1. Trận Chọi Gà
Trong trận đấu này, Trạng Quỳnh phải đối mặt với các quan lại trong triều. Dù gà của Trạng không mạnh mẽ nhưng ông vẫn quyết định tham gia. Kết quả, gà của Trạng bị đánh bại vì đã bị thiến, khiến mọi người phải cười nhạo.
2. Thiết Chúa Đại Phong
Trong câu chuyện này, Trạng Quỳnh sử dụng một con dê đực chửa để hại một quan chức. Hành động này khiến quan chức phải rơi vào tình cảnh dở khóc dở cười.


2. Dê Đực Chúa...
Điều Bất Ngờ Về Cậu Bé Thần Đồng
Ở vùng Thanh Hóa, một sự kiện bất ngờ đã diễn ra khi cậu bé thần đồng từ vùng quê đã xuất hiện ở kinh đô.
Nhà vua muốn kiểm tra xem tin đồn về cậu bé có thật không, nên đã ra lệnh: Mỗi làng ở Thanh Hóa phải đem đến một con dê đực đang mang thai trong vòng hai tháng. Nếu sau hai tháng một làng nào không thực hiện được sẽ bị trừng phạt. Tin này khiến dân làng hoảng loạn và lo sợ.
Trong tình hình bất ổn này, cậu bé Quỳnh tại làng đã nảy ra một ý tưởng để giúp làng thoát khỏi nguy cơ. Anh ấy nói với bố mình:
– Đừng lo, bố ạ. Hãy yêu cầu mọi người chuẩn bị một lượng tiền và gạo, con sẽ tìm được con dê đực đang chửa cho làng.
Dù ông bố không tin, nhưng lại tin tưởng vào con. Vì không có lựa chọn nào khác, mọi người đành làm theo lời của Quỳnh.
Ngày hôm sau, hai cha con Quỳnh đã lên đường. Khi họ đến gần cung điện, nhà vua đi qua cánh cửa. Quỳnh đã đợi ở nơi đó và khi nhà vua đi ngang qua, anh đã bắt đầu khóc lớn. Nhà vua đã yêu cầu biết lý do và Quỳnh đã nói:
– Mẹ tôi đã mất từ lâu, nhưng bố tôi vẫn không chịu sinh em bé để tôi bế.
Nhà vua cười và nói:
– Đàn ông không thể sinh con được mà!
Quỳnh đã nói một cách nghiêm túc:
– Vậy mà nhà vua lại ra lệnh cho làng tôi phải đem dê đực chửa.
Nhà vua ngạc nhiên và hiểu ngay rằng đó chính là cậu bé từ Thanh Hóa mà mình đã nghe nhiều tin đồn từ trước.


Chúa Trịnh ngày nào cũng yến tiệc, ních đầy bụng những sơn hào, hải vị. Người ăn của ngon nhàm mồm đâm ra khó tính. Một hôm chúa khó ở, lưỡi se đắng, bụng ậm ạch. Nhân ngồi với Quỳnh, chúa phàn nàn:
– Ta ngẫm không còn thiếu thứ gì quý hiếm trên đời chưa thưởng thức. Quái lạ, thế mà vẫn chưa món nào làm ta thực sự cảm thấy ngon miệng. Điều đó là tại làm sao, Trạng nói ta hay?
– Quỳnh nói luôn: Thế chúa đã xơi món mầm đá bao giờ chưa?– Chúa lấy làm lạ: Món mầm đá thế nào, chắc ngon lắm phải không?
– Quỳnh đáp: Tuyệt trần đời. Nhưng muốn ăn mầm đá phải kỳ công.
– Chúa liền nằng nặc: Sợ gì công phu! Miễn là được ăn ngon. Nhất là lúc này, người đang mệt mỏi, ta đang rất cần ăn biết ngon. Trạng hãy mau chóng cho làm móm mầm đá kia đi!
– Ít lâu sau, vào tờ mờ sang. Quỳnh viết thiếp cho gia nhân mời chúa đến nhà thết tiệc mầm đá.
– Chúa đến nhà Trạng ngay từ mới rạng sáng. Đến khi mặt trời đứng bóng, vẫn thấy Quỳnh bận rộn lụi hụi dưới bếp, thỉnh thoảnh chạy ra, chạy vào, mồ hôi nhể nhại, khăn tay vắt vai, tay áo xắn đến khuỷu…Chúa nghĩ thầm “Đúng là món mầm đá kỳ công thật, nên Trạng mới phải ra tay đốc thúc nhà bếp tất tưởi như thế kia!”
– Quá ngọ, sang mùi, bụng chúa bắt đầu cồn cào. Quỳnh vừa ló mặt, chúa chép miệng, trách: Sao “mầm đá” lâu chín thế? Biết vậy thế này ta chẳng nhận lời đến nhà Trạng hôm nay.
– Quỳnh lấy khăn tay thấm mồ hôi trán khải rằng: Thần muốn chúa ngon miệng nên mới dụng công ninh “mầm đá” thật công phu. Xin gắng đợi chút nữa, sắp chín rồi…
– Một chốc chúa lại giục, Quỳnh lại khẩn khoản thưa: “Gắng đợi thêm một chút mầm đá không kỹ lửa, không ninh nhừ khó tiêu…”
– Mặt trời xế bóng vẫn chưa thấy món mầm đá được dọn ra. Mùi cá khô, lẫn mùi khói bếp bên mấy nhà vào bữa cơm chiều, làm chúa “Nhức lỗ mũi”, ứa nước dãi. Chúa đành gọi Quỳnh lên, chúa ngồi lù đù hóp bụng lại, thú thật: Ta đói lắm rồi, không đợi được nữa. Mầm đá để dành ăn sau cũng được. Bây giờ có thức gì dùng tạm, Trạng cứ cho mang lên!
– Quỳnh dạ một tiếng, vẻ miễn cưỡng rồi hét vọng xuống bếp: Cứ chất thêm củi vào nồi “mầm đá”! Hãy bưng cơm lên dâng chúa dùng cho qua loa đã chúng bay!
– Gia nhân dạ ran, rồi bê cái mâm lên. Bữa xoàng, có một phạng cơm với rau muống luộc, và một chiếc hũ sành.
Chúa thấy ngoài chiếc hũ dán mảnh giấy hồng điều đề hai chữ “đại phong”. Chúa ăn cơm rau chấm nước “đại phong” ngon lành, chỉ một loáng lại đưa bát cho Trạng xới tiếp. Chúa nghĩ bụng, chắc món này cũng quý hiếm đặc biệt, nên thấy Trạng giữ gìn chiếc hũ cẩn thận. Có lần rau đã hết nước chấm, mãi mới thấy Trạng cẩn thận đỡ miệng hũ, múc thêm mấy muôi nhỏ “đại phong” nữa… — Chúa ngắm nghía chiếc hũ lại nhìn Trạng. Này khanh, “đại phong” là món gì mà ngon lạ như vậy?
– Khải chúa, đây chỉ là món thường nhật của con nhà trong làng.
– Chúa không tin: Hai chữ “đại phong” là nghĩa thế nào?
– Quỳnh tủm tỉm cười: Nhà chúa nhìn được mặt chữ, tự giải lấy, khắc rõ.
– Chúa lẩm bẩm: Đại phong tức là gió lớn, phải không?
– Quỳnh gật đầu, hỏi tiếp: Vậy gió lớn thì làm sao?
– Chúa bối rối như học trò không thuộc bài, nhìn Trạng.
– Quỳnh giảng giải: Gió lớn ắt đổ chùa!
– Trạng lại tiếp, hỏi dần: Đổ chùa thì làm sao?
– Chúa càng ấp úng. Quỳnh nói: Đổ chùa thì sư, vãi bỏ chạy, xôi oẵn mất hết… Của ngọc thực rơi vãi hết thì ông bụt nào cũng phải lo… Tượng lo thì làm sao?
– Trạng hỏi, đáp, dồn dập, liên hồi. Chúa chỉ còn biết ngồi trơ ra như phỗng. Hồi lâu, Quỳnh mới chịu khẽ khàng cắt nghĩa: Đến trẻ con cũng biết đọc ngược thì “tượng lo” là “lọ tương”. Khải chúa, thứ tương đỗ này không cao sang đâu, chẳng qua chúa quên mất những miếng ngon lành ở làng xóm rồi. Nay thần bày cách ninh “mầm đá”, chẳng thể đun được nhừ, đợi đến bao giờ cũng không có thể ăn được. Chúa cứ ngồi cho bụng thật đói, miệng thật thèm, bấy giờ chỉ cần lấy lưng cơm với món “đại phong” xoàng xĩnh này, chúa thấy ngon miệng.
– Chúa Trịnh bừng tĩnh trước một sự thật ngay bên mình… Chúa đứng dậy, cảm ơn Trạng, ra về.


Lúc Quỳnh còn là học trò nhà nghèo, phải ra đền Sòng xin cấy rẽ. Đền Sòng quê ông là nơi thờ Bà Chúa Liễu nổi tiếng rất linh thiên, không ai là không kinh sợ. Chúa Liễu có nhiều ruộng và bà cũng cho cấy rẽ để lấy lợi. Lần ấy, Quỳnh vào đền khấn mượn đất xong thì khấn quẻ âm dương hỏi Chúa là bà lấy gốc hay lấy ngọn trong vụ thu hoạch tới. Lần đầu Chúa bảo lấy ngọn, thế là vụ ấy Quỳnh trồng khoai lang. Đến khi khoai đã có củ, đào khoai xong, Quỳnh đem hết củ về nhà còn bao nhiêu dây khoai Quỳnh đem để đền bà chúa.
Lần thứ hai, xin âm dương, Chúa đòi lấy gốc để ngọn cho Quỳnh. Mùa ấy Quỳnh liền trồng lúa. Đến mùa gặt, Quỳnh cắt hết bông và đem gốc rạ trả cho Bà Chúa!
Chúa Liễu hai lần bị Quỳnh lừa, tức giận lắm xong đã trót hứa rồi, không biết làm thế nào được. Lần thứ ba, Quỳnh đến xin thì Chúa bảo lấy cả gốc lẫn ngọn, còn khúc giữa cho Quỳnh, Quỳnh giả vờ kêu ca:
– Chị lấy thế em còn gì được nữa!
Khấn đi khấn lại mãi, Chúa nhất định không nghe, Quỳnh về trồng ngô, đến kỳ bẻ ngô bao nhiêu bắp Quỳnh giữ lại, còn ngọn với gốc Quỳnh đem nộp cho Chúa.
Chúa mắc mưu Quỳnh ba lần, đòi lại ruộng, song trong ba vụ ấy, Quỳnh đã kiếm cũng được cái vốn kha khá rồi.


5. Đầu lớn như cái bồ
Kể chuyện rằng khi Quỳnh còn bé, chỉ mới bảy tám tuổi, đã tỏ ra thông minh khôn lớn nhưng cũng là một đứa trẻ tinh nghịch. Lúc ấy, bọn trẻ thường chơi trò xước xác, sử dụng tàu chuối làm cờ, lá sen làm lọng. Trong các trò chơi đó, Quỳnh luôn luôn chiếm ưu thế.
Một đêm mùa thu, ánh trăng sáng vằng vặc, Quỳnh đang chơi với bọn trẻ ở sân nhà, Quỳnh nói:
– Hãy làm kiệu cho tao ngồi, tao sẽ dẫn mọi người đi xem một người có cái đầu to bằng cái bồ!
Bọn trẻ tin tưởng, liền tranh nhau làm kiệu để rước Quỳnh đi vòng quanh sân, mệt hơn muốn chết. Khi kết thúc, bọn chúng yêu cầu Quỳnh phải giữ lời hứa. Khi đó trăng đã lặn, Quỳnh nói:
– Các bạn đứng đợi ở đây, tôi sẽ đi đốt lửa soi để mọi người có thể nhìn rõ hơn!
Bọn trẻ nhỏ hơi sợ, không dám ở lại, chỉ có những đứa lớn hơn, dũng cảm đứng chờ đợi. Quỳnh thắp lửa, sau đó nhìn chằm chằm vào vách, bảo:
– Nhìn kìa, trên vách đó. Cái đầu lớn bằng cái bồ đó!
Mọi người đều nhìn và kinh ngạc, thấy bóng đầu của Quỳnh trên tường to bằng cái bồ thực sự. Bọn trẻ nhận ra Quỳnh đang trêu đùa, quay lại bắt Quỳnh làm kiệu đền, nhưng Quỳnh nhanh chóng chạy vào phòng và đóng cửa lại, kêu lớn. Ông bố tưởng là bọn trẻ đánh nhau, cầm roi ra mắng, bọn trẻ hoảng sợ và chạy tán loạn.


6. Sự Học Trò Thông Minh
Hồi đó, Quỳnh đã lớn lên một chút, là một thiếu niên sắp trưởng thành. Trên đường trở về từ phủ, khi khát nước, Quỳnh đã ghé vào một quán nước ven đường. Trong quán, có một quan toát mặt, ngồi nhai trầu bỏm bẻm. Bên cạnh, có một lính vệ đứng canh gác. Khi quan nhai xong, vứt bã trầu xuống đất.
Quỳnh đang ngồi uống nước, thấy bã trầu vứt xuống đất, liền bước lại nhặt lên, nhìn như muốn tìm kiếm cái gì đó, rồi đút vào túi.
Quan thấy lạ, hỏi:
– Con là ai? Làm gì thế?
Quỳnh tỏ ra lúng túng:
– Con là một học trò nghèo, thường nghe mọi người nói “Miệng nhà quan có gang có thép”, nên muốn nhặt lên xem thử có đúng không ạ?
Quan biết mình bị chọc tức, lại không biết tên học trò này là Quỳnh, liền nói:
– Nếu con là học trò, thì con phải trả lời câu tục ngữ mà con vừa nói đó, nếu đúng thì ta thưởng, nếu sai thì ta đánh. Nhớ kỹ, câu tục ngữ phải trả lời bằng câu tục ngữ, nghe hiểu chưa?
Quỳnh giả vờ ngượng ngùng, bảo:
– Con sợ bị coi là xấc xược… Không dám trả lời ạ.
Quan nghĩ học trò này đang lỡ làm, liền nói:
– Tốt, con nói đi, nếu không trả lời được thì nằm dưới để ta đánh cho đỡ lâu.
– Được ạ. Con sẽ trả lời ngay, xin phép quan!
Quỳnh tự tin đọc câu tục ngữ:
– “Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm.”
Quan nghe xong, mặt trở nên xám xịt như tro bếp. Câu tục ngữ mà Quỳnh đọc lại chính là một câu tục ngữ, không thể nào chê trách được.
Thấy không thể ngồi lâu, quan giao cho lính vệ ra đi, quên mất lời hứa thưởng tiền cho học trò nghèo.
Chẳng bao lâu sau, câu chuyện trở nên nổi tiếng khắp nơi. Quan kia cảm thấy xấu hổ vì đã làm cười cho mọi người còn Quỳnh lại trở nên nổi tiếng như một thiên tài.


7. Sự Thông Minh Của Quỳnh
Một lần, chúa tỏ ra căm ghét Quỳnh. Đã mười ngày, chúa muốn Quỳnh đến dự yến tiệc, dự định hạ độc để hại Quỳnh. Quỳnh hiểu chúa căm phẫn về những việc trước đó, lần này khi chúa mời vào yến tiệc, chắc chắn là có ý đồ. Trước khi đi, Quỳnh dặn vợ con rằng:
– Hôm nay ta vào dự yến tiệc của chúa, lành ít, dữ nhiều. Nếu có việc gì xảy ra, ta không được phát tang ngay lập tức, mà phải ngồi trên võng, cầm hai cái quạt hầu, sau đó gọi nhạc công về hát, đợi đến khi chúa phát tang thì mới tiến hành phát tang ngoài sân.
Sau khi dặn xong, Quỳnh lên võng.
Khi Quỳnh đến cung, chúa đã ngồi đợi sẵn. Chúa nói:
– Lâu rồi không thấy mặt, lòng ta nhớ mong. Hôm nay, khi có người đem hải sản lên, ta liền nhớ đến ngươi, đề nghị ngươi đến dự yến tiệc, nhưng ngươi không từ chối.
Quỳnh biết chúa đang nghĩ về sự việc của cây cải màu nhiều hôm trước, không thể từ chối. Sau khi nếm một miếng, chúa hỏi:
– Ngày nào Quỳnh sẽ chết?
Quỳnh trả lời:
– Khi nào chúa băng hà, thì Quỳnh cũng sẽ chết theo.
Sau khi ăn xong, Quỳnh cảm thấy không khỏe, xin phép rời đi. Ngay khi về đến nhà, Quỳnh qua đời. Vợ con thực hiện đúng như Quỳnh dặn. Chúa sai một người kiểm tra xem Quỳnh có vấn đề gì không, nhưng thấy Quỳnh nằm trên võng, nghe nhạc công hát, còn gia đình vui vẻ như bình thường, chúa quyết định hỏi đầu bếp xem có gì sai sót trong việc pha thuốc không mà Quỳnh lại không gặp vấn đề gì.
Chúa thử ăn, chỉ một lát sau, chúa lăn ra chết.
Khi nghe tin trong cung chúa phát tang, nhà Quỳnh cũng phát tang. Chúa và Trạng đều qua đời trong một ngày. Lúc này, mọi người mới biết Quỳnh đã lừa được chúa đến cùng cực. Người sau này có câu thơ nói về sự việc này:
“Trạng chết chúa cũng băng hà
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn”.


8. Sự Kỳ Diệu Của Trạng
Trong làng Quỳnh có một ông lão giàu có. Ông này không giỏi văn học nhưng lại thích học hỏi về những điều cao quý, thỉnh thoảng ông đến nhà Trạng, yêu cầu mượn sách. Tuy nhiên, dù có mượn được sách về nhưng ông cũng không đọc hiểu gì. Trạng tức giận, một lần, thấy ông lòe loẹt đứng ở cổng, Trạng vội vã mang chiếc chõng tre ra sân, cởi áo nằm phơi bụng. Ông lão giàu có bước vào và hỏi:
– Ông đang làm gì vậy?
Trạng đáp:
– À! Không có gì đâu! Hôm nay trời nắng, tôi đang phơi sách để không bị ẩm mốc
– Sách ở đâu?
Trạng chỉ vào bụng mình và nói:
– Sách đầy trong cái này!
Biết mình bị trêu, ông lão giàu có lặng lẽ rời đi.
Một lần khác, ông lão mời Trạng đến nhà. Để dành lại danh dự, ông lão bắt chước, nằm trần giữa sân chờ khách…
Khi Trạng bước vào, ông lão bắt đầu bắt chước…
– Hôm nay trời nắng, tôi nằm phơi sách để không bị ẩm mốc
Đột nhiên, Trạng cười phá lên, đưa tay vỗ vào cái bụng mập mạp của ông lão và nói:
– Bụng ông đây chứa đầy những thức ăn ngon mà chưa tiêu hết, phải phơi để không thối, chứ không phải sách!
Ông lão giàu có nhăn nhó và ngạc nhiên:
– Làm sao ông biết được vậy?
Trạng lại cười lớn, lắc lắc cái bụng mập của ông lão và nói:
– Ông nghe thấy không? Bụng ông đang kêu “Ong óc” đấy! Tiếng cơm, tiếng gà, tiếng cá, tiếng lợn… Không phải tiếng chữ, tiếng sách đâu. Hãy ngồi lên và mặc áo, vào nhà đi.
Ông lão giàu có lặng lẽ tuân theo lời Trạng và ngồi tiếp khách với tâm trạng không vui.


9. Mưu Mẹo Của Quỳnh
Từ bé, Quỳnh đã nổi tiếng thông minh và luôn trả lời nhanh nhạy. Trong làng, có ông Tú Cát tự cao tự đại, khoe rằng mình giỏi chữ. Quỳnh không ưa loại người như vậy. Một ngày, Quỳnh đang đứng xem đàn lợn ăn cám trong chuồng, Tú Cát đi ngang qua và gọi Quỳnh lại:
- Nghe đồn mày thông minh và giỏi đối đáp. Bây giờ ta sẽ đưa mày một câu đối, nếu mày không đối được, ta sẽ phải đánh mày. Nói xong, Tú Cát lên tiếng đọc câu đối mà mình tự suy diễn:
- Lợn cấn ăn cám tốn.
Tú Cát cho rằng câu này rất khó đối, với “cấn” và “tốn” là hai quẻ trong kinh Dịch. Quỳnh đáp lại ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn.
Câu đối này cũng chứa “khôn” và “càn” là hai quẻ trong kinh Dịch, đồng thời ám chỉ Tú Cát là chó. Tú Cát bị trêu chọc, tức giận, nói tiếp:
- Được! Ta sẽ đưa một vế nữa, mày phải đối lại ngay – và đọc – Trời sinh ông Tú Cát.
Quỳnh đáp ngay:
- Đất nứt con bọ hung.
Tú Cát tức giận nhưng không làm được gì, vì Quỳnh đối phó rất tài tình, ông chỉ biết rút lui một cách bất lực.


10. Trạng Quỳnh: Tay Vẽ Thần Thánh
Sứ Tàu sang ta vốn là người nổi tiếng về nghệ thuật vẽ. Một ngày, trước mặt vua và các quan triều thần, ông ta khoe với Trạng Quỳnh:
– Trạng, ngươi dám tham gia cuộc thi hoạ trước vua không? Chỉ cần nghe ba tiếng trống, nếu ngươi có thể vẽ xong một con vật, ta sẽ phục ngươi.
Quỳnh coi thường mỉm cười:
– Chỉ vẽ xong một con vật sau ba tiếng trống thì còn gì là đáng nể. Nếu chỉ vẽ xong một con, đó không phải là tài nghệ thực sự. Thế mà người cũng dám thách đố, không biết có người đến sau sẽ cười nhạo không.
Nghe vậy, Sứ Tàu tức giận, cho rằng Quỳnh nói khoe khoang, và đề nghị Quỳnh tham gia cuộc thi vẽ. Quỳnh chấp nhận một cách dứt khoát.
Cuộc thi bắt đầu.
Khi nghe tiếng trống đầu tiên vọng lên, Sứ Tàu bắt đầu vẽ ngay lập tức, trong khi Quỳnh thản nhiên ngồi đó mà không hề nhúng bút vào mực. Khi tiếng trống thứ hai vang lên, Quỳnh vẫn im lặng, không chú ý gì tới cuộc thi. Cho đến khi tiếng trống thứ ba vang lên, Quỳnh mới nhanh chóng nhúng mười đầu ngón tay vào mực và vẽ mười vệt dài trên giấy, tạo thành hình ảnh của mười con giun đất. Sau đó, Quỳnh đặt tác phẩm của mình trước mặt Sứ Tàu.
Sứ Tàu hỏi:
– Đây là con gì?
Quỳnh đáp:
– Đây là mười con giun đất, và giun đất cũng chính là rồng đất.
Trong khi đó, Sứ Tàu thậm chí chưa kịp hoàn thành một tác phẩm nào. Với trí tuệ và mưu mẹo của mình, Trạng Quỳnh đã giành chiến thắng. Sứ Tàu cảm thấy xấu hổ, hứa sẽ trả thù vào một ngày không xa. Sau đó, ông rời khỏi cuộc thi với bụng đầy tức giận.

