1. Vấn đề về Giấc ngủ
Giấc ngủ đóng vai trò quan trọng trong đời sống, giúp con người được nghỉ ngơi sau những thời gian làm việc và học tập. Mất ngủ là một vấn đề phổ biến có thể bao gồm ngủ không sâu giấc, khó đi vào giấc ngủ, thức dậy quá sớm và không thể quay lại giấc ngủ, gây ảnh hưởng lớn đến hiệu suất làm việc và chất lượng cuộc sống.
Trung bình mỗi người cần ngủ 7-8 tiếng/ngày, đảm bảo giấc ngủ đủ thời gian, sâu và thảnh thơi sau khi thức dậy. Mất ngủ có thể kéo dài hoặc cấp tính, ảnh hưởng không chỉ đến người già mà còn ở những người trẻ do nhiều nguyên nhân. Thay đổi thói quen hàng ngày có thể giúp cải thiện giấc ngủ cho nhiều đối tượng.
2. Rối loạn tâm thần do rượu
Bệnh Rối loạn Tâm thần do Rượu bao gồm các bệnh như nhiễm độc rượu, loạn thần do rượu, hội chứng cai rượu,... Hiện nay, số người nghiện rượu ở nước ta ngày càng tăng nên số bệnh nhân bị rối loạn tâm thần do rượu cũng tăng lên đáng kể. Bệnh thường gặp ở độ tuổi 30 - 50 tuổi. Những triệu chứng của bệnh có liên quan trực tiếp đến rượu. Người bị rối loạn tâm thần do rượu thường kèm theo một số bệnh cơ thể khác như suy kiệt, thiếu máu, viêm gan, xơ gan, viêm dạ dày,...
Rối loạn tâm thần gồm các ảo giác kéo dài, chủ yếu là ảo thị, ảo thanh, không có mê sảng, thường xuất hiện trong vòng 2 ngày khi những người lệ thuộc rượu ngưng uống rượu. Loạn thần rượu có thể kéo dài mãn tính và bệnh cảnh lâm sàng gần giống tâm thần phân liệt. Đây là trạng thái hiếm gặp, tỷ lệ mắc của nam/nữ là 4/1, thường gặp ở những người có tiền sử uống rượu trên 10 năm.
Rượu có khả năng ức chế hệ thần kinh, gây dung nạp chéo. Với nồng độ rượu 0,05% trong máu, quá trình suy nghĩ và phán đoán sẽ trở nên lỏng lẻo hoặc ngưng trệ. Ở nồng độ rượu 0,1% trong máu, các cử động tự ý trở nên vụng về. Ngộ độc rượu khi nồng độ rượu trong máu ở mức 0,1 - 0,15%. Ở nồng độ 0,2%, chức năng toàn bộ vùng vận động của não bị ức chế. Ở mức 0,3%, người bệnh bị lú lẫn và hôn mê. Từ 0,4 – 0,5%, bệnh nhân rơi vào hôn mê. Rượu có thể gây rối loạn tâm thần. Rối loạn tâm thần do sử dụng rượu có thể do ngộ độc rượu cấp tính hoặc do ngộ độc rượu mạn tính (nghiện rượu).
3. Stress và Tình trạng Suy nhược Thần kinh
Suy nhược thần kinh là tình trạng rối loạn chức năng của não bộ và một số trung khu nằm dưới vỏ não do làm việc quá tải hay chịu nhiều áp lực, căng thẳng dẫn đến suy nhược. Suy nhược thần kinh xảy ra mọi lứa tuổi ở nam và nữ. Suy nhược thần kinh nếu không được khắc phục và điều trị kịp thời sẽ gây ra hệ lụy khôn lường như trầm cảm, mất trí nhớ, rối loạn thần kinh, tâm thần...
Nếu bạn còn trẻ tuổi, chắc chắn căn bệnh suy nhược thần kinh đang ảnh hưởng tới cuộc sống, tương lai còn đang dang dở. Bạn vẫn còn phải đi làm, lo cho vợ chồng, con cái… Nhưng từ khi mắc căn bệnh suy nhược thần kinh, bạn chưa từng được hưởng cuộc sống trọn vẹn, thậm chí còn là lỗi lo lắng cho chính bản thân và gia đình. Nếu bạn ở độ tuổi ngoài 50, đáng nhẽ phải có một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc bên con cháu. Thế nhưng, căn bệnh suy nhược thần kinh lại trở thành gánh nặng cho con cái, phục vụ bạn từng bữa ăn, giấc ngủ, sinh hoạt hàng ngày cần có người bên cạnh.
4. Thách Thức Tâm thần Phân liệt
Tâm thần phân liệt là một loại bệnh tâm thần nặng. Nhiều bệnh nhân bị bệnh từ khi còn rất trẻ và kéo dài suốt cả cuộc đời. Biểu hiện của tâm thần phân liệt là những ý nghĩ sai lệch, không phù hợp của người bệnh, người khách không thể giải thích cho người bệnh hiểu được khi nào là đúng, sai. Người bệnh tâm thần phân biệt thường có hoạt động kỳ dị, lạ lùng do hoang tưởng, cảm xúc nghèo nàn.
Trong thời gian bị bệnh, bệnh nhân thường trở nên xa lánh những người khác, ít nói chuyện với người thân, trở nên trầm tư, lo âu hoặc hay sợ hãi, thậm chí là hoang tưởng nặng. Các triệu chứng cơ bản của tâm thần phân liệt bệnh học: Hoang tưởng, ảo giác (ảo thanh), rối loạn suy nghĩ,... Bệnh thường kèm theo một số triệu chứng khác ít đặc trưng hơn.
Hiện nay cứ trong 100 người dân thì có 1 người mắc bệnh này. Bệnh tâm thần phân liệt có thể biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau nhưng đều có chung đặc điểm là ảnh hưởng đến các hoạt động tinh thần và về lâu dài có thể làm thay đổi nhân cách của người bệnh. Tâm thần phân liệt thường bắt đầu ở những người trẻ và thường kéo dài suốt cả cuộc đời. Bệnh có tính khởi phát nhanh với các triệu chứng cấp tính xuất hiện trong vài tuần, hay có thể khởi phát chậm dần dần trong nhiều tháng, nhiều năm.
5. Tâm thần Rối loạn do Chất
Rối loạn sử dụng chất là một dạng rối loạn liên quan đến việc sử dụng chất, thường đi kèm với mô hình hành vi bệnh lý. Bệnh nhân tiếp tục sử dụng một chất mặc dù gặp phải những vấn đề lớn liên quan đến việc sử dụng chất đó. Có những biểu hiện sinh lý, ảnh hưởng đến hệ thống dẫn truyền của não bộ.
Những chất liên quan thường nằm trong danh sách 10 nhóm chất gây rối loạn liên quan đến sử dụng chất. Chúng kích thích hệ thống thưởng của não bộ, tạo ra cảm giác thoải mái. Hoạt động này có thể mạnh mẽ, khiến bệnh nhân thèm nhớ và bỏ qua các hoạt động thường ngày để sử dụng chất.
Các thuật ngữ như 'nghiện', 'lạm dụng', và 'phụ thuộc' thường được sử dụng, nhưng chúng không chắc chắn và có thể thay đổi. Rối loạn sử dụng chất mang tính toàn diện hơn và ít tiêu cực hơn.
6. Tâm trạng buồn
Tâm trạng buồn là một bệnh thuộc lĩnh vực tâm thần học, xuất hiện khi hoạt động của não bộ bị ảnh hưởng, tạo ra những biến đổi không bình thường trong suy nghĩ, hành vi và tư duy. Phụ nữ thường phải đối mặt nhiều với tâm trạng buồn hơn nam giới (2 nữ/1 nam), thường xuyên xảy ra ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là trong độ tuổi trưởng thành.
Tỉ lệ mắc bệnh tâm trạng buồn ngày càng tăng, và mỗi năm có khoảng 850,000 người tự tử do tình trạng tâm lý này trên toàn cầu. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 25% trong số họ được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Nếu không phát hiện và điều trị tâm trạng buồn kịp thời, nguy cơ tự tử tăng lên đáng kể, chiếm 50% tổng số người mắc bệnh. Người thân trong gia đình nếu nhận thấy biểu hiện trên cần đưa người đó đến bệnh viện chuyên khoa tâm thần để được khám và điều trị kịp thời.
7. Tâm lý bất thường
Tâm lý bất thường là một bệnh cảnh loạn thần xảy ra cấp tính và ngắn hạn, có thể có những triệu chứng tương tự như tâm thần phân liệt (ảo giác, hoang tưởng) nhưng thường nhẹ hơn. Bệnh có thể xuất hiện sau một tình huống căng thẳng tinh thần nặng hoặc một nhóm các tình huống căng thẳng. Thường gặp ở những người 20 - 30 tuổi, đặc biệt là những người thuộc tầng lớp kinh tế xã hội thấp.
Tâm lý bất thường và ngắn hạn là sự biến đổi từ một trạng thái không có những nét loạn thần sang một trạng thái loạn thần rõ rệt trong vòng hai tuần hoặc ngắn hơn, có thể kết hợp với căng thẳng hoặc không. Bệnh thường khỏi hoàn toàn trong vòng 2-3 tháng, thậm chí có thể khỏi trong vài tuần hoặc vài ngày, và chỉ có một tỷ lệ nhỏ số bệnh nhân có rối loạn này kéo dài dai dẳng và gây tật chứng.
8. Phát triển tâm thần chậm
Chậm phát triển tâm thần hay chậm phát triển trí tuệ có những mức độ từ nhẹ đến trung bình, nặng và rất nặng. Ở những thể nặng, bệnh chẩn đoán dễ dàng vì bệnh cảnh lâm sàng khá rõ nhưng can thiệp điều trị lại rất ít kết quả. Trẻ chậm phát triển tâm thần thể nặng và thể vừa đều có những biểu hiện yếu kém về mặt tư duy, cảm xúc, hành vi tác phong hoặc có những dị dạng cơ thể ở nhiều bộ phận.
Theo số liệu điều tra nghiên cứu của nhiều tác giả thì chậm phát triển tâm thần thể nặng chỉ chiếm 5%. Còn chẩn đoán Chậm phát triển tâm thần thể nhẹ thì khó vì bệnh cảnh lâm sàng nhiều khi không rõ ràng, dễ nhầm lẫn nó với giới hạn bình thường nhưng nó lại chiếm tới hơn 80%. Ở mức độ nhẹ này việc can thiệp bằng giáo dục, huấn luyện có thể giúp trẻ phát triển trí tuệ tốt hơn, hòa nhập tốt hơn vào môi trường xã hội.
Nhìn chung, điều trị chậm phát triển tâm thần đòi hỏi rất nhiều sự cố gắng và kiên nhẫn đối với trẻ. Do đó, gia đình khi có trẻ gặp phải tình trạng này, mỗi cha mẹ cần có sự ý thức và chu đáo hơn trong việc chăm sóc giáo dục trẻ kết hợp với các liệu pháp điều trị khác. Nếu các bậc cha mẹ thấy trẻ có dấu hiệu chậm phát triển tâm thần thì cần bình tĩnh và hãy đưa trẻ đến cơ sở y tế chuyên khoa Nhi để các bác sĩ kiểm tra. Tuỳ theo mức độ chậm nói và độ tuổi của trẻ các bác sĩ sẽ có can thiệp phù hợp để cải thiện tình trạng chậm phát triển ở trẻ.
9. Lo âu
Dẫu biết, lo âu cũng là một trong những trạng thái bình thường của con người. Thế nhưng nếu nó xuất hiện một cách dày đặc và rối loạn thì sẽ vô cùng nguy hiểm. Hội chứng loạn lo âu là bệnh lý khiến con người trở nên ám ảnh với các nỗi sợ hãi quá mức. Dù là các tình huống đơn giản, một khúc mắc vô lý cũng khiến người bệnh rơi vào trạng thái căng thẳng quá độ. Những người mắc phải hội chứng này sẽ thường sống trong tâm trạng lo lắng thái quá, stress kéo dài mà không rõ nguyên nhân. Đa phần những người mắc phải chứng rối loạn lo âu đều là nữ giới và không giới hạn độ tuổi.
Rối loạn lo âu bao gồm một số bệnh phổ biến như rối loạn lo âu lan tỏa, rối loạn ám ảnh cưỡng chế, rối loạn hoảng loạn, sợ đám đông,... Ở nước ta, số bệnh nhân mắc các bệnh rối loạn lo âu ngày càng tăng trong những năm gần đây. Theo một số thống kê, tỷ lệ bệnh nhân bị rối loạn lo âu chiếm 25% tổng số các bệnh nhân đến khám bệnh tâm thần. Lo âu kéo dài làm cho người bệnh cảm thấy mệt mỏi, mất tập trung, giảm trí nhớ, đôi khi dẫn đến một số bệnh khác như trầm cảm, bệnh tim mạch,mất ngủ,...
10. Rối loạn nhân cách
Rối loạn nhân cách là các mẫu hoạt động nhân cách ăn sâu dẫn đến các phản ứng cứng nhắc, mất uyển chuyển trong rất nhiều bối cảnh xã hội và giữa cá nhân dẫn đến các dạng khác nhau về đau buồn chủ quan và hư tổn hoạt động hay gây đau buồn cho các người khác liên đới với người đó. Người bệnh rối loạn nhân cách thường có tính khí thất thường, cô lập xã hội, khó kết bạn, kiểm soát kém suy nghĩ và hành vi,... Rối loạn nhân cách thường bắt đầu trở nên rõ ràng trong giai đoạn muộn ở độ tuổi vị thành niên hoặc giai đoạn đầu ở độ tuổi người lớn, và các đặc tính và các triệu chứng của chúng khác nhau đáng kể về mức độ kéo dài của chúng; nhiều trường hợp cần thời gian để giải quyết.
Rối loạn nhân cách tồn tại khi những đặc tính trở nên rõ ràng, cứng nhắc, và không thích nghi làm suy giảm chức năng tương tác cá nhân và/hoặc công việc. Những sự không thích nghi xã hội này có thể gây ra những khó chịu đáng kể với những người có rối loạn nhân cách và những người xung quanh họ. Đối với những người mắc rối loạn nhân cách (không giống như những người khác tìm kiếm đến sự tư vấn), nỗi đau khổ do hậu quả của hành vi không thích nghi xã hội của bản thân thường là lý do họ tìm kiếm đến sự điều trị, hơn là bất kỳ sự không thoải mái nào với những suy nghĩ và cảm xúc của họ. Do đó, đầu tiên bác sĩ lâm sàng phải giúp bệnh nhân nhận thấy rằng đặc tính nhân cách của họ là gốc rễ của vấn đề.