1. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 1
Nguyễn Du - nhà văn tài năng, là người góp phần nâng đỡ văn hóa chữ Nôm Việt Nam vươn lên từ thế kỷ XVIII với kiệt tác 'Truyện Kiều'. Sức cuốn hút của Kiều không chỉ đến từ tài năng văn chương của Nguyễn Du mà còn ở lòng nhân đạo sâu sắc dành cho người phụ nữ tài năng và bất hạnh. Cùng khám phá tâm hồn của Thúy Kiều qua 8 câu thơ cuối đoạn 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', nơi tâm trạng của nàng được tái hiện một cách sống động và cảm động nhất.
Đoạn trích nằm trong phần 'Gia biến và lưu lạc', khi Kiều quyết định bán mình để chuộc cha. Đây là bức tranh tình cảm đặc sắc, với những nốt nhạc của 'thiên bạc mệnh' vang lên. Một câu chuyện đau lòng bắt đầu, khi Kiều bị Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa dối, đẩy nàng vào lầu xanh. Nỗi đau và nhục nhã khiến Kiều cố gắng tự tử nhưng không thành. Tú Bà đưa Kiều đến lầu Ngưng Bích, hứa sẽ tìm chồng cho nàng trong một môi trường tốt. Tuy nhiên, trong bình yên bề ngoài, tâm hồn Kiều rối bời với hàng trăm lo âu. Một nỗi buồn sâu lắng hiện hình, khi phải xa cách người yêu, xa cách cha mẹ, mọi nơi đều mang đến nỗi buồn. Nguyễn Du tinh tế diễn đạt qua từng bức tranh tâm sự của Kiều, đặc biệt là tám câu thơ cuối 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'.
Bài văn này là minh chứng cho sự tài năng của Nguyễn Du trong nghệ thuật sáng tạo. Mời bạn đọc tham gia khám phá những bài văn xuất sắc nhất trong danh sách Top 18 này.


2. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 3
Nhìn vào những dòng thơ, ta cảm nhận được sự tài năng của Nguyễn Du trong việc diễn đạt tâm trạng, cảm xúc của Thúy Kiều một cách chân thực và sâu sắc. Bức tranh tinh tế về nhân vật và thiên nhiên đã làm cho đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' trở nên hết sức đặc sắc. Cảnh biển, thuyền, hoa, cỏ, gió, sóng, tất cả đều là những yếu tố góp phần tạo nên bức tranh đau đớn và buồn bã của Thúy Kiều. Đây không chỉ là bức tranh về ngoại cảnh mà còn là bức tranh về nội tâm đầy bi thương của một con người. Có lẽ, đoạn trích này đã làm nổi bật tài năng văn chương tuyệt vời của Nguyễn Du, người đã hiểu rõ và cảm thông sâu sắc đối với số phận con người.
Đoạn thơ không chỉ là lời kể về những biến cố trong cuộc đời Kiều mà còn là một loạt hình ảnh sống động, gợi mở tâm hồn độc giả. Sự lựa chọn từ ngôn ngữ đến hình ảnh mô tả, tất cả đều tạo nên một tác phẩm văn học đặc sắc. Trong những cảnh vật, Nguyễn Du đã tận dụng khéo léo để thể hiện tâm trạng kiến thức, nỗi đau buồn, và sự hoang mang của Thúy Kiều. Cuộc sống khó khăn, cảnh vật hiu quạnh, và những nỗi đau âm ỉ đều được biểu hiện qua những dòng thơ tinh tế. Có lẽ, đây là một trong những đoạn thơ làm nổi bật tài năng văn chương của Nguyễn Du, làm cho tác phẩm 'Truyện Kiều' trở thành một kiệt tác văn học.
Trong lòng Kiều, nỗi buồn như sóng biển bát ngát, những cảm xúc như những đợt sóng dữ dội. Tác giả không chỉ giỏi trong việc mô tả ngoại cảnh mà còn tài năng trong việc lồng ghép tâm trạng nhân vật vào cảnh vật. Sự 'bẽ bàng, chán ngán' không chỉ là của cô gái lạc lõng giữa biển cả cuộc đời mà còn là của người đọc khi đối mặt với bức tranh tâm trạng đầy mâu thuẫn, trái ngược nhưng đan xen và hòa quyện.
Nguyễn Du không chỉ là một thi sĩ xuất sắc mà còn là một họa sĩ tài năng. Bức tranh về 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' không chỉ là bức tranh về tình cảm, mà còn là bức tranh về nghệ thuật, về sự tinh tế trong cách chọn lựa từ ngôn ngữ đến hình ảnh, từ cấu trúc câu đến sắp xếp từng chi tiết. Khám phá đoạn trích này, ta như đang bước vào một thế giới tâm hồn phong phú, nơi mà từng chi tiết nhỏ nhất cũng mang theo một ý nghĩa sâu sắc và lôi cuốn.
Nguyễn Du đã biến những từ ngữ giản dị thành những hình ảnh lãng mạn và sâu sắc. Mỗi câu thơ, mỗi từ ngữ đều là một viên gạch xây dựng nên bức tranh tinh tế, cuốn hút người đọc. Tác phẩm 'Truyện Kiều' không chỉ là di sản văn hóa lớn của dân tộc mà còn là một bảo tàng nghệ thuật vô song của Nguyễn Du.
Thấu hiểu sâu sắc tâm lý con người, Nguyễn Du đã tạo nên một tác phẩm văn học kỳ diệu. 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' không chỉ là đoạn thơ, mà là một tác phẩm nghệ thuật toàn diện, là sự hòa quyện giữa văn chương và nghệ thuật hình ảnh. Những cảm xúc, tâm trạng, và tình cảm trong trái tim Thúy Kiều được biểu hiện một cách chân thực và tinh tế, tạo nên một kiệt tác văn chương vô cùng đặc sắc.


3. Tìm hiểu về 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều tại lầu Ngưng Bích' số 2
Khám phá đoạn trích về Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, đặt trong kịch bản 'Gia biến và lưu lạc'. Trải qua những biến cố cay đắng, Kiều đối mặt với quyết định đau lòng, định tự vẫn. Tú Bà, để giữ gìn 'hàng hóa' quý báu, thực hiện mưu kế tinh tế và dụ dỗ Kiều. Mặt sau vẻ quan tâm, hứa hẹn là âm mưu khác của người phụ nữ xảo quyệt. 8 câu thơ cuối tượng trưng cho trạng thái tinh thần đau đớn, tuyệt vọng khi Kiều chập chùng bước vào cuộc sống mới.
Đoạn trích đặt giữa những biến cố đau lòng. Nó thúc đẩy người đọc hiểu sâu hơn về những cảm xúc kinh hoàng và lo lắng về tương lai của Kiều. Ở lầu Ngưng Bích, nỗi nhớ không nguôi quấy rối Kiều. Nàng nhìn nhận về thân phận như bông hoa lạc lõng trên sóng nước, làm đau lòng tâm hồn. Kiều ghi nhớ về Kim Trọng, đêm đầy chất ngất khi uống rượu và thề nguyện. Nỗi nhớ về Kim Trọng dâng trào trong đêm đen đau buồn. Nàng đau lòng vì cha mẹ già yếu, đơn côi trong niềm thương tiếc 'quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ'. Kiều hồi tưởng về chàng Kim 'bên trời góc bể bơ vơ...'
Ngày một thêm, nỗi nhớ biến thành nỗi đau buồn sâu sắc, sự bối rối và lo sợ không ngừng... Những câu thơ ẩn dụ cảnh thiên nhiên làm nền cho động lực nội tâm của nhân vật trữ tình. Mọi thứ quen thuộc ở vườn Thúy trở nên xa lạ, hoang sơ: 'cửa bể chiều hôm', con thuyền và 'thấp thoáng cánh buồm', 'ngọn nước mới sa', bông hoa 'trôi man mác', 'nội cỏ dầu dầu', màu xanh của 'chân mây, mặt đất', gió cuốn và tiếng sóng vỗ ầm ầm... Những hình ảnh này, âm thanh này đồng lòng diễn đạt tâm trạng Kiều; một bi kịch đang làm tan nát trái tim nàng suốt đêm ngày.
Mỗi hình ảnh, mỗi từ ngữ mọc lên tạo ra một cảm giác liên tưởng chua xót về nỗi đau và số phận 'bạc mệnh' của cô gái đầu lòng của Vương Viên ngoại. Mỗi biểu tượng ý nghĩa mang tính biểu đạt về lo âu và sợ hãi của Kiều. 'Cánh buồm xa xa' nhấp nhô trên 'cửa bể chiều hôm' như một hành trình bí ẩn mơ hồ:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Chiếc thuyền thấp thoáng, lúc hiện lúc ẩn ở cửa bể chiều hôm, làm cho hình ảnh hành trình lưu lạc mơ hồ và không rõ điểm đến. Cảnh vật mở ra với bức tranh biển chiều hôm. Cánh buồm thấp thoáng xa xa lúc ẩn, lúc hiện, dõi theo cánh buồm mơ hồ trên biển. Kiều như muốn theo về với quê nhà, gia đình, nơi anh Kim Trọng đang chờ đợi.
Cảnh 'ngọn nước mới sa' với 'hoa trôi man mác, biết là về đâu?' gợi cảm giác phong cảnh buồn bã, hoang vu, hình ảnh bông hoa đang lênh đênh giữa dòng nước cạn kiệt. Cảnh tượng này là biểu trưng cho số phận mỏng manh của Kiều, giống như bông hoa đang bơi lênh đênh trên dòng nước biến đổi:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Trong dòng nước, cánh hoa trôi nhấp nhô, dập dềnh, quẩn quanh, không biết trôi về đâu. Dòng nước ấy có thể là dòng đời với biến động vô tận. Bông hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa như thể hiện số kiếp mong manh, lênh đênh, không biết hướng đi. Số phận của bông hoa cũng giống số phận của Kiều, càng hy vọng càng thấy xa xôi. Nguyễn Du tài tình mô tả tâm trạng chán chường, bất lực của Kiều trước thách thức của cuộc sống. Cảnh 'nội cỏ rầu rầu, chân mây mặt đất một màu xanh xanh' nhấn mạnh tâm trạng u sầu và sự trống trải trong lòng Kiều:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
'Nội cỏ rầu rầu' thể hiện trạng thái đau lòng, tuyệt vọng của Kiều trước tình cảnh bi đát. Chân mây mặt đất với màu xanh xanh tô điểm thêm không khí buồn bã, cô đơn và mất mát. Nguyễn Du khéo léo thể hiện tâm trạng của nhân vật thông qua cảnh vật tự nhiên.
Cảnh 'gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi' thể hiện một bức tranh sống động và đồng thời làm tăng cường sự áp đặt, khốc liệt của thử thách mà Kiều đang phải đối mặt:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
'Gió cuốn mặt duềnh' và âm thanh 'ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi' tạo ra không khí lo sợ, hãi hùng. Thúy Kiều hoàn toàn tuyệt vọng trước những thách thức khó khăn của cuộc sống. Nguyễn Du đã diễn đạt rõ nét những cảm xúc này thông qua những hình ảnh và ngôn ngữ sinh động. Tổng cộng, 8 câu thơ cuối cùng của đoạn trích về 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là một tuyệt phẩm diễn đạt tâm trạng cô đơn, buồn bã và đau đớn của nhân vật chính. Nguyễn Du đã thành công khi áp dụng kỹ thuật miêu tả tâm lý một cách tinh tế, chân thực và sống động. Tâm trạng của Thúy Kiều cũng chính là tâm trạng của tác giả trước cuộc đời đầy sóng gió và thử thách.'


4. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 5
“Truyện Kiều” trải qua hàng trăm năm vẫn là bảo tàng tinh thần quý báu của dân tộc ta. Tác phẩm luôn toả sáng như một viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa dân dụ. Nguyễn Du đã thể hiện tấm lòng nhân đạo và tài năng nghệ thuật xuất sắc trong sáng tác kiệt tác này, đặc biệt là trong việc mô tả cảnh ngụ tình, đặc biệt rõ trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích,” đặc biệt là 8 câu thơ cuối với đoạn mở đầu bằng từ “buồn trông.”
Bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích xa xôi và hoang vắng, Kiều liên tục chịu đựng nỗi đau nhớ gia đình và người yêu. Nhìn xa cửa bể vào chiều hôm, Kiều phát hiện cánh buồm nơi xa thấp thoáng giữa khói sóng hoàng hôn. Hình ảnh này tạo nên một cảm giác buồn thấp thoáng, khiến người đọc cảm nhận được lòng trải qua những cảm xúc thăng trầm của Kiều. Nàng ước ao, mong chờ một chiếc thuyền từ phương xa mang nàng về với gia đình. Nhưng mọi thứ mơ hồ và xa xôi, chỉ có cánh buồm hiện lên. Ở đây, con thuyền có thể là ảo mộng, khiến cho sự chờ đợi của Kiều trở nên đau đớn khi chiếc thuyền cập bến nhưng nàng vẫn đơn độc. Nàng trông ra đến ngọn nước mới sa, nơi mà từng trận thác đổ làm đục ngầu dòng nước.
Dòng nước kia mang theo những cánh hoa mỏng manh trôi chìm trong vô định, tạo ra hình ảnh đẹp buồn đầy ẩn ý. Có lẽ, Kiều cảm thấy thân phận mình giống như đóa hoa kia, trôi mãi trong những sóng đời đầy gian truân. Cảnh này là biểu tượng cho sự lo lắng về tương lai bất định của Kiều. Tâm trạng của nàng tiếp tục rơi vào sự không định, mơ hồ. Từ đó, Kiều buồn rơi vào nỗi cô đơn và nỗi đau đớn, tạo nên bức tranh u ám và xanh xao.
Khung cảnh mênh mông giờ trở nên đặc biệt khi chân mây và mặt đất không còn rõ ràng, màu xanh trở thành một sắc thái đơn điệu. Điều này phản ánh cuộc sống của Kiều hiện tại - buồn bã và mơ hồ. Cặp lục bát cuối cùng đặt ra những câu hỏi lo lắng về tương lai của một số phận đang bơ vơ. Cảnh gió cuốn sóng vỗ là điều báo trước về những khó khăn sắp đến trong cuộc đời Kiều. Sự sáng tác của Nguyễn Du qua bốn cặp lục bát này tinh tế và sâu sắc, mô tả rõ tâm trạng của Thúy Kiều trong những ngày bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích, đánh dấu giai đoạn lưu lạc mười lăm năm của nhân vật. Đọc những dòng thơ này, người đọc không chỉ cảm thấy xót xa trước số phận bi thảm của Kiều mà còn ngưỡng mộ tài năng và lòng nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du.


5. Phân tích tâm hồn qua 8 câu thơ cuối của đoạn 'Kiều tại lầu Ngưng Bích' số 4
“Kiều tại lầu Ngưng Bích” là một trong những khúc thơ cảm động nhất trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngòi bút tài năng của ông đã diễn đạt bi kịch tâm hồn của Kiều trên con đường gian truân bằng ngôn ngữ nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:
Bất ngờ Kiều nổi bật như biểu tượng dân tộc,
Chữ kiên trinh vượt lên trước sóng nguy hiểm.
Kim đã đến, làn lệ cay cay
Và mùi hương trầm đêm thoảng lững.
(Đọc Kiều, Chế Lan Viên)
Những dòng thơ này của Chế Lan Viên làm tình cảm của chúng ta rơi vào cuộc sống bi thương của Thúy Kiều, và chúng ta cảm nhận sâu sắc lòng nhân ái rộng lớn của Nguyễn Du, vị thi sĩ vĩ đại của dân tộc. Bốn câu thơ chằm chằm vào trái tim ta như một tiếng kêu oan trách, lòng thương xót với số mệnh “bạc” của người con gái đẹp nhất triều đình ngày nào...
“Kiều tại lầu Ngưng Bích” là đoạn thơ đầy cảm động trong Truyện Kiều, kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du. Nguyễn Du đã thông qua ngôn từ nghệ thuật tài tình miêu tả bi kịch tâm hồn của Kiều trên con đường bị trói buộc trong những ngày đầu tiên, và chúng ta cảm nhận được sự đau đớn qua từng cảnh vật miêu tả ngụ tình đặc sắc. Những dòng thơ buồn mang đến nỗi đau thấu xương về cuộc sống khắc nghiệt của người con gái “bạc mệnh”...
Sau khi bị lừa, rơi vào tình thế “thất thân” với Mã Giám Sinh, sau đó bị Tú Bà nhục dục, Kiều dùng dao tự tử. Nàng đã được cứu sống. Tú Bà bày mưu mới, giữ Kiều lại ở lầu Ngưng Bích. Thân phận xa xôi giữa đất khách quê người, nàng cảm thấy cô đơn và bơ vơ. Những ngày bão tố, kinh hoàng vừa qua. Chặng đường phía trước mịt mờ, rối ren. Nàng sống một mình trong lầu Ngưng Bích với tâm hồn “bẽ bàng, chán ngán”. Nhớ thương gia đình già yếu, không ai đỡ đần nương lựa “quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”. Nàng nhớ chàng Kim “bên trời góc bể bơ vơ...”.
Sau những kí ức đau buồn là nỗi đau tận cùng, sự hoang mang và lo lắng không dứt. Nỗi buồn như xé nát trái tim, vòng vây chặt lấy linh hồn nàng. Đoạn thơ tám câu tràn ngập tâm trạng. Nhà thơ chọn bối cảnh thiên nhiên để làm nền cho cảm xúc nội tâm của nhân vật. Mất hết những cảnh quen thuộc ở vườn Thúy, mọi thứ trở nên xa lạ và hoang sơ: “cửa bể chiều hôm”, con thuyền và “thấp thoáng cánh buồm”, “ngọn nước mới sa”, một cánh “hoa trôi man mác”, “nội cỏ dầu dầu”, màu xanh xanh của mặt đất, chân mây, gió cuốn và tiếng sóng vỗ ầm ầm... Những cảnh vật ấy, âm thanh ấy, đóng góp vào việc mô tả tâm trạng Kiều; một bi kịch đang giữ nát tâm can nàng qua đêm và ngày...
Mỗi hình ảnh, mỗi từ ngữ đều gợi lên trong tâm hồn người đọc những liên tưởng chua xót về nỗi đau và số phận “bạc mệnh” của người con gái lạc lõng. Mỗi hình ảnhẩn dụ mang ý nghĩa tượng trưng về lo âu và sợ hãi của Kiều. 'Cánh buồm xa xa' bên “cửa bể chiều hôm” như là một hành trình lưu lạc, mơ hồ:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Cánh “hoa trôi man mác” đồi lên giữa “ngọn nước mới sa” bao la, cũng là tâm trạng lo âu cho số phận bé nhỏ trôi dạt trên dòng đời không đoán trước:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
'Nội cỏ dầu dầu” vàng úa hiện lên giữa màu xanh “chân mây mặt đất” nơi mờ mịt xa xăm hay là cuộc sống tàn úa của nàng: Buồn trông nội cỏ dầu dầu,Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Và biển trời dữ dội 'ầm ầm tiếng sóng' đang vỗ, đang 'kêu', đang bao phủ, như nói lên sự lo âu, sợ hãi, nỗi khiếp sợ của Kiều:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, miêu tả cảnh quay ngoại cảnh đều mang ý nghĩa như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và số phận đen tối của một kiếp người trong bể trầm luân. Một hệ thống từ ngôn ngữ như “thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm” tạo ra giai điệu u buồn, trầm lắng, kinh sợ, ở vị trí đầu tiên của bài thơ, lời “buồn trông” nổi lên bốn lần như tiếng than khóc, đau đớn, mô tả nét chủ đạo thống trị tâm trạng của Thúy Kiều làm cho người đọc cảm thấy xúc động:
Buồn trông cửa bể chiều hôm…
Buồn trông ngọn nước mới sa…
Buồn trông nội cỏ dầu dầu...
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh...
Chung quy, “Kiều tại lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ đặc biệt về cuộc sống “đoạn trường”. Một bức tranh phong phú về cảnh vật và tâm cảnh đã mô tả đau thương và lo lắng mà Kiều phải trải qua trong mười năm “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, với tình yêu nồng, sự chấp nhận, cười giữa những tiếng khóc, khóc thành tiếng cười...
Nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du rất tinh tế, cảnh và tình tương hợp, sống động, hình tượng, biểu cảm. Miêu tả cảnh để tả tình, trong cảnh là tình, lấy cảnh để thể hiện tâm trạng “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Mỗi cảnh vật là một nét đau đớn, lo âu, nỗi buồn tê tái của người con gái đi lang thang.
Đoạn thơ có giá trị nhân văn sâu sắc. Nó đánh thức trong trái tim mỗi người chúng ta những tâm tư về con người tài sắc bạc mệnh. Tư duy yêu thương, lòng nhân ái, đồng cảm, sẻ chia của nhà thơ đối với đau đớn của Thúy Kiều đã để lại ấn tượng mãnh liệt trong tâm trí người đọc qua hàng thế kỷ: Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều. (Tố Hữu)


6. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 7
Nguyễn Du, tượng đài văn hóa toàn cầu, hiện hữu qua tác phẩm vĩ đại “Truyện Kiều”, đã vươn lên khẳng định Tiếng Việt là biểu tượng của dân tộc. Truyện mang tâm huyết nhân loại, từ lời tựa của Mông Liên Tưởng đến tám câu thơ cuối “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, thể hiện sự tinh tế và đẹp của bút pháp tài ba Nguyễn Du, đặc biệt là cách ông tả cảnh ngụ tình.
Tám câu thơ cuối trở thành mô hình của thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển, lấy cảnh sắc tự nhiên để truyền đạt tâm trạng. Bằng cách miêu tả cảnh vật, Nguyễn Du vừa mở ra những nỗi buồn khác nhau, làm cho tâm trạng buồn được chìm sâu hơn, mỗi cảnh tác động lẫn nhau làm tăng thêm nỗi buồn, tạo nên một không khí u tối và đau đớn. Bài thơ thực sự sống động dưới bàn tay tài năng của ông, với hình ảnh của Kiều đơn độc giữa không gian bao la, nhớ quê hương và cha mẹ già yếu.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm”
“Thuyền ai thấp thoáng, cánh buồm xa xa”
“Cửa bể” là biển rộng, rợn người, trong bức tranh chiều tà, tạo nên cảnh vắng lặng và buồn bã. Câu thơ của Nguyễn Du như làm tái hiện hình ảnh con gái lấy chồng xa quê, đứng nhìn về phương xa vào mỗi chiều tà, giống như câu ca dao: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau, trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.” Hình ảnh chiều tà với cánh buồm lẻ loi làm tăng thêm cảm giác lạc lõng, héo úa như số phận của Kiều giữa biển đời.
“Buồn trông ngọn nước mới sa”
“Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
“Ngọn nước mới sa” biểu tượng cho sức mạnh tự nhiên có thể cuốn trôi, hủy diệt những điều nhỏ bé. Cảnh Kiều trôi nổi giữa dòng đời được thể hiện qua hình ảnh hoa trôi man mác. Đây là hình ảnh đau lòng, là cuộc sống của Kiều trôi dạt giữa dòng đời vô định. Cô đơn và yếu đuối, Kiều nhìn thấy cỏ héo úa như tâm trạng của mình.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
“Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
“Nội cỏ rầu rầu” là hình ảnh của sự héo úa, chết chóc, tàn lụi. Màu xanh xanh của chân mây, mặt đất tạo nên bức tranh âm u, ảm đạm như màu cỏ trên mộ Đạm Tiên. Cảnh này làm tăng sự chán nản và tuyệt vọng trong tâm hồn Kiều.
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh”
“Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Chiều muộn, cảnh trở nên mờ mịt, âm thanh vang dội lên. Kiều nhìn thấy gió cuốn từng đợt sóng cao, nghe tiếng sóng kêu vang quanh, tạo nên không khí kinh hoàng, làm tăng thêm sự tuyệt vọng và yếu đuối của Kiều. Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với từ láy tạo nên âm điệu của một bản nhạc buồn, thể hiện sự đau thương và yếu đuối của Kiều.
“Kiều ở Lầu Ngưng Bích” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Tám câu thơ cuối là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, làm cho người đọc đắm chìm trong nỗi buồn của Kiều, cảm nhận được tình yêu thương và sự hiểu biết sâu sắc về thân phận người phụ nữ của Nguyễn Du.


7. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 6
Phạm Quỳnh, nhà nghiên cứu văn hóa, từng khẳng định: 'Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn'. Chế Lan Viên, nhà thơ tài danh, cất lên lời thơ tinh tế: 'Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn'. Truyện Kiều, món ăn tinh thần bất diệt, với những trang thơ cuốn hút, vương vấn tâm hồn, mang đến cảm thương sâu sắc với 'tấm gương oan khổ' Thúy Kiều. Các dòng thơ như hoa, như gấm đẹp đặc biệt:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
8 câu thơ đặc sắc từ đoạn 'Kiều ở Lầu Ngưng Bích', ánh sáng lên 'nỗi lòng tê tái' của Kiều trong ngày đầu kiếp đoạn trường. Hai tiếng 'buồn trông' lặp lại bốn lần, gói gọn tâm thế của Kiều trước lầu Ngưng Bích, tạo nên nhịp điệu đều, buồn thương. Nơi 'khóa xuân', Kiều lựa chọn thiên nhiên làm điểm tựa, từ đó nhận thức về số mệnh của mình. Tâm hồn bơ vơ giữa không gian rộng lớn, nỗi nhớ quê hương bất chợt trỗi dậy:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Không gian xa lạnh lùng như nhấn mạnh thêm thân phận cô đơn, khát khao sự sống. 'Thuyền' biểu tượng cho sự sống con người, nhưng lại mờ nhạt, như có như không, qua hai từ 'thấp thoáng', 'xa xa'. Hình ảnh biểu tượng không làm cho cảnh trở nên thân mật, mà ngược lại, làm nổi rõ sự cô đơn, buồn bã của con người. Trong không gian vô hình đó, trái tim cô đơn, tâm hồn trống trải cần một chút ấm áp:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Giữa dòng nước, cánh hoa trôi man mác như là biểu tượng của số phận lênh đênh của người trong cảnh. Câu hỏi như xoáy vào tâm hồn người đọc, đầy ý nghĩa. Thân phận cánh hoa có phải là trăn trở, xót xa về số mệnh mong manh của Kiều? 'Về đâu' cuối câu hỏi với thanh âm vô định, xa vắng, tương ứng với tâm thế hiện tại của Kiều. Nước làm tăng cảm giác lạnh lẽo, không chắc chắn, khiến Kiều tìm về bờ cỏ xanh:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu.
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Cỏ mang tâm trạng buồn thương của người: 'rầu rầu'. Không còn là màu xanh tươi mới của cỏ non trong tiết xuân:
Tuyết in sắc ngựa câu giòn.
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Màu xanh trong không gian lầu Ngưng Bích không phải là màu xanh tươi mới của cỏ non, cũng không giống màu xanh tinh khôi của chàng Kim:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Gió thổi, nước trôi... cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tầm nhìn của Kiều từ xa đến gần, từ cao đến thấp, mong tìm kiếm một đáp án. Âm thanh sóng ầm ầm như tiếng gào thét lòng người trong cảnh đau đớn, tê tái. Chỉ có thiên nhiên làm bạn đồng hành, chia sẻ 'tấm lòng'' với Kiều. Đó là khoảnh khắc tâm thức Kiều thấu hiểu nhất về nỗi buồn của chính mình.
Đoạn thơ của Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc họa nỗi lòng xót xa, tâm trạng bẽ bàng của Kiều và đồng thời là minh chứng cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình xuất sắc của đại thi hào dân tộc. Những dòng thơ này sẽ mãi vang vọng trong tâm trí độc giả.


8. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 9
Nguyễn Du không chỉ là một nghệ sĩ xuất sắc về việc vẽ chân dung nhân vật mà còn là người có khả năng đặc biệt trong việc mô tả thiên nhiên và hiện thực tâm hồn con người. Mỗi tác phẩm dưới đôi bàn tay tài năng của ông đều có hai mục tiêu chính: truyền đạt vẻ đẹp bề ngoài và thể hiện tâm trạng. Tám câu thơ cuối cùng trong bài “Kiều ở lầu Ngưng Bích” chính là minh chứng rõ ràng nhất cho tài năng đặc biệt này của Nguyễn Du.
Sau khi bị lừa vào lầu xanh, Kiều trải qua những ngày đau đớn, ê chề. Là người coi trọng nhân phẩm, Kiều thậm chí còn tìm đến cái chết nhưng không thành. Tú Bà đã giam giữ Thúy Kiều tại lầu Ngưng Bích, đợi đến ngày thực hiện âm mưu mới. Những ngày ở đây, nàng sống trong cảm giác đau đớn, tủi hổ, cô đơn và tuyệt vọng.
Trong những khoảnh khắc cô đơn, có vẻ như tâm trí của mọi người đều hướng về gia đình. Người con gái trong ca dao, dù đã lấy chồng, nhưng khi hoàng hôn buông xuống vẫn nhớ mãi về quê hương:
Chiều về ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Thậm chí với Kiều, người đã bán mình để cứu gia đình, nỗi nhớ gia đình càng trở nên đau đớn:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Không gian mênh mông của cửa biển cùng hình ảnh thuyền xa xa tạo nên một bức tranh u ám, hoang vắng. Cánh buồm dường như trở nên nhỏ bé giữa không gian rộng lớn ấy. Thân phận của Kiều cũng giống như cánh buồm, lênh đênh, nhỏ nhoi giữa cuộc đời bất định. Người ta cũng khôn ngoan khi chọn thời điểm để nhắc nhở về nỗi nhớ, đó là “chiều hôm”. Trong văn học, buổi chiều thường mang lại cảm giác buồn bã, và ở đây, trong tình cảnh của Kiều, nỗi buồn ấy liên quan đến mong muốn được sum họp, hòa mình vào quê hương, gia đình.
Sau nỗi buồn về quê hương, xa xứ, nàng lại nhớ đến thân phận của mình: “Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu?”. Hình ảnh “hoa trôi” ẩn chứa ý nghĩa về thân phận của Kiều. Ngọn nước mới sa kia có sức mạnh kinh khủng, là những thách thức, sóng gió trong cuộc đời đã làm chìm đắm cuộc sống của nàng. Những bông hoa trôi man mác cũng giống như thân phận mong manh, nhỏ bé của nàng. Cuộc đời nàng trôi theo dòng chảy, không biết tương lai sẽ dẫn nàng đến đâu. Câu hỏi “biết là về đâu” như là một lời thánh thót, than phiền về số phận không công bằng. Điều này càng làm nổi bật thêm thân phận chìm nổi, nhẹ bồng của Kiều.
Trong tác phẩm của Nguyễn Du, màu xanh đã được sử dụng nhiều lần và mỗi lần xuất hiện mang ý nghĩa khác nhau. Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, màu xanh là biểu tượng của sự sống, tươi mới, trong khi trong đoạn trích này, màu xanh mang ý nghĩa khác: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Cỏ trong nhà chỉ toát lên một màu tả tơi héo úa. Màu xanh liên kết chân trời và mặt đất nhưng lại mờ nhạt, đơn sắc. Tất cả những màu sắc ấy kết hợp với nhau làm tăng thêm cảm giác chán chường, uất ức trong tâm trạng của Kiều. Kiều tìm kiếm sự đồng điệu, sự chia sẻ nhưng mọi cảnh sắc đều làm cho nàng thêm buồn bã, chán nản. Thực sự, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong tâm hồn đau khổ của nàng, mọi cảnh đều chứa đựng nỗi buồn chán, tuyệt vọng và không hy vọng. Điều này đẩy Kiều sâu hơn vào hố sâu của sự buồn bã, tuyệt vọng.
Hai câu thơ cuối cùng có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật miêu tả cảnh đẹp và tình cảm của Kiều, biểu hiện sự hoang mang, rợn ngợp:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Cảnh cuối cùng của thiên nhiên không chỉ là cảnh ngoại cảnh mà còn là cảnh nghệ thuật tâm lý. Kiều cảm thấy như mình không còn ở lầu Ngưng Bích mà đang ở giữa biển cả bao la, với sóng biển gào thét muốn hốt chìm nàng. Đặc biệt là từ từ “ầm ầm” không chỉ mô tả một cảnh kinh hoàng mà còn thể hiện tâm trạng buồn bã, hoảng sợ của Thúy Kiều. Nàng đang cảm nhận những cơn giông bão của số phận sắp bùng nổ và sẽ đánh chìm cuộc sống của mình.
Đoạn thơ đã khéo léo sử dụng nghệ thuật miêu tả cảnh và tâm lý, mỗi cảnh sẽ là một tâm trạng, một nỗi đau mà Kiều phải đối mặt. Không chỉ thế, Nguyễn Du còn sắp xếp các yếu tố theo trình tự logic: Từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt nhòa đến đậm nét, mô tả rõ nỗi buồn đau da diết của Kiều. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, ngôn từ phong phú để tạo hình và thể hiện cảm xúc. Tất cả những yếu tố này cùng nhau tạo nên thành công cho đoạn trích.
Tám câu thơ cuối cùng là một tác phẩm xuất sắc của nghệ thuật miêu tả cảnh và tâm lý. Nguyễn Du đã thành công trong việc mô tả những tình trạng tinh thần, nỗi cô đơn, lo sợ về tương lai đầy khó khăn của Kiều. Qua bức tranh này, ông không chỉ thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với số phận của Kiều mà còn thể hiện lòng thương cảm với số phận của phụ nữ dưới thời kỳ phong kiến.






Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại bốn lần, liên hoàn và là điệp khúc của tâm trạng. Kiều buồn nên mới trông cảnh vật, nhưng càng trông, lại càng buồn. Nỗi buồn cuộn trào trong tâm khảm, trở thành gánh nặng tâm tư. Bức tranh thiên nhiên động cùng tiếng sóng ầm ầm, tạo nên không gian đầy áp lực, là khúc biển đời gầy yếu của Kiều. Như vậy, Nguyễn Du đã tinh tế diễn đạt nội tâm Kiều một cách chân thực và sinh động.


12. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 13
'Truyện Kiều' là một tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Du. Trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', Thúy Kiều thể hiện nỗi cô đơn, buồn bã và lòng thủy chung:
'Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi'
Đoạn thơ tám câu này thể hiện sự cô đơn và buồn bã của Kiều trước cảnh ngục lầu Ngưng Bích. Cô nhớ về quê hương, nhìn xa xăm và tự hỏi về số phận của những người thân yêu.
Trông cảnh hoa trôi nước, Kiều thấu hiểu về sự vụng trộm của số phận. Cảnh tượng này như hình ảnh cuộc đời nàng, trôi dạt giữa biển cả, không kiểm soát được số phận.
Cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn nhưng vẫn không đủ chứa đựng tâm hồn của Kiều. Mọi thứ xung quanh đều nhạt nhòa và buồn bã, phản ánh tâm trạng của nàng.
Cuối cùng, trong âm thanh sóng biển vang vọng, Kiều cảm nhận sự ám ảnh và lo lắng. Nỗi buồn trở nên nặng nề, như là đang rơi vào vực thẳm tuyệt vọng.'


13. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 12
'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là một đoạn trích tuyệt vời trong 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du. Tám câu thơ cuối thực sự diễn đạt tâm trạng của Thúy Kiều khi bị giam giữ:
'Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa'
Nơi lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ về quê hương và cảm thấy cô đơn giữa không gian rộng lớn. Hình ảnh 'cánh buồm' xa xa gợi nhớ về người thân và hỏi lòng không biết gia đình đang ở đâu. Cô ước ao trở về nhưng không biết khi nào.
'Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?'
Cảnh hoa trôi giữa dòng nước là biểu tượng cho số phận của Kiều, vụng trộm và không kiểm soát. Cuộc sống của cô bị vùi dập, và cô tự hỏi về ý nghĩa của cuộc sống. Hình ảnh này thể hiện sự đối lập giữa tình cảm mong manh và thế giới lạnh lẽo xung quanh Kiều.
'Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh'
Mặc dù xung quanh là cảnh đẹp của lầu Ngưng Bích, nhưng không gian vẫn không đủ chứa đựng tâm hồn Kiều. Thiên nhiên đắm chìm trong màu xanh, nhưng đó không phải là màu xanh của sự sống. Cô cảm nhận sự lạnh lẽo và cô đơn.
'Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi'
Cuối cùng, với tiếng sóng vang vọng, Kiều cảm nhận sự đe dọa và lo lắng. Nỗi buồn trở nên nặng nề, như cô đang rơi vào vực sâu của tuyệt vọng.'
Tóm lại, tám câu thơ cuối này là một bức tranh tuyệt vời về tâm trạng của Thúy Kiều.


14. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 15
Trong 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du, đoạn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích vẫn là một trong những khúc thơ tuyệt vời về nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Cảnh đẹp của đoạn thơ tập trung ở bốn bức tranh cuối cùng:
'Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.'
Nguyễn Du tài năng khiến người đọc thấu hiểu tâm hồn của Kiều. Bức tranh đầu tiên:
'Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?'
Thời điểm chiều hôm khi mặt trời dần khuất phía Tây, cảnh tượng trên biển đang chuyển từ sáng nay trở nên u ám. Thuyền xa xa như là một điểm nhấn trên bức tranh bể biển lớn vô tận, chỉ thấy cánh buồm thoáng qua. Nguyễn Du với sự tinh tế mô tả khiến người đọc cảm nhận được cô đơn và chờ đợi của Kiều. Cảnh thứ hai:
'Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?'
Nguyễn Du nắm bắt khả năng tả cảnh để chuyển đổi sang tâm trạng của Kiều. Ngọn nước đổ từ đỉnh thác xuống, mô phỏng sự hụt hơi, chấm dứt sự tươi tắn. Cảnh hoa trôi đi trên dòng nước như một biểu tượng cho sự trôi chảy, mất mát. Bức tranh thứ ba:
'Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.'
Nguyễn Du mô tả đồng cỏ trải dài đến chân trời, nhưng không phải là cảnh đẹp của mùa xuân. Cỏ dầu dầu và màu xanh xanh làm nổi bật sự hoang vắng và buồn bã. Cảnh cuối cùng:
'Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.'
Nguyễn Du sử dụng hình ảnh biển cuồn cuộn để tăng cường cảm giác lo lắng và không chắc chắn. Tiếng sóng ầm ầm làm nổi bật sự mạnh mẽ và đe dọa. Cảnh này đặt ra câu hỏi về tương lai của Kiều trong bối cảnh khó khăn và bất an. Tất cả những bức tranh này ghép lại tạo nên một tác phẩm nghệ thuật đẹp và sâu sắc trong 'Truyện Kiều'.


15. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều tại lầu Ngưng Bích' số 14
Trích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc phần “Gia biến và lưu lạc” trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du - một kiệt tác văn học của Việt Nam thời trung cổ. Các câu thơ cuối cùng tạo nên bức tranh cảm xúc đầy nghệ thuật của nhân vật chính, Thúy Kiều.
Khi Kiều phát hiện mình rơi vào lầu xanh, ý định tự vẫn hiện lên. Tuy nhiên, hứa hẹn giả dối của Tú Bà đã làm thay đổi quyết định đó. Nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, nơi rộng lớn và đầy ánh sáng tự nhiên:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Những từ “chiều hôm” là thời điểm mặt trời dần chìm, là lúc gia đình sum họp. Nhưng đối với Kiều, nơi này trở nên cô đơn, chỉ có bóng thuyền và cánh buồm xa xôi, khiến nàng nhớ về quê hương và người thân mà không biết bao giờ mới gặp lại.
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Kiều chứng kiến cảnh hoa trôi nổi trên dòng nước, giống như cuộc đời nàng đầy biến động và bất trắc. Nàng cảm thấy tấm thân trong trắng của mình cũng như cánh hoa mong manh, bị cuốn trôi mà không biết điều kết cục sẽ như thế nào.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Màu xanh ở đây không còn là biểu tượng của sự sống và hy vọng như trước. Thay vào đó, nó trở thành màu xanh của đau khổ và tuyệt vọng. Cảnh tượng rộng lớn của đồng cỏ chỉ làm nổi bật thêm nỗi cô đơn và đau thương trong tâm trạng của Kiều:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Ngồi giữa biển cả, Kiều nghe tiếng sóng ầm ầm, làm nổi lên bản chất dữ dội và không kìm lại được. Tiếng sóng kêu quanh như là âm nhạc của nỗi buồn, làm cho nàng càng thấu hiểu về tình cảnh khó khăn và đau khổ mà nàng đang phải đối mặt. Những câu thơ cuối cùng của đoạn trích này giúp người đọc hiểu sâu hơn về trạng thái tâm lý của Thúy Kiều trước những thách thức khó khăn trong cuộc sống.


17. Nghiên cứu 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 18
Thể loại thơ lục bát không chỉ thể hiện tài năng của tác giả mà còn là bản lĩnh của tiếng Việt. Nguyễn Du đã lựa chọn thể loại này để sáng tác Truyện Kiều, không chỉ thể hiện tài năng mà còn là diễn đạt tâm hồn dân tộc. 8 câu thơ cuối cùng trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là minh chứng cho sự khéo léo trong việc mô tả tình cảm.
Thúy Kiều, người được miêu tả là “sắc đành đòi một tài đành họa hai” nhưng “chữ tài đi với chữ tai một vần”. Những năm tháng êm đềm đã kết thúc, thay vào đó là những ngày tháng bi thương khi Kiều ở lầu Ngưng Bích:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Đây là giai đoạn khó khăn với Thúy Kiều, khi cuộc sống thay đổi đột ngột. Cô đơn, Kiều nhìn thấy mọi thứ xung quanh trở nên âm u:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buổi chiều, khung cảnh trở nên ảm đạm. Điều này càng làm nổi bật sự nhỏ bé, cô đơn của Thúy Kiều. Cảnh đẹp bị thấp thoáng, xa xôi, không đủ để xóa đi nỗi cô đơn trong tâm hồn nàng:
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Có thuyền, có người, nhưng sự sống ấy quá xa xôi, không thể giúp Thúy Kiều quên đi cảm giác cô đơn. Sự thấp thoáng, xa xôi tăng lên cảm giác cô đơn, đau đớn. Bóng dáng của Kiều đơn côi, tìm kiếm niềm vui nhưng không tìm thấy:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Chữ “man mác” khiến ta liên tưởng đến cảnh hoa trôi. Hoa trôi như cuộc đời của Kiều, không biết hướng đi. Kiều đặt ra câu hỏi, không có câu trả lời. Nơi đâu? Thúy Kiều không biết. Cánh hoa trôi trên dòng nước, cô đơn như Kiều, tìm kiếm niềm vui nhưng không gặp:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Cỏ xanh không còn rợn chân trời, trở nên rầu rầu như tâm trạng con người. Màu xanh của cảnh vật bắt đầu phản ánh nỗi buồn trong tâm hồn Kiều. Khung cảnh xung quanh càng làm tăng thêm nỗi đau đớn:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Ngôn từ của Nguyễn Du rất tinh tế. Tiếng sóng ầm ầm là tiếng lòng Thúy Kiều. Không phá vỡ sự yên bình, chỉ làm sâu sắc thêm tâm trạng của Kiều. Đau đớn vì lúc nào cũng có mình, lúc cần có ai bên cạnh nhất lại không có. Kiều chỉ tìm thấy an ủi trong tiếng sóng và gió của thiên nhiên.
Đoạn thơ này đã tả rõ tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Bức tranh tinh tế của Nguyễn Du còn nguyên vẹn trong tâm trí độc giả.


16. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 19
Trong sự thành công của kiệt tác 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du, một yếu tố quan trọng đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc. Đại thi hào đã sử dụng hai câu thơ tinh tế để diễn đạt về bản chất của bút pháp nghệ thuật này:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Thành công vĩ đại của thiên tài Nguyễn Du trong bút pháp này thể hiện rõ nhất qua tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều, SGK Văn học 9, tập 1):
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông, gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Tên gọi 'tả cảnh ngụ tình' không chỉ là sự mô tả về thiên nhiên, cảnh vật mà còn là phương thức biểu đạt tâm trạng, tình cảm sâu sắc của nhân vật. Như trong hai câu thơ dưới đây:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Nhà thơ đã thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa cảnh và tình: cảnh làm theo tình, tình buồn cảnh cũng buồn theo. Cảnh trở thành bức tranh tâm cảnh. Trong tám câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã thành công áp dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình này. Cảnh được miêu tả theo kiểu tứ bình, mở ra một góc nhìn bốn phương và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều quan sát là cửa biển vào chiều hôm:
Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Không gian mênh mông rợp bóng, thời gian khi chiều tà luôn làm nỗi buồn trống vắng, lạc lõng nổi lên. Giữa khung cảnh đó, cánh buồm 'thấp thoáng' tồn tại như một hình ảnh mơ hồ. Hình ảnh cánh buồm gợi nhớ đến những chiếc thuyền lướt qua bờ cua quê hương. Cảnh này kích thích nỗi nhớ về quê nhà, cha mẹ, và sự cô đơn, khao khát được sum họp.
Trên bề mặt biển lênh đênh, cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa làm Kiều chìm đắm trong nỗi buồn về sự lênh đênh, không biết sẽ được trôi dạt và chìm đắm ra sao:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Cảnh này khiến Kiều đau xót cho số phận, sự kiện của mình. Sau cánh cửa biển có một cánh hoa giữa dòng nước, là cảnh của một nội cỏ:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Một cảnh nội cỏ trải rộng nhưng khác biệt với cỏ xanh rợn chân trời trong những ngày thanh minh: cỏ 'rầu rầu' – một màu vàng úa, gợi nhớ đến sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhạt kéo dài từ mặt đất đến chân mây không phải là màu xanh của sự sống, mà chỉ là màu của cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô đơn và đầy tuyệt vọng. Cảnh mờ mịt giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hèn của Thúy Kiều. Cuối cùng là cảnh sóng biển ầm ầm sau cơn gió:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Âm thanh sóng biển như một dự báo cho cơn bão dữ dội của cuộc sống hoặc cũng có thể là âm thanh đau đớn của Kiều đồng tình với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn bã mà còn lo sợ, kinh hãi, như đang đối mặt với cơn bão, giông tố của cuộc sống sắp đổ lên đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ yên bình đến sôi động. Cảnh dần hiện rõ để diễn đạt nỗi buồn từ sự lạc lõng mông lung đến sự lo lắng kinh sợ dồn đến cơn bão nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mơ hồ vì nó được nhìn nhận theo quy luật 'cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao . giờ'. Điều đó cũng là biểu tượng của quá khứ đau buồn, hiện tại cô đơn và đồng thời là dự báo cho một tương lai khắc nghiệt. Tất cả đều là hình ảnh của sự không chắc chắn, mong manh, vô vọng, sự trôi dạt và bế tắc.
Bên cạnh những từ ngữ và hình ảnh phong phú, đoạn thơ còn thành công với việc sử dụng điệp ngữ 'buồn trông'. Nguyễn Du mượn điệp ngữ này từ ca dao:
“Buồn trông con nhộn giăng tơ…
Buồn trông chênh chếch sao mai…”
Bốn cặp câu lục bát, tức bốn cảnh, được kết nối bởi điệp ngữ truyền thống này:
Buồn trông cửa biển chiều hôm
Buồn trông ngọn nước mới sa
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
'Buồn trông' như là nhìn xa và hy vọng vào một điều gì đó mơ hồ sẽ đến, thay đổi hiện tại nhưng vẫn là sự trông chờ vô vọng. 'Buồn trông' mang theo sự lo âu, sự kỳ bí cuốn hút tầm nhìn, và cảm giác xa lạ. Nó đồng thời còn chứa đựng sự dự cảm và sợ hãi của một người con gái lần đầu bước chân vào cuộc sống. Điệp ngữ phối hợp với những hình ảnh đằng sau cùng các từ ngữ giàu hình tượng để diễn đạt nỗi buồn với nhiều mức độ khác nhau, trào lên như những đợt sóng. Điệp ngữ tạo nên những đối vần, kích thích cảm giác buồn man mác, hiện diện của nỗi buồn sâu sắc, không có hồi kết. 'Buồn trông' trở thành bản nhạc nền của đoạn thơ, là nhạc nhẹ của tâm trạng. Bằng một bức tranh nhạt nhòa và lạnh lẽo, Nguyễn Du đã vẽ lên một tâm trạng đặc sắc và cảm động. Nguyễn Du đã lựa chọn cách thể hiện 'tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này' một cách độc đáo, tạo nên đoạn thơ tuyệt vời, với bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Bút pháp tả cảnh ngụ tình là một nghệ thuật tinh tế và đặc sắc. Để thành công, cần sự đồng cảm sâu sắc với tâm hồn trữ tình của nhân vật. Vì vậy, với việc khéo léo áp dụng thủ pháp nghệ thuật này để diễn đạt tâm trạng 'Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích', Nguyễn Du đã mở ra một tâm hồn nhạy cảm, phong độ và tràn đầy tình người.


18. Phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' số 18
Bên lề con đường, gió khẽ lướt qua lá cỏ
Âm thanh nhẹ nhàng, như làn hương cổ điển
Những hình ảnh quen thuộc về nỗi đau mất mát
Nuối tiếc đong đầy, ngọt ngào như giai điệu thơ
(Tôi – Gửi lời chia buồn đến Nguyễn Du)
Chính vậy, những lời thơ 'Bên lề con đường' đó không chỉ là nỗi buồn, nó còn là cung điệu của thời gian, những dòng sông thổn thức mỗi khoảnh khắc. Khi nhấn mạnh đến Truyện Kiều, ta như nhấn mạnh đến trái tim của 'tiếng thương,' tiếng kêu không chỉ dành cho phận đàn bà mà còn dành cho mọi kiếp người, ngàn thu về sau. Và khi nhấc bút viết về đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, không thể giữ nước mắt trước bi kịch của cuộc đời Kiều:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền nhỏ mảnh manh, cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác, hòa mình vào vô thức?
Buồn trông cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất mênh mông xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều – trích đoạn Kiều ở lẩu Ngưng Bích)
Những câu thơ này, như đợi chờ một sự hoàn thiện, một bình yên đến sau cùng, nhưng cũng mang theo những dấu hỏi về tương lai, về số phận của Kiều và những người yêu thương nàng. Từ 'thấp thoáng,' 'xa xa,' đến câu hỏi 'Thuyền nhỏ mảnh manh, cánh buồm xa xa?' như một lời tự hỏi về số phận, về hướng đi của con thuyền nhỏ trong cuộc đời lụi tàn.
Cánh buồm tiến dần vào vô cực, Kiều lặng buồn nhìn 'ngọn nước mới sa'.
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác, hòa mình vào vô thức?
Ngọn nước sa là thời kỳ thăng trầm, nàng nhưng nghệ sĩ đang chìm đắm trong những tưởng tượng, những ý niệm mênh mông, hoặc có thể, như lá cỏ đang mong mỏi giọt sương mơ mộng của hy vọng. Mặt khác, 'một màu xanh xanh' không chỉ là sự sống, mà còn là một sự cô đơn, hạnh phúc và đau khổ, tất cả làm nên bức tranh huyền bí của thế giới nghệ thuật.
Kiều nhìn ra vùng biển trước mặt:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm sóng kêu quanh ghế ngồi.
Những cơn gió, như những vấn đề khó khăn, cuốn mất bản lĩnh của con người, làm cho cuộc sống trở nên dữ dội. 'Gió cuốn mặt duềnh' như một biểu tượng cho sự mất mát, một hành trình đau khổ và đầy thách thức. 'Ầm ầm sóng' như những lời chỉ trích, những áp lực xã hội vang vọng quanh chỗ ngồi của Kiều.
Tất cả là những khoảnh khắc của nỗi buồn, từng đấu tranh và khao khát, tất cả đã được Nguyễn Du khắc họa một cách tuyệt vời trong bức tranh thơ 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'.
(Theo Chế Lan Viên)

