được mô tả sâu sắc, đồng thời nghệ thuật diễn Nôm xuất sắc của Đặng và Đoàn, đặc biệt là với bàn tay tài năng của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, đã làm nổi bật tình cảm của nhân vật. Đoạn trích này kể về hình ảnh người phụ nữ phải sống cô đơn, đau khổ trong thời gian chồng đi chiến trận mà không biết tin tức:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Trong khi Kiều đã nói về 'phận gái chữ tòng', và 'Thệ dục tùy quân khứ', người vợ ở đây lại phải đối mặt với 'Phụ nhân tại quân trung/ Binh khí khủng bất dương', không thể theo chồng đi chiến trận. Nàng có chồng, nhưng chàng đi rồi, nàng chỉ còn lại 'dạo hiên'. Người vợ đếm từng bước chân, giống như đếm từng ngày chồng đi, đếm từng ngày nỗi nhớ tràn ngập trong khoảng không trống lạnh lẽo. Sau chuyến đi, nàng kéo rèm xuống, hình bóng chồng như biến mất, nhưng khi mở rèm lên, thì lại là tình cảm và ánh nước trong mắt đang lừa dối nàng. Điều này khiến nàng không biết mình nên tin vào điều gì nữa. Nỗi cô đơn được mô tả rõ trong bài, nhưng nàng vẫn lặp lại hành động của mình...
Qua những câu thơ bi thương, tác giả làm nổi bật nỗi sợ hãi của người phụ nữ khi không thể ở bên người chồng yêu dấu. Bức tranh cuộc sống cô đơn, buồn bã của người chinh phụ như được khắc sâu qua từng câu chữ, từng hình ảnh. Mỗi chi tiết nhỏ như dạo hiên, rèm thưa, thác đòi phen đều tăng cường thêm vẻ buồn bã, hoang mang của người phụ nữ khi đối diện với thực tế khắc nghiệt. Tình yêu, lòng trung thành và sự đau khổ của người chinh phụ được diễn đạt một cách chân thật và đầy cảm xúc, làm cho độc giả không khỏi cảm thấy đồng cảm và thấu hiểu.
Bài viết này cũng nhấn mạnh vào những hình ảnh màu sắc và âm thanh để tạo ra không khí tâm lý, từ 'lệ rơi khêu ngọn đèn', 'gà eo óc gáy sương năm trống' đến 'hoa đèn kia với bóng người khá thương'. Tất cả những chi tiết này không chỉ làm phong phú thêm bức tranh văn hóa mà còn tăng cường cảm nhận về tâm trạng và cảnh sắc trong tâm hồn người chinh phụ. Ngoài ra, câu thơ 'Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun' kết thúc đoạn trích với hình ảnh của một cảnh buồn, thiết tha và tiếng trùng mưa phun nổi bật, nhấn mạnh sự tương tác giữa tâm trạng của người chinh phụ và thiên nhiên xung quanh. Đây là một phần quan trọng của nghệ thuật miêu tả trong Chinh Phụ Ngâm, giúp độc giả hòa mình vào không gian tâm lý của nhân vật chính.
Bằng cách này, tác giả không chỉ mô tả một câu chuyện tình cảm cá nhân mà còn nói lên những tình cảnh và cảm xúc chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nó không chỉ là một bức tranh về tình yêu lãng mạn mà còn là một phản ánh sâu sắc về cuộc sống và tình cảm trong bối cảnh lịch sử. Chinh Phụ Ngâm không chỉ là một tác phẩm văn học nổi bật với giá trị nghệ thuật cao mà còn là một tấm gương về lòng trung hiếu, lòng nhân ái và lòng trung thành, đồng thời là một hình ảnh rõ nét về đau khổ và tình yêu của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Chúng ta được đưa vào thế giới tâm lý của người chinh phụ, cảm nhận sâu sắc niềm đau khổ, cô đơn và tương tư. Mỗi chi tiết, mỗi hình ảnh đều đóng góp vào việc xây dựng bức tranh tâm hồn phong phú và đặc sắc. Những khía cạnh văn hóa và xã hội cũng được tác giả khắc họa một cách tinh tế và sâu sắc, làm cho độc giả nhìn nhận và suy ngẫm về những giá trị lâu dài mà Chinh Phụ Ngâm mang lại.
3. Bài văn phân tích đoạn trích 'Tình trạng cô đơn của người phụ nữ chiến binh' số 2
Đặng Trần Côn (sinh-mất năm chưa rõ) người làng Nhân Mục, tên nôm là làng Mộc, huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. về sáng tác, ngoài tác phẩm chính là Chinh phụ ngâm, ông còn làm thơ chữ Hán và viết một số bài phú chữ Hán. Theo các tài liệu lịch sử, đầu đời Lê Hiển Tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình cất quân đánh dẹp, nhiều trai tráng phải từ giã người thân ra trận. Đặng Trần Côn cảm động trước nỗi khố đau mất mát của con người, nhất là những người vợ lính trong chiến tranh, đã viết Chinh phụ ngâm. Khúc ngâm này gồm 476 câu thơ làm theo thể trường đoản cú (câu thơ dài ngắn không đều nhau).
Tác phẩm đã được dịch ra chữ Nôm, và chưa biết ai là tác giả bản dịch hiện hành. Có người cho rằng đó là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Lại có người cho rằng Phan Huy Ích chính là dịch giả của Chinh phụ ngâm. Đoạn trích dưới đây thuộc bản dịch hiện hành, viết về tình cảm và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, mòn mỏi trong thời gian dài người chồng đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày trở về. Kể từ lúc tiễn chồng vào “cõi xa mưa gió” người chinh phụ trở về sống trong tình cảm đơn chiếc, lẻ loi. Ngày cũng như đêm, sau khi công việc đã yên mọi bề, người chinh phụ
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Bốn câu thơ song thất lục bát với vần điệu chặt chẽ, thăng trầm như những nốt nhạc buồn càng làm đậm thêm tình cảnh đơn chiếc, lẻ loi kia. Người trước có lúc sóng đôi vợ chồng thì nay “thầm gieo từng bước' dưới mái hiên vắng vẻ. Ngày nào bàn chuyện làm ăn cùng chồng bên cửa sổ thì nay buông xuống kéo lên nhiều lần mong ngóng nhưng chẳng thấy chim thước báo tin lành. Ngày thì như thế, còn đêm thì không ngủ được, một mình đối diện với ngọn đèn khuya. Tình cảnh của người chinh phụ quá lẻ loi, đơn chiếc. Ngày thì khắc khoải chờ mong. Đêm dài câm lặng, biết riêng lòng mình, Hoa đèn kia dẫu sao còn lửa. Riêng lòng này với bóng lạnh lùng.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Hai câu lục bát, một câu miêu tả thời gian, một câu miêu tả nỗi buồn. Cả hai câu đều mang nghệ thuật so sánh. Trong tình cảnh lẻ loi ấy thì một giờ là đợi dài tựa một năm, như người xưa thường ví “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề', ngày sau này Xuân Quỳnh tâm sự “Một ngày không gặp nhau / Biển bạc đầu thương nhớ”. Thời gian chờ đợi càng dài thì nỗi sầu càng lớn 'tựa miền biển xa”. Tình cảnh đã bước qua tâm trạng. Đấy là tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ gửi tới chồng ở miền xa. Nỗi nhớ thương thật tha thiết.
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Bốn câu thơ trên là lời tâm sự của vợ gửi đến chồng. Nhưng chim thước không có để nhờ mang thư đi. Vậy thì gửi lời nhớ thương theo gió. Nhưng gửi theo gió đông thì gió có mang lời thủ thỉ đến được tai chàng? Biết chàng đang ở nơi nào ngoài mặt trận? Thôi thì lòng thương quý chàng xin được gửi đến nơi xa nhất mà chàng tới như Đậu Hiến đời Hậu Hán đánh đuổi giặc Bắc Thiền Vu đến núi Yên Nhiên, bởi vì:
“Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua. ”
Đời chiến binh là như thế, là “ôm yên, gối trống đã chôn, / Năm vùng cát tráng ngủ cồn rêu xanh”, chưa kể đời chiến binh mấy người đi trở lại. Tình thương, nỗi nhớ của nàng là như thế. Nhưng:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Dù là “Trời” thì Trời cũng khó mà hiểu thấu tình thương và nỗi nhớ da diết của người chinh phụ. Các từ láy “thăm thẳm, đau đáu” càng làm tăng thêm sự không hiểu biết, không thấy được của Trời, và chỉ có người trong cuộc (người chinh phụ) mới cảm nhận rõ lòng mình. Cảnh thì buồn, đến cả cây cỏ và tiếng côn trùng cũng não ruột. Còn tình thì da diết thiết tha. Thể thơ song thất lục bát vốn thích hợp với tự sự, trong đoạn trích, bản dịch lại dùng phép so sánh, từ lặp và từ láy một cách tự nhiên càng làm tăng thêm giá trị nội dung.
Đọc đoạn trích người đọc cứ ngỡ ngàng rằng chỉ để miêu tả tình cảnh lẻ loi, thể hiện tâm trạng khát khao tình yêu của người chinh phụ. Nhưng nếu nghĩ sâu xa hơn thì đoạn trích bày tỏ sự oán ghét chiến tranh. Chiến tranh đã chia rẽ tình yêu, ngăn cách hạnh phúc lứa đôi của nhiều thế hệ, nhất là thế hệ trẻ, có lẽ vì thế mà tác phẩm đã được độc giả cùng thời hết sức tán thưởng. Nhiều người còn dịch Chinh phụ ngâm sang thơ Nôm (tức thơ tiếng Việt) để khúc ngâm được truyền bá rộng rãi hơn. Bản diễn Nôm hiện hành là bản dịch thành công nhất.
4. Phân Tích Đoạn Trích 'Tình Cảnh Lẻ Loi của Người Chinh Phụ' Số 5
Đoạn trích 'Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ' là một phần quan trọng trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Nó không chỉ thể hiện tâm trạng của người phụ nữ khi chồng đi lính mà còn mang đậm nét nghệ thuật. Tác giả đã sử dụng bút pháp sắc sảo để phản ánh hiện thực xã hội về chiến tranh, ảnh hưởng không chỉ đến những người trực tiếp tham gia mà còn đến người thân, đặc biệt là người vợ.
Đầu tiên, đoạn trích thể hiện sự cô đơn và tủi phận, nỗi nhớ và mong muốn truyền tới chàng tấm lòng vàng của người phụ nữ. Hành động, cử chỉ, trạng thái tâm trạng được mô tả từ cô đơn buồn tủi chuyển dần thành nỗi bi ai, buồn rầu, tuyệt vọng:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!”
Hành động dạo hiên vắng cho thấy người phụ nữ đang cô đơn, quanh quẩn với thềm và chiếc rèm, như gieo mình buông thả mặc cho bước chân đi đâu, không mảy may đến bậc thang để khỏi ngã. Điều này thể hiện tâm trạng thơ thẩn của nàng khi thiếu vắng chàng. Hết dạo bước, lại ngồi, trong lòng nỗi băn khoăn, nhớ nhung cứ dằng dặc. Nàng ngồi trong chiếc rèm, chờ con thước báo tin chồng nhưng chỉ thấy tuyệt vọng. Nàng tự hỏi liệu đèn thường xuyên thức cùng nàng mong ngóng tin chồng thì liệu đèn có biết được nỗi lòng của nàng. Đèn chỉ là vật vô tri vô giác làm sao có thể hiểu thấu được lòng nàng. Tâm trạng nàng thay đổi từ thẫn thờ đến trông mong, bi thiết và buồn rầu tuyệt vọng.
Nàng chờ đợi trông mong rồi thức cả năm canh dài, mỗi khắc trôi qua dài như một năm, mối sầu được thế càng giăng kín trong lòng người thiếu phụ. Nàng ngắm nhìn cảnh vật, tự thương lấy bản thân. Buồn là thế, nàng gượng cả đốt hương vì càng đốt thì nàng hồn nàng càng như mê mệt, nàng gượng cả soi gương vì sợ nhìn thấy chính mình lại nước mắt thương thân. Muốn đánh đàn để vơi đi nỗi nhớ, để bày tỏ lòng mình với trời đất nhưng lại kinh ngại dây tơ hồng, loan phượng đứt chùng:
“Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Trước muôn vàn nỗi nhớ, người chinh phụ muốn gửi đến chồng tấm lòng thủy chung, gửi những nỗi nhớ và niềm thương lo lắng:
“Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
.Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.”
Nàng nhờ gió đông gửi đến chàng cho tiện nhưng liệu chàng có thể nhận được chăng. Trời cao với chẳng ai khôn thấu, lòng nàng buồn rầu liệu ai hiểu được chăng. Không chỉ người buồn mà cảnh vật cũng buồn, những hình ảnh thiên nhiên được nhìn qua con mắt của người thiếu phụ buồn rầu vì thương nhớ, mang một màu tâm trạng nhớ thương:
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.”
Âm thanh của tiếng gà gáy trở nên “eo óc” ảm đạm, cây hòe tươi đẹp ngày nào giờ trở thành hình ảnh ủ rủ bốn bên dưới bầu trời sương dăng dặc như giọt nước mắt thầm lặng của người chinh phụ, hòe hiện lên như khuôn mặt buồn bi thiết. Ở đây tác giả đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, nói về thiên nhiên để thể hiện tâm trạng của người chinh phụ.
Điều này tạo nên bức tranh của người và cảnh đẹp nhưng buồn. Bức tranh ấy với hình ảnh của những bông hòe ủ rủ bốn bên, yếu ớt, hạt mưa phùn rơi trên thềm vắng. Người con gái như đang chuyển động từ dạo bước, ngồi, mong ngóng trông xa. Người thiếu phụ vẫn còn trẻ nhưng lại đối mặt với nguy cơ trở thành người phụ nữ góa chồng. Nàng cô đơn một phần và thương nhớ lo lắng nhiều phần hơn.
5. Phân Tích Đoạn Trích 'Tình Cảnh Lẻ Loi của Người Chinh Phụ' Số 4
Văn học thế kỉ XVIII là thế giới của những lời thoại cảm động, lòng thương cho số phận bất hạnh của phụ nữ. Ngoài Truyện Kiều của Nguyễn Du, không thể không nhắc đến Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn. Đây là bản nghệ thuật chân thành, sâu sắc về tình cảm của phụ nữ khi chồng họ phải ra chiến trường. Tình trạng tinh thần của nhân vật được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích Tình Cảnh Lẻ Loi của Người Chinh Phụ.
Theo các tư liệu lịch sử, đầu triều vua Lê Hiển Tông, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân xảy ra xung quanh Thăng Long. Triều đình buộc phải triển khai quân đội, nhiều thanh niên phải từ giã gia đình, người thân để tham gia trận chiến. Với mỗi chàng trai ra đi, có một người phụ nữ, người vợ ở nhà trong niềm nhớ thương và nỗi buồn lẻ loi. Đặng Trần Côn cảm thông với nỗi đau của người phụ nữ và lựa chọn nói lên lòng của họ. Trích đoạn từ câu 193 đến câu 216 miêu tả tâm trạng của người chinh phụ khi xa chồng, hiện thực tâm trạng đó qua nhiều biểu hiện cảm xúc và tình cảm khác nhau.
Đầu tiên, là tâm trạng lo lắng, bồn chồn và nhớ thương của nhân vật được thể hiện qua các hành động lặp đi lặp lại: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước. Bước chân chậm chạp, trọng trách tâm trạng, thể hiện sự chán ngán không tận của người chinh phụ. Bước chân này không giống với bước chân của Kiều tìm kiếm tình yêu: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Người chinh phụ đứng lên rồi lại ngồi xuống, tâm trạng thấp thoáng, bất an vì lo lắng cho sự sống sót của chồng trên chiến trường nguy hiểm. Sự bất an này còn được thể hiện qua hành động: Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phe, như người phụ nữ đang buông rèm xuống rồi lại cuốn lên, dường như đó là hành động vô thức, hành động thụ động để giảm bớt nỗi lo âu. Sau khi ngắm ra ngoài qua bức rèm để mong chờ tin tức tích cực, nàng lại thẫn thờ quay lại đối diện với ngọn đèn đơn độc.
Trong tình trạng bồn chồn đó là nỗi nhớ, thao thức và mong ngóng chồng trở về. Trong văn học, ngọn đèn thường được sử dụng để biểu đạt nỗi nhớ, thao thức, chúng ta đã biết qua ca dao: Đèn thương nhớ ai/ Mà đèn không tắt. Hoặc trong Chuyện Người Con Gái Nam Xương, người vợ nhớ chồng đêm đêm chỉ bóng dáng mình lên tường và nói với con rằng đó là bố. Hành động đó cũng biểu hiện nỗi nhớ thương. Đây là hình ảnh phổ biến trong văn học, và trong tác phẩm về người chinh phụ cũng lấy đèn để thể hiện nỗi nhớ thương. Trong căn phòng trống rỗng, quạnh hiu, chỉ có cây đèn là người bạn đồng hành để chia sẻ mỗi cung bậc cảm xúc của người chinh phụ. Bởi vì nó vô tri vô giác, chinh phụ đau khổ nhận ra rằng “Đèn có biết dường bằng chẳng biết”.
Chinh phụ càng hiểu rõ hơn nỗi cô đơn chói lọi của mình. Để nhấn mạnh sự thôi thúc của mình, hình ảnh của Hoa Đèn với bóng người đẹp thương, đèn đỏ như hoa đèn, là dấu hiệu của sự hao mòn khi dầu cạn, bánh đèn nứt. Chứng tỏ người chinh phụ đã thao thức nhiều đêm, triền miên, đau khổ, nhớ mong về chồng. Cảnh vật xung quanh tăng cường nỗi cô đơn của người chinh phụ, âm thanh của gà eo óc thể hiện âm thanh buồn bã, đau đớn. Kết hợp với từ láy phất phơ để diễn đạt âm nhạc buồn chậm rãi, thể hiện tâm trạng u sầu của người chinh phụ. Hai hình ảnh tương phản nhau để mô tả sự thao thức không lối thoát, cô đơn của chinh phụ. Bằng cách này, người chinh phụ cảm nhận sâu sắc hơn về nỗi cô đơn: Khắc giờ đằng đẵng như niên/ Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa, thời gian trôi đi nặng nề, vô vị. Cách nguyên mẫu để miêu tả thời gian trong tâm trạng buồn chán cũng được Nguyễn Du mô tả: Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài kinh hoàng. Nỗi buồn lan tỏa đến không gian không giới hạn.
Nỗi cô đơn bao trùm, người chinh phụ cố gắng, tìm mọi cách để thoát khỏi nỗi cô đơn. Nàng đốt hương để tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn, nhưng tâm trạng hồn nhiên, người chinh phụ lại chìm sâu hơn trong nỗi buồn sầu. Nàng sử dụng gương để tìm kiếm niềm vui trong việc làm đẹp cho bản thân, nhưng khi nhìn vào gương, nàng phải đối mặt với sự cô đơn, lẻ loi, và nhận ra tàn phai của tuổi thanh xuân. Nước mắt ngày càng tràn đầy, nỗi đau trở nên nặng nề hơn, nàng thấm thía nỗi cô đơn, và tuổi thanh xuân tàn phai trong nỗi buồn. Nàng cầm đàn nhưng khi chạm vào nó, nàng tự ý thức về tình cảnh của mình, cảm thấy tủi thân trước biểu tượng của sự đôi lứa, ẩn sau những nhạc cụ: Đàn sắt, đàn cầm: sự hòa âm giữa vợ chồng được biểu tượng. Dây uyên: dây đàn uyên ương - biểu tượng của đôi lứa đoàn kết. Phím đàn loan phượng - biểu tượng của tình yêu vợ chồng. Tất cả những nhạc cụ chỉ là biểu tượng của sự đôi lứa, chỉ có một mình nàng cô đơn, lẻ bóng. Thậm chí nỗi cô đơn khiến nàng lo sợ, ám ảnh rằng dây đàn có thể đứt, phím đàn có thể bị chùn, đó là những dấu hiệu không may mắn của đôi lứa. Nàng tìm đến những niềm vui nhưng càng tìm kiếm càng đối diện với bi kịch của mình, gặp thêm đau khổ.
Nàng tìm đến thiên nhiên nhưng thiên nhiên lại phản ánh khoảng cách vô tận giữa nàng và chồng. Non Yên - nơi chiến trận ở xa biên giới, khoảng cách không thể nào nối kết. Nàng cố gắng vượt qua khoảng cách, gửi đi những kỷ niệm qua gió đông, nhưng đây chỉ là giải pháp tưởng tượng, không thể thực hiện được. Nàng phải đối mặt với thực tế, thấm thía với bi kịch của mình: cảnh vật xung quanh hiện hữu, sương khuya lạnh lẽo, tiếng trùng rả rích trong đêm. Hình ảnh u sầu, tăm tối, đang bao quanh người chinh phụ, sống trong đau đớn và nhớ thương. Đoạn trích đã làm nổi bật nghệ thuật miêu tả tâm lý của nhân vật với sự tài năng đặc biệt. Tâm trạng của người chinh phụ được miêu tả ở nhiều mức độ khác nhau thông qua hành động và bối cảnh bên ngoài. Thơ ca song thất lục bát và việc sử dụng từ ngôn ngữ phong phú đã hình thành hình ảnh phong phú và gợi cảm của thế giới tâm lý của nhân vật.
Qua đoạn trích, Đặng Trần Côn đã thành công trong việc miêu tả những trạng thái tâm lý đa dạng của người chinh phụ, nỗi cô đơn, nỗi buồn thương. Đồng thời, đây cũng là một lời kêu gọi mạnh mẽ, quyết liệt về cuộc chiến tranh phi nghĩa đã tách rời hạnh phúc của các đôi lứa.
6. Phân Tích Đoạn Trích 'Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ' Số 7
Trên thực tế, ngoại trừ giới nghiên cứu chuyên sâu, hiếm khi độc giả lưu ý đến bản gốc Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn, người quê ở làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì (nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội). Thay vào đó, họ chỉ biết đến bản dịch Nôm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748), người quê ở làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Hưng Yên).
Tương tự như Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm dưới bàn tay của Đặng - Đoàn khác biệt về triết lý cao cả và đề cập đến cuộc sống thường nhật. Tâm trạng của người chinh phụ thể hiện sự cô đơn khi chồng đi chiến trận, với sự miêu tả tinh tế của hai tác giả. Đoạn trích 'Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ' thể hiện rõ nỗi cô đơn của người vợ nhớ chồng và nghệ thuật miêu tả tâm trạng xuất sắc của Đặng và Đoàn, đặc biệt là nghệ thuật diễn Nôm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.
Đoạn trích 36 câu thơ trong tổng số 408 câu của tác phẩm là sự thể hiện của nỗi đơn côi và trống vắng của người chinh phụ. Tình cảnh được miêu tả bằng hình ảnh tấm rèm và bóng đèn, tạo nên không gian chật chội và cảm giác tù động. Cuộc sống của người chinh phụ trở nên như mất hết sinh khí, chỉ còn là 'bóng người' trống rỗng, là hiện thân của kiếp hoa đèn tàn lụi. Cảnh vật và thời gian trở nên tang thương, vô cảm, không dễ nắm bắt.
Nỗi đơn côi và tuyệt vọng của người chinh phụ được thể hiện qua các từ ngữ như 'khắc chờ đằng đẵng', 'mối sầu dằng dặc', thể hiện sự chờ đợi mòn mỏi và mối sầu trào dâng như biển lớn. Cảnh vật xung quanh cũng trở nên lạnh lùng, buồn tẻ, không có sự sống. Người chinh phụ nhìn nhận cuộc sống xung quanh mình như một ảo giác, nơi không gian và cảnh vật trở nên vô tri vô giác, không có sự hô ứng với tâm tư của người phụ nữ đang chờ chồng.
Đoạn kết thể hiện tâm trạng so sánh khi người chinh phụ nhìn cảnh hoa nguyệt, trách lòng bâng khuâng xót xa cho thân phận lẻ loi trước cảnh nguyệt hoa. Cảnh vật như tách khỏi con người, không có sự sống, tất cả chỉ là cảnh vật lạnh lùng, đối lập với tâm tư và hình ảnh của người chinh phụ. Tất cả điều này làm nổi bật tình trạng lẻ loi và tuyệt vọng của người phụ nữ chờ đợi chồng.
Trong ngôn ngữ nghệ thuật, thể thơ song thất lục bát kết hợp giữa hình ảnh và âm điệu tạo ra bức tranh buồn thương, nối dài không dứt. Sự kết hợp của hai câu thất và hai câu lục trong mỗi đoạn tạo nên nhịp thơ trầm buồn, đầy cảm xúc. Tác phẩm diễn Nôm không chỉ giữ lại hệ thống từ Hán Việt mà còn nâng cấp, Việt hoá những ý tưởng từ nguyên tác, làm giàu thêm nghệ thuật thơ.
Chinh phụ ngâm thực sự là tiếng kêu thương của người phụ nữ chờ đợi chồng chiến trận, là lời kể về tình cảnh lẻ loi, đơn côi và tuyệt vọng giữa những thời điểm chiến tranh khốc liệt. Tác phẩm này không chỉ là một bức tranh về tình cảm gia đình mà còn là bức tranh về những khát khao, hy vọng và niềm tin của người phụ nữ trước thách thức khó khăn của cuộc sống.
Chinh phụ ngâm đã mở ra khả năng thảo luận sâu sắc hơn về tâm hồn con người, đồng thời khẳng định những giá trị nhân văn cao cả trong văn học dân tộc, đánh dấu bước tiến quan trọng của văn chương Việt Nam thế kỷ XVIII.
7. Phân tích đoạn trích 'Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ' số 6
Trong xã hội phong kiến ngày xưa, nhiều tác phẩm đã ghi lại nỗi khổ tâm của phụ nữ, vợ phải chồng xa chiến trận. Những đau đớn, dằn vặt không lời, chỉ giữ trong lòng. Trong văn học thế kỉ XVIII, không thể không nhắc đến 'Chinh phụ ngâm khúc' của Đặng Trần Côn và nghệ thuật diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm.
'Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng báo tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?'
Mở đầu là bốn câu thơ lục bát, làm người đọc suy ngẫm về nỗi lo ấu của người phụ nữ, trông ngóng tin chồng từ chiến trận. Nỗi nhớ thương của người vợ, bóng dáng lẻ loi trong bức rèm. Mỗi đêm, nàng ngồi bên đèn, chờ tiếng kêu của những con chim thước từ chiến trường. Nhưng tin lành không đến. Đèn ấm áp, nhưng trái tim nàng lạnh lẽo, chờ đợi người thương.
'Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa'
Hai câu thơ so sánh thời gian đối với người chinh phụ, như những ngày không gặp nhau, biển bạc đầu thương nhớ. Tình yêu xa xăm, như đại dương mênh mông không bến bờ. 'Tựa miền biển xa' như tình yêu ngang trái, dằng dặc.
'Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại ngùng'
Bốn câu thơ, ba dòng 'gượng'. Nàng gượng soi gương, gượng đốt hương, gượng gảy đàn. Nhưng vẻ đẹp và âm nhạc không còn ai lắng nghe. Những phím đàn ngại ngùng, tình yêu nhưng xa cách nghìn khơi.
'Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời'
Nàng gửi tình cảm cho gió Đông, liệu có đưa đi đến chàng, kể lời thương yêu. Nỗi nhớ nàng, cao tựa đường lên bầu trời. Khi nào chàng trở về?
'Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người tha thiết lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun'
Cuối cùng, nhịp thơ chậm, tiếng vọng ai oán, đọng trong cây cỏ. Nỗi buồn, người chinh phụ không còn niềm vui. Mọi thứ ảnh hưởng bởi tâm tư của nàng, như nỗi nhớ 'đau đáu' cho chồng bị cuốn vào chiến tranh.
Tóm lại, 'Chinh phụ ngâm khúc' nói về tình yêu, thương yêu chung thủy, nhưng cũng lên án chiến tranh phi nghĩa, làm tan nát gia đình. Tác phẩm phản ánh ý thức về cuộc sống, khao khát bảo vệ hạnh phúc gia đình, để lại dấu ấn riêng trong văn học thế kỉ 18.
8. Phân Tích Đoạn Trích 'Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ' Số 9
Văn hóa nhân đạo là nguồn cảm hứng không ngừng trong văn học dân tộc. Đặc biệt, trong giai đoạn cuối thế kỉ 18 - đầu thế kỉ 19, Việt Nam trải qua những biến cố lịch sử mạnh mẽ, với nhiều cuộc nổi dậy nông dân chống lại chế độ phong kiến, đe dọa đến quyền sống và hạnh phúc con người. Trong giai đoạn này, hình ảnh người phụ nữ xuất hiện rộng rãi trong tác phẩm của nhiều tác giả. Đặc biệt, 'Chinh phụ ngâm' của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm nổi bật. Người phụ nữ chinh phụ, sau khi tiễn chồng ra trận và tưởng tượng về chiến trường đầy bi thương, lo lắng cho chồng và ái ngại cho tình cảnh của chính mình. Cảm xúc ấy được thể hiện sâu sắc qua đoạn trích:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
...
“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Người chinh phụ đành trở về, thấm thía nỗi vô vọng của mình. Bóng người là hình ảnh người phụ nữ đơn độc, héo úa trong canh lẻ loi. Hình ảnh này gợi nhớ đến chiếc bóng của Vũ Nương, nhưng người chinh phụ không có ai an ủi, chỉ có đèn và cuộc trò chuyện với chính mình. Nỗi cô đơn, sầu muộn của người chinh phụ thể hiện qua từng đoạn thơ:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
...
“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.”
Đoạn trích đã tận dụng ngôn từ và hình ảnh phong phú để thể hiện đầy đủ cung bậc cảm xúc của người chinh phụ trong cuộc sống khó khăn và đau buồn. Tác phẩm không chỉ là sự sáng tạo về mặt nghệ thuật mà còn là lời tố cáo chiến tranh và kêu gọi tình yêu chân chính. 'Chinh phụ ngâm' cùng với những tác phẩm khác như 'Cung oán ngâm' của Nguyễn Gia Thiều, 'Tự tình' của Hồ Xuân Hương sẽ luôn là những tác phẩm quý giá trong văn học dân tộc với đề tài về người phụ nữ.
9. Phân tích đoạn trích 'Tình cảnh cô đơn của người chinh phụ' số 8
Đặng Trần Côn, một nhà văn tài năng, đã khắc họa một cách tinh tế những cảm xúc và tâm trạng của những người phụ nữ khi đối mặt với sự cô đơn và buồn tủi. Những hình ảnh này hiện hữu rõ nét trong tác phẩm của ông, đặc biệt là cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
Những người phụ nữ bị cô đơn khi chồng họ bước ra chiến trường xa xôi, đưa đến biểu cảm sâu sắc và thấu hiểu về tâm hồn của họ. Hình ảnh những người phụ nữ đơn chiếc trước khi chồng họ ra đi, ánh sáng soi bóng lên những chiếc cô đơn, đưa tâm hồn chúng ta đắm chìm trong biển cảm xúc. Đoạn văn đầu tiên của tác giả tập trung vào tâm trạng và cảm xúc của những người phụ nữ:
Lang thang lặng lẽ trên từng bước,
Ngồi bên rèm mỏng, nhìn sâu vòm.
Ngoại kia, rèm mỏng gió thoảng,
Trong rèm, có đèn, liệu đèn có biết không?
Đèn có hiểu hay chỉ là nguyên chất?
Thiếp thiếp nói lời chẳng nên lời,
Hoa đèn và bóng người, đôi bạn thân!
Trước mặt những không gian trống lạnh, tâm trạng của người đang trải qua những bước đau đớn và cô đơn, đó là những cảm xúc chân thực và dày đặc về tình yêu và nhớ mong. Trước rèm mỏng thoảng những cảm giác buồn bã, và những cảm xúc sâu sắc về con người. Một lần nữa, tác giả nhấn mạnh vào nguồn cảm hứng của mình, là những cảnh thiên nhiên xa xôi, màu sắc chạy nước ròng trong lòng người, tận hưởng những cảm xúc của con người. Trong những khung cảnh đó, sự cô đơn trải dài, và trong cái không gian đó, người phụ nữ phải đối mặt với những cảm giác đau khổ và lẻ loi nhất, là những cảm xúc mạnh mẽ và da diết nhất, là những tình cảm thấu hiểu và thấu cảm của con người, luôn phải chịu đựng trong những bóng nguyệt không cảm xúc. Tình người đang bị ánh đèn cô đơn, lẻ loi khuất bóng con người, những cảm giác đó, con người chỉ có thể làm bạn với chính bóng mình, trong hình ảnh của người chinh phụ, những bóng đèn và bóng người vẫn đang trải qua những tâm hồn và đau khổ của sự chờ đợi cô đơn của những người phụ nữ. Bao nhiêu cảm xúc đan xen và trào dâng trong tâm hồn, những tình cảm đó mạnh mẽ và dạt dào nhất, tác giả đã tập trung vào tâm trạng và cảm xúc của mỗi người phụ nữ:
Hương gượng đốt hồn đà mê mại,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Tâm hồn của những người phụ nữ đang rơi vào những nỗi nhớ, và nhìn thấy bản thân mình trong chiếc gương, những giọt lệ lăn trên khuôn mặt, cầm đàn mà gẩy nhưng tâm trạng đang chịu nặng, những dòng cảm xúc đó đang khắc sâu và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với từng độc giả, về cảm xúc và tâm trạng của những người phụ nữ. Trong bao nhiêu cung bậc tình cảm đó, nỗi lòng thầm kín chỉ muốn dành tặng cho những người luôn mong mỏi và đến ngày được gặp lại những vị tiên non, gửi theo gió biết bao nhiêu lời thương:
Những tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!
Những hình ảnh cô đơn, mang những dòng cảm xúc đặc sắc và đau lòng của những người phụ nữ, như chiếc bóng cô đơn, in dấu trong những nỗi đau xé lòng về tâm trạng của họ. Hình ảnh người thiếu phụ đơn chiếc trong bóng cô đơn và lẻ loi, điều đó làm chúng ta cảm thấy buồn bã và tủi hờn nhất.
10. Phân tích đoạn trích 'Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ' số 10
Trái ngược với thời kỳ đầu của văn học trung đại, nơi cảm hứng được đặt vào việc ca ngợi lòng anh hùng, tinh thần chiến đấu của toàn dân, thế kỷ 18 và 19, khi xã hội phong kiến đối mặt với những khó khăn nặng nề do chiến tranh nội bộ liên miên, cướp đi sự yên bình của nhiều gia đình, văn học nổi lên với tinh thần nhân đạo, thay vì chỉ trình bày về quyền sống của con người. Trong số đó, 'Chinh phụ ngâm' của Đặng Trần Côn, dịch bởi Đoàn Thị Điểm, là một tác phẩm nổi bật. T
ác phẩm này là một điểm sáng trong cách diễn đạt về tâm trạng nhân văn, đặc biệt là đoạn trích: “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.” Đoạn trích này, đánh dấu sự hiện hữu của nỗi đau buồn và cô đơn vô tận trong tâm hồn người chinh phụ sau những ngày chồng xa.16 câu thơ đầu tiên mang đến cảm giác u sầu không lẽ trong sự cô đơn vô tận của người chinh phụ.
Nàng trở về nhà với bốn bức tường hẹp, nơi cô đơn và nhớ nhung chiếm trọn tâm hồn. Nỗi nhớ và lo âu khi nghĩ về chồng ở chiến trận tràn ngập trong tâm hồn nàng. Nàng ái ngại cho tương lai “một thân nuôi già dạy trẻ” và tâm sự về cuộc sống cô đơn. Đoạn trích này là bức tranh rõ nét, sâu sắc về tâm trạng của người chinh phụ.
Tiếp theo, sau buổi tiễn đưa, tâm trạng của nàng được diễn đạt rất sâu sắc qua 16 câu thơ đầu. Nàng chia sẻ về nỗi buồn lẻ loi, mối lo sợ cho chồng và tâm trạng cô đơn khi phải sống một mình. Điều này thể hiện sự đau khổ và hoàn cảnh khó khăn của người chinh phụ trong thời chiến.
Tiếc nuối về những cuộc hẹn hò không thành, lo lắng về tương lai và sự cô đơn khi phải sống một mình, tất cả được thể hiện qua những câu thơ sâu sắc và chân thành. Trong nỗi buồn, nàng nhớ về người chồng xa xôi và ngày càng khao khát được gửi lời nhớ thương đến nơi xa xăm, nơi người chồng đang ở.
“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn càng xin gửi đến non Yên.”
Đây là sự toàn tâm toàn ý, tình cảm thủy chung, tròn đầy và vẹn nguyên nhất được bồi đắp bấy lâu của chinh phụ. Đoạn thơ này truyền đạt khát khao được chia sẻ và gửi lời nhớ đến nơi xa xôi, nhưng cũng thể hiện sự vô vọng khi người chinh phụ không nhận được phản hồi.
“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.”
Không gian và thời gian ngăn cách tạo ra khoảng cách ngày càng lớn, nhưng nỗi nhớ trong lòng người chinh phụ vẫn sâu đậm, không thể hiểu hết bởi khoảng cách vô hình. Thực tế và hư cấu hòa quyện, nhưng người chinh phụ vẫn đối diện với sự vô vọng.
“Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi.”
Bức tranh mô tả cảnh đêm lạnh lẽo, cô đơn của người chinh phụ khi nhìn những cảnh vật quen thuộc, nhưng nó lại trở nên ảm đạm và thê lương trong tâm hồn nàng. Nội tâm và bên ngoài giao động, tạo nên một tác phẩm văn học đậm chất nhân văn và bi thương.
“Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng…”
Người chinh phụ, trong những khoảnh khắc hưng phấn, tìm thấy hình ảnh hoa nguyệt, nhưng nó lại chỉ là sự gặp gỡ ảo giác. Mặc dù đôi khi khát khao được gặp nhau nhưng thực tế là nỗi đau trong lòng vẫn còn, không thể giải thoát. Đoạn trích thể hiện sự tương phản giữa khát khao và hiện thực, làm cho người chinh phụ đối mặt với nỗi đau lẫn sự hy vọng.
Đoạn trích nhỏ này trong 'Chinh phụ ngâm' không chỉ thể hiện tâm trạng của người chinh phụ mà còn là bức tranh của một thời kỳ lịch sử đau khổ. Tình cảm và tâm trạng được diễn đạt qua ngôn ngữ sâu sắc và chân thành, làm cho tác phẩm trở nên thấm thiết và gần gũi với độc giả.