Tổng hợp trên 30 bài văn Cảm nhận về cuộc sống trên Đoàn thuyền đánh cá hay nhất, ngắn gọn, với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Danh sách Tốp 30 Cảm nhận về cuộc sống trên Đoàn thuyền đánh cá (hay, gọn gàng)
Cảm nhận về cuộc sống trên Đoàn thuyền đánh cá - Mẫu số 1
Đó là một cảnh tượng của cuộc sống trên biển đêm và được mô tả qua nhiều vẻ đẹp. Đó là vẻ đẹp của con người được thể hiện ở nhiều khía cạnh: sức khỏe, sự hứng khởi được biểu lộ qua không khí làm việc - hoạt động đánh bắt cá - một cảnh tượng tràn đầy sôi nổi và nhanh chóng:
Thuyền của chúng ta chèo gió với buồm trăng
Phiêu lưu giữa đám mây cao với biển bạc
Đến đậu ở nơi xa vời, khám phá biển lớn
Chuẩn bị sẵn sàng, tổ chức thế trận lưới, sự sẵn lòng đánh bắt cá
Một tư thế, một vóc dáng lớn lao, thậm chí vẻ hùng vĩ không kém cùng với vũ trụ:
Chèo lái thuyền bằng gió với buồm trăng
Bay lượn giữa mây cao cùng biển mênh mông.
Không chỉ là sự kỳ vĩ của tự nhiên, đó còn là một không gian mở, rộng lớn, vừa lãng mạn vừa đầy thơ mộng với biển cả, ánh trăng, vì sao, đám mây và gió. Hành trình ra khơi được miêu tả bằng cách tài của nhà thơ trở nên phong phú, với hình ảnh của một đoàn thuyền hùng mạnh như một đội quân sẵn sàng ra trận. Bằng cách viết lãng mạn và sâu sắc, cùng với sự sáng tạo và sức sống của từng bức vẽ, nhà thơ đã tạo ra vẻ đẹp đặc biệt cho đoạn thơ và cả bài thơ này.
Kế hoạch phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá
I. Bắt đầu phân tích khổ 3 trong Đoàn thuyền đánh cá:
Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ về đoàn thuyền đánh cá.
Giới thiệu nội dung cần phân tích – đoạn thơ thứ 3 trong bài.
II. Tiếp theo, thân bài phân tích khổ 3 trong Đoàn thuyền đánh cá:
a. Phân tích khổ thơ:
Thuyền lái gió buồm trăng
Lướt giữa mây cao và biển bằng,
Ra đậu dặm xa tìm bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Nghệ thuật phóng đại “Lướt giữa mây cao và biển bằng”- con thuyền đánh cá nhỏ bé giờ đây vươn lên cao như vũ trụ trong tầm nhìn của tác giả.
Nghệ thuật ẩn dụ: “lái gió buồm trăng”: sự hòa hợp của con người với thiên nhiên trong lao động
Các biện pháp nghệ thuật trên nhấn mạnh tầm vóc của con người và đoàn thuyền.
Không khí lao động trở nên hứng khởi “Ra đậu dặm xa tìm bụng biển”- dù trong đêm tối, dưới cơn gió khơi, người dân chài vẫn ra khơi tìm kiếm lồng cá trong lòng biển.
Ẩn dụ: “Dàn đan thế trận”- cuộc sống đánh cá của người dân chài giống như một cuộc chiến đấu gay go.
sự kết hợp giữa thực tế (đoàn thuyền) và tình yêu lãng mạn (thuyền lái gió, trăng treo trên cánh buồm) tạo ra những dòng thơ đẹp và sâu sắc
Con thuyền đặc biệt, hòa mình vào tự nhiên, biển trời.
Hình ảnh tuyệt vời, mộng mơ, mô tả hoạt động đánh cá như một trận chiến hùng vĩ, phản ánh sự khéo léo, tinh thần phiêu lưu khi chinh phục biển cả
b. Đặc sắc nghệ thuật:
Hình ảnh thơ sống động, sự liên tưởng phong phú.
Sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá, ẩn dụ độc đáo.
Cảm hứng lãng mạn và tráng lệ.
III. Tóm lại phân tích khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá:
Xác nhận giá trị của nội dung và nghệ thuật trong đoạn thơ.
Chia sẻ cảm nhận cá nhân.
Cảm nhận khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 2
Năm 1958, trong bầu không khí phấn khích của cả miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà thơ Huy Cận, trong một chuyến đi thực tế tại vùng biển Quảng Ninh, đã sáng tác bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Với sự phô diễn vừa sôi động, vừa phơi phới, bài thơ tôn vinh vẻ đẹp của biển quê hương và tinh thần lao động nhiệt huyết, phấn khởi của những người lao động giải phóng sẵn sàng đóng góp cho đất nước.
Khởi đầu của khổ thơ thứ ba là hình ảnh của đoàn thuyền lướt trên biển rộng với cảm giác sảng khoái đầy lạ thường:
Thuyền chúng ta chèo gió với buồm treo dưới trăng
Lướt giữa mây cao với biển rộng lớn,
Ra đậu ở xa, dò sâu bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây nơi biển mênh mông.
Lời thơ vẽ ra một cảnh vật lãng mạn với bầu trời xanh mây trắng và biển cả bao la. Hình ảnh đoàn thuyền trở nên tuyệt đẹp với sự kỳ lạ của trí tưởng tượng, khiến cho thuyền trở thành một phần của thiên nhiên, hoà mình vào không gian mơ mộng của biển, trăng, mây, gió.
Từ từ “lướt” phản ánh hình ảnh đoàn thuyền ra khơi với tốc độ phi thường, trong khi thiên nhiên đồng hành cùng con người trong hành trình lao động và khám phá. Việc thả thuyền ra khơi diễn ra nhẹ nhàng, thoải mái, đậm đà năng lượng chỉ có ở những người đã thoát khỏi cuộc sống nô lệ, có quyền tự do sản xuất, làm chủ đất trời, sông biển. Cuộc lao động không chỉ là một cuộc du ngoạn mà còn là một cuộc chiến đấu với thiên nhiên bằng trí tuệ và kỹ năng nghề nghiệp. Nhịp thơ ngập tràn sức sống.
Ngoài sự thong thả, thoải mái của người dân chài, chúng ta cũng cảm nhận được gánh nặng của người lao động. Họ phải vượt qua hàng dặm biển vào ban đêm, 'dò bụng biển', tìm kiếm bãi cá, và 'dàn đan thế trận' để bắt cá. Lúc này, mỗi ngư dân trở thành một chiến binh trên biển, với con thuyền, mái chèo, lưới, và các dụng cụ khác là vũ khí của họ. Huy Cận đã có sự hiểu biết sâu sắc về nghề cá lưới này và lòng thông cảm với người lao động, tạo nên một bức tranh thực tế và lãng mạn đồng thời.
Đoàn thuyền đánh cá thể hiện niềm đam mê lãng mạn với biển cả vĩ đại, đẹp đẽ và tôn vinh lòng nhiệt huyết lao động cho đất nước tươi đẹp của những người lao động. Khổ thơ thứ ba đã thành công trong việc tái hiện hình ảnh tuyệt vời, tráng lệ, thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, đồng thời làm lộ rõ lòng tự hào của tác giả trước sự tái sinh của đất nước và cuộc sống con người.
Cảm nhận khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 3
Sau Cách mạng tháng Tám, Huy Cận chuyển từ một tâm hồn thơ về cá nhân u sầu - “một dòng sầu chảy về ngàn năm trong lòng đất này” (Hoài Thanh), sang việc tôn vinh sự hòa hợp, niềm vui và sự hòa nhập với cuộc sống mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời năm 1958, trong bối cảnh miền Bắc nước ta giải phóng và hướng tới chủ nghĩa xã hội, khiến cho không khí phấn khích và hào hứng lan tỏa khắp nơi.
Ngoài cảnh thiên nhiên biển đẹp mê hồn và giàu phong phú, bài thơ còn thành công trong việc miêu tả hình ảnh của người lao động đánh bắt cá đầy sức sống, khỏe mạnh, hạnh phúc và đầy nhiệt huyết trong công việc. Đây là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ, thể hiện thông qua sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và hấp dẫn. Bản nhạc chung của bài thơ: khỏe mạnh, hạnh phúc, hùng tráng, và lạc quan mạnh mẽ.
Trong khổ thơ thứ 3, với sự quan sát tinh tế và cảm hứng vũ trụ mạnh mẽ, Huy Cận đã tái hiện lại cảnh đánh cá trên biển trong đêm trăng với sự hào hứng, mạnh mẽ và thơ mộng của người lao động.
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Dưới sự tưởng tượng bay bổng, hình ảnh con thuyền đánh cá hiện lên đẹp đẽ, độc đáo, mang tầm vóc vũ trụ: người lái thuyền như là gió trời; cánh buồm như là vầng trăng và con thuyền lướt giữa không gian (lướt giữa mây cao), như có thể chạm vào mây trời.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Ở đây, con thuyền không nhỏ bé, đơn độc mà lại rất lớn lao, như vươn tới sao trời trước biển rộng bao la. Bức tranh không gian của biển cả mở rộng ra ba chiều: chiều cao của mây, chiều sâu của bụng biển và chiều rộng của biển khơi tôn thêm tầm vóc lớn lao của con thuyền và con người lao động.
Các động từ dày đặc như “lái – lướt – đậu – dò – dàn đan – vây giăng” diễn tả hành động đánh cá rất nhanh, rất khẩn trương của đoàn thuyền đánh cá. Hình ảnh “dàn đan thế trận” là một ẩn dụ cho hành động đánh cá của ngư dân.
Vì vậy, họ đã dẫn con thuyền ra khơi xa, dò bụng biển để tìm cá lớn. Con thuyền hiện lên như là những con tuấn mã, băng băng lướt qua sóng đèo, chinh phục tự nhiên. Ngư dân làm việc với tinh thần dũng cảm, hăng say và trí tuệ nghề nghiệp, với một tâm hồn phơi phới của người làm chủ thiên nhiên, vũ trụ.
Nét nghệ thuật đặc sắc và nổi bật của 'Đoàn thuyền đánh cá' là hình ảnh thơ. Bài thơ được tạo thành từ nhiều hình ảnh đẹp, đa dạng, và tinh tế với nhiều màu sắc. Khổ thơ thứ 3 có những hình ảnh đặc sắc, mới lạ, được sáng tạo từ sự quan sát và cảm nhận chính xác về sự vật kết hợp với sự liên tưởng và trí tưởng tượng mạnh mẽ cùng với cảm hứng lãng mạn.
Phương thức nghệ thuật chủ yếu để xây dựng hình ảnh trong khổ thơ này là so sánh và ẩn dụ, tượng trưng, và lối phóng đại, khoa trương. Các yếu tố như lời thơ, nhịp điệu, vần… cũng tạo ra âm hưởng giọng điệu khỏe khoắn, tươi vui, mạnh mẽ, góp phần làm nên một bức tranh lao động đẹp, sống động.
Tóm lại, với cảm hứng lãng mạn, nhà thơ đã phác họa thành công hình ảnh người lao động với niềm vui phấn khởi của họ trong cuộc sống mới. Bài thơ có thể coi là một bản tráng ca anh hùng lao động tuyệt vời, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống mới trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam trong những năm đầu lịch sử.
Cảm nhận khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 4
Huy Cận là một trong những tên tuổi nổi tiếng của phong trào Thơ Mới, trước cách mạng ông được mệnh danh là nhà thơ của vạn lý sầu. Sau cách mạng, với sự giác ngộ lý tưởng của Đảng, Huy Cận đã tìm thấy ánh sáng cho mình, những vần thơ thời kì sau tràn ngập niềm tin vào con người mới, cuộc sống mới. Đoàn thuyền đánh cá là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ tài hoa, cho những biến chuyển sau cách mạng của ông.
Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng biển Quảng Ninh. Tác phẩm được in trong tập Trời mỗi ngày lại sáng. Bài thơ vẽ lên không khí lao động nhộn nhịp khẩn trương của những ngư dân. Nổi bật trong tác phẩm là khổ thơ thứ 3 với bút pháp lãng mạn khoa trương hình ảnh con người lớn lao kì vĩ hiện lên trong cảnh đánh bắt cá trên biển:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Sau khi giới thiệu đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh tráng lệ, kì vĩ, nhà thơ đã mô tả cảnh đánh cá ngoài khơi. Khổ thơ là một bức tranh tài hoa về biển trời, sông nước, một khung cảnh biển đêm đẹp sống động, khoáng đạt, rực rỡ sắc màu. Con người hiện lên trong tư thế chủ động, dạt dào niềm tin, niềm lạc quan yêu đời. Bút pháp lãng mạn của Huy Cận đã phác họa một khung cảnh kỳ vĩ, phóng khoáng, với con người là tâm điểm của bức tranh.
Trên nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Hai tiếng “thuyền ta” vang lên một cách kiêu hãnh, tự hào. Thuyền có lái, buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong đêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé nhưng qua cảm hứng vũ trụ trở nên kỳ vĩ, khổng lồ, sánh ngang với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, con người dần hiện lên trong tư thế làm chủ:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển thu hẹp lại để con người “ra đậu dặm xa”, “dàn đan thế trận” và “dò bụng biển” để tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt như một trận chiến, mỗi người lao động như một chiến sĩ.
Như vậy, bằng ngòi bút tài hoa của mình, trong khổ thơ thứ 3 của “Đoàn thuyền đánh cá” tác giả đã phác họa một chuyến ra khơi đầy thắng lợi với những hình ảnh sinh động và đẹp đẽ. Đồng thời qua đây cũng thể hiện niềm tin của nhà thơ vào một tương lai tươi sáng của đất nước trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Cảm nhận khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 5
Năm 1958, sau khi hoà bình được thiết lập lại ở miền Bắc, Huy Cận trải qua một chuyến đi thực tế tại Hòn Gai. Trong chuyến đi đó, ông chứng kiến tinh thần lao động, sự hăng say và niềm vui phấn khởi của con người trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là động lực cho ông viết tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận được truyền cảm hứng bởi hai nguồn là cảm hứng lãng mạn và cảm hứng vũ trụ. Bài thơ được sáng tác khi miền Bắc bắt đầu thời kỳ xây dựng mới với niềm vui, niềm hào hứng của những người lao động tự do. Ở biển Hòn Gai, những ngư dân đã hòa mình vào niềm vui, hăng say ra khơi. Đó là lý do tại sao Đoàn thuyền đánh cá được coi là một bài hát ca ngợi người lao động trên biển.
Trong khổ thơ thứ 3, nhà thơ đã mô tả khung cảnh mà đoàn thuyền bắt đầu công việc của mình. Trong không gian rộng lớn của biển, trời, trăng, sao, con thuyền hiện lên nhỏ bé nhưng tại đây, nó lại trở thành một con thuyền lớn lẻo hoà nhập với thiên nhiên, vũ trụ:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Bằng bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã vẽ lên một hình ảnh đẹp kỳ vĩ. Con thuyền của người ngư dân giờ đây được gió cầm lái, ánh trăng trở thành cánh buồm, con thuyền như được bay cao, chạm tới tận trời cao, vũ trụ thênh thang. Và những người ngư dân, họ là những anh hùng của biển cả. Giữa biển cả to lớn ấy, họ trở thành chủ nhân, “ra” tận “dặm xa” để thăm dò luồng cá rồi “dàn đan thế trận” để đánh bắt cho khoang đầy.
Nhịp thơ bảy chữ với tiết tấu nhanh, mạnh mẽ, dồn dập giọng điệu sôi nổi, say mê đã khiến bài thơ trở thành một khúc ca vang vọng trong lòng mỗi chúng ta. Trong khổ thơ thứ 3, Huy Cận còn sử dụng nhiều hình ảnh liên tưởng phong phú để thể hiện niềm vui, sự yêu đời, lạc quan cũng như tình yêu cuộc sống và niềm vui được làm chủ cuộc đời.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá kết thúc nhưng âm vang của nó vẫn tiếp tục vang mãi trong lòng chúng ta. Bởi trong đó chứa đựng kỳ tích của những người ngư dân biển, của những con người dũng cảm đương đầu với thiên nhiên để tạo ra những kỳ tích tuyệt vời. Có thể khẳng định rằng Đoàn thuyền đánh cá là một khúc hát ca ngợi người lao động trên biển.
Cảm nhận khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 6
Nổi tiếng từ phong trào Thơ mới, Huy Cận đến với thơ với những lời thơ sâu lắng mang theo nỗi buồn của nhân loại, đầy sầu muộn. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hẻo lánh, đẹp nhưng thường u buồn. Nỗi buồn ấy dường như vô lý, phi thực tế. Nhưng cuối cùng, nó vẫn là nỗi buồn về cuộc sống, về con người, về quê hương đất nước. Hồn thơ u buồn, lạc lõng ấy vẫn cố gắng tìm kiếm sự hòa hợp và nhịp sống tĩnh lặng trong tạo vật và cuộc sống.
Sau Cách mạng, thơ Huy Cận tràn đầy niềm vui, là bài ca hạnh phúc về cuộc sống, là bài thơ yêu thiên nhiên, yêu con người và yêu cuộc sống. Ông tìm thấy nguồn cảm hứng từ cuộc sống mới của dân tộc và sự sáng tạo nồng nhiệt. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một trong những tác phẩm nổi bật của ông trong giai đoạn này.
Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc với chiến thắng, miền Bắc được giải phóng và bắt đầu xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui trước cuộc sống mới đang hình thành. Đất nước, vốn đã trải qua những biến động lớn, trở thành nguồn cảm hứng lớn cho thơ ca thời kỳ đó.
Nhiều nhà thơ đã đến các vùng đất xa xôi của Tổ quốc để sinh sống và sáng tác. Tố Hữu, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Tuân đã đến với núi rừng, nhà máy, nông trang... Huy Cận đã có một chuyến đi thực tế kéo dài ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi đó, hồn thơ của ông đã thực sự được tái sinh và tràn đầy cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
Xuyên suốt bài thơ là bút pháp sáng tạo lãng mạn, bay bổng, đầy cảm xúc vũ trụ. Thi phẩm đã để lại nhiều dấu ấn thú vị, ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ khám phá vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng, với niềm vui phấn khởi, mạnh mẽ khi con người làm chủ cuộc sống, làm chủ biển trời quê hương. Khổ thơ thứ ba là cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng:
“Thuyền của chúng ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa đám mây cao trên biển bằng,
Ra đậu dặm xa để tìm kiếm trong bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Con thuyền trôi trên biển dường như không cần sức của con người. Gió đã dẫn dắt con thuyền đi. Gió là người lái thuyền giúp cho nó. Ánh trăng trên cao đã trở thành cánh buồm của nó. Nếu nhìn từ xa, con thuyền dường như đang bay trong một không gian vĩ đại với gió, với ánh trăng không khác gì một huyền thoại. Con thuyền mạnh mẽ tiếp tục chuyến đi như không có chướng ngại vật nào.
Huy Cận đã ca ngợi con thuyền đánh cá, nâng nó lên một tầm cao lớn, vĩ đại, sánh ngang với vũ trụ. Cảm xúc vũ trụ đã nâng cao tâm hồn Huy Cận, khiến cho câu thơ của ông cất lên. Vai trò của người lao động cũng được tôn vinh lên cao trong tư thế tự chủ. Họ sẵn sàng chi phối thiên nhiên, chi phối công việc, chi phối cuộc sống. Họ tự tin “dò bụng biển”; họ nhanh chóng “dàn đan thế trận” để bắt được luồng cá.
Ý thơ đã nâng tâm hồn chúng ta với cảm xúc hân hoan sảng khoái. Hình ảnh thơ tạo ra sự liên tưởng độc đáo. Đoàn thuyền đánh cá là cầu nối kết nối giữa biển và trời, đồng thời kết hợp với giai điệu lao động của con người. Lãng mạn nhưng không xa rời hiện thực. Câu thơ miêu tả rất chân thực hoạt động đánh bắt cá của ngư dân vừa khéo léo vừa tài tình. Huy Cận tập trung vào công việc lao động đánh cá với nhiều vất vả, mệt mỏi.
Huy Cận cũng đã so sánh những ngư dân ngày nay như những chiến binh, những nhà thám hiểm vĩ đại của đại dương. Họ đang chiến đấu cùng biển cả, khám phá và chinh phục thiên nhiên hung dữ. Công việc lao động trên biển giống như một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm việc với lòng dũng cảm, sự hăng say, trí tuệ nghề nghiệp và tâm hồn sáng sủa.
Thành công của bài thơ nằm ở việc Huy Cận tạo ra hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có cảm giác mạnh mẽ, hùng vĩ, lạc quan của người lao động. Thông qua việc mô tả hoạt động đánh bắt cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá tôn vinh tinh thần lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc sống và đất nước:
“Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai trị thiên nhiên!”
(Tố Hữu)
Cảm nhận về khổ thứ 3 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 7
Huy Cận là một trong những cây bút lớn của văn học Việt Nam trong thế kỷ XX. Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận thường viết về nỗi buồn, sự cô đơn của con người trước sự vĩ đại của vũ trụ. Nhưng từ sau Cách mạng tháng Tám, khi đất nước hồi sinh, tâm hồn thơ Huy Cận như được sống lại với nhiều biến đổi. Thơ ông không còn u sầu, mơ mộng nữa mà tràn đầy niềm vui, niềm tin vào cuộc sống và những con người mới.
Năm 1958, sau một chuyến đi khảo sát thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, được sống và chứng kiến không khí lao động hăng say, khẩn trương của nhân dân ta trong những ngày xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhờ thơ vui mà ông cảm thấy mừng rỡ, xúc động. Từ đó ông sáng tác nên bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” như một bản ca ca ngợi cuộc sống mới, thiên nhiên và con người bao la rộng lớn, thơm ngát.
Khổ thứ 3 đã mô tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trong đêm với những nét vẽ hùng vĩ, tương tự như vũ trụ:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng,
Lướt giữa đám mây cao trên biển bằng
Ra đậu dặm xa để tìm kiếm trong bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
“Lái gió”, “buồm trăng” là những cách diễn đạt sáng tạo, mới mẻ đem lại cho câu thơ những hình ảnh lãng mạn, bay bổng và tráng lệ. Đọc câu thơ, người ta cảm nhận người, thuyền và thiên nhiên như hoà hợp làm một. Con thuyền ra khơi, lướt trên đám mây cao, biển bằng thật hùng vĩ và hiên ngang. Nó ra khơi không chỉ với sức mạnh của người lái mà còn được thiên nhiên ủng hộ.
Ở đây, gió trở thành bánh lái của con thuyền. Con thuyền có khả năng lái gió điều khiển nó theo ý muốn của mình. Cánh buồm nhỏ bé nhưng có thể mang theo vầng trăng trên cao trong suốt hành trình dài. Ánh trăng lung linh chiếu sáng không gian làm cho cảnh vật trở nên nên thơ, huyền ảo.
Ở đây chúng ta nhận thấy rằng con thuyền, dù ra khơi giữa bầu trời biển cả bao la và rộng lớn, nhưng không hề nhỏ bé. Nó “lướt” đi mạnh mẽ như một chiếc tuấn mã băng băng tiến về phía trước mà không có sự sợ hãi. Xung quanh nó là gió và trăng làm bạn đồng hành. Đó là một cảnh tượng thật đẹp, hùng vĩ và nên thơ.
Trước Cách mạng tháng Tám, thơ của Huy Cận thường ngập tràn trong nỗi buồn. “Chàng Huy Cận xưa kia thường buồn”. Nhưng trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, bức tranh buồn tủi và bi quan đó không còn nữa. Thay vào đó, là một tâm hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống, tràn đầy niềm tin vào tương lai, vào sức mạnh của con người và quê hương đất nước đang chuyển biến mạnh mẽ. Tất cả đều phản ánh một cái gì đó tràn đầy sức sống, mạnh mẽ và hiên ngang, khi con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên và cuộc sống của mình.
Trong khổ thơ thứ 3, người đọc ghi nhận về những hình ảnh thơ độc đáo, sáng tạo, giàu chất tạo hình và gợi lên nhiều cảm xúc trong lòng. Bài thơ kết hợp hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa với nhau: cảm hứng từ thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng từ cuộc sống lao động của con người trong thời đại mới.
Sự đồng nhất giữa hai nguồn cảm hứng này được thể hiện thông qua cấu trúc và hệ thống hình ảnh trong bài thơ. Không gian của bài thơ là một không gian rộng lớn, kỳ vĩ với trời, biển, trăng, sao, sóng và gió; đồng thời cũng là không gian của cảnh lao động được nhìn từ góc độ tràn đầy hứng khởi của nhà thơ Huy Cận.
Cảm nhận về khổ thứ 3 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 8
Huy Cận là một nhà thơ đáng chú ý của phong trào Thơ mới. Trong số các tác phẩm nổi tiếng của ông, không thể không kể đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Khi đọc tác phẩm này, độc giả sẽ cảm nhận được vẻ đẹp tráng lệ và sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, thể hiện niềm vui và niềm tự hào của nhà thơ về đất nước.
Trong khổ thứ 3, khung cảnh đánh cá được nhà thơ miêu tả một cách sống động và ấn tượng:
“Thuyền của chúng ta lái gió cùng buồm trăng
Lướt trên đỉnh mây cao với biển bằng,
Đi xa dò bụng biển để đậu
Và dày công dựng thế trận lưới vây giăng”
Toàn bộ khổ thơ như một bức tranh lộng lẫy. Hình ảnh: gió, trăng, mây tạo nên bức tranh rực rỡ bằng ngôn từ sáng tạo. Đặc biệt, hình ảnh “thuyền lái gió cùng buồm trăng” không chỉ thực tế mà còn mang vẻ đẹp lãng mạn. Thiên nhiên cũng đóng vai trò quan trọng trong công việc của ngư dân. Cách diễn đạt “lướt trên đỉnh mây cao với biển bằng” tạo ra hình ảnh thuyền lướt như tấm ván khổng lồ giữa vũ trụ rộng lớn.
Công việc lao động diễn ra cả trong đêm: “Đi xa dò bụng biển để đậu” – dù là ban đêm tối tăm, ngư dân vẫn cần cù với công việc của mình. Việc đánh cá giống như một trận chiến, đòi hỏi người ta phải sử dụng trí tuệ để đối phó với thiên nhiên. Điều này cho thấy tinh thần lạc quan và hăng hái của con người.
Với bút phú về vũ trụ, sử dụng hình ảnh thơ phong phú, vui vẻ và hùng hồn để thể hiện niềm vui và lòng say mê lao động. Bằng cách linh hoạt sử dụng các biện pháp như so sánh, nhân hóa, liệt kê,..., bức tranh biển cả trở nên phong phú và tuyệt vời hơn.
Có thể nói, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài hát lao động đầy cảm hứng và hào hùng. Đọc khổ thơ thứ 3 của tác phẩm, chúng ta có thể cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và sự giàu có của biển cả. Bài thơ đã thành công trong việc tái hiện vẻ đẹp phong phú của biển và cuộc sống lao động đầy nhiệt huyết của nhân dân trong thời kỳ mới. Tác giả khẳng định sự hồi sinh của thiên nhiên, đất nước và con người sau chiến tranh, khi họ đứng lên xây dựng cuộc sống mới, ấm no và hạnh phúc.
Cảm nhận về khổ thứ 3 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 9
Có người từng cho rằng: một trong những nguồn cảm hứng quan trọng của thơ là cuộc sống lao động của nhân dân. Điều này hoàn toàn đúng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, như được tái hiện trong khổ thơ:
Thuyền của chúng ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao và biển bằng
Ra khơi dặm xa, khai phá bụng biển
Dàn đan thế trận, vây cá giăng lưới
Con thuyền đánh cá ban đầu nhỏ bé trước sự bao la của biển trời, nhưng nay đã trở thành một biểu tượng kì vĩ, mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền được lái bởi gió, điều khiển bởi trăng, buồm thuyền như buồm trăng, lướt qua mây cao và biển bằng, với tất cả sức mạnh để chinh phục biển cả, chinh phục thiên nhiên. Hình ảnh của thuyền lướt nhanh, mạnh mẽ trên biển được mô tả qua từ 'lướt giữa mây cao và biển bằng', đẩy lên tầm cao mới, sánh ngang với vũ trụ. Thuyền không chỉ ra khơi để đánh bắt cá, mà còn là để thể hiện sự am hiểu, thông minh của người dân chài, sự kiên cường và kinh nghiệm chiến đấu trong cuộc sống.
Cảm nhận về khổ thứ 3 của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 10
Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận viết:
Thuyền của chúng ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao và biển bằng
Ra khơi dặm xa, khai phá bụng biển
Dàn đan thế trận, vây cá giăng lưới
Khổ thơ đã thành công trong việc miêu tả hình ảnh của đoàn thuyền ra khơi đánh cá. 'Thuyền của chúng ta lái gió với buồm trăng' mang lại sự lãng mạn, tinh thần lao động, và sự hòa mình với thiên nhiên của ngư dân. 'Lướt giữa mây cao và biển bằng' thể hiện sự sục sôi, hào hứng của những người này trong việc đánh cá và mang về những mẻ cá nặng tay. Hai câu thơ cuối đã tạo nên một hình ảnh sống động về cuộc sống của ngư dân.
Cảm nhận khổ thứ 3 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 11
'Ra khơi dặm xa, tìm kiếm ngay chính giữa lòng biển
Dàn đan thế trận, mạng lưới bủa vây sâu dưới đáy biển'
Đó là những câu thơ lãng mạn, lý tưởng hóa, miêu tả cuộc sống của ngư dân. Họ phải đánh cá ở xa để tìm thấy nhiều cá hơn. Họ như những chiến binh sẵn sàng chiến đấu, sử dụng mưu lược để bắt cá. Tác giả đã thành công trong việc diễn đạt sự hào hứng và sự lãng mạn của ngư dân.
Cảm nhận khổ thứ 3 Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 11
Thuyền lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra khơi dặm xa, tìm kiếm ngay chính giữa lòng biển
Dàn đan thế trận, mạng lưới bủa vây sâu dưới đáy biển
Khí thế của người đánh cá giữa biển đêm thật kiêu hùng. Trí tưởng tượng của tác giả đã tạo ra những hình ảnh đẹp, đầy cảm xúc về đoàn thuyền đánh cá. Con thuyền lái gió giữa biển trời, cánh buồm vẫn làm bạn với gió trăng. Hình ảnh này thể hiện sự hùng vĩ và nên thơ của con người ở giữa thiên nhiên.
Lướt giữa mây cao và biển bằng
Người lao động ra đi với quyết tâm chinh phục thiên nhiên và làm cho thiên nhiên ngày càng tươi đẹp. Câu thơ với biện pháp nhân hóa đã biến con thuyền thành người tìm kiếm tài nguyên của biển để phục vụ cuộc sống.
Khơi ra dặm xa, tìm kiếm ngay bên trong lòng biển
Dàn đan thế trận, mạng lưới bủa vây sâu dưới đáy biển.
Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá được mô tả như một chiến trận, để thu bắt những gì biển đã ban tặng cho chúng ta. Đoạn thơ mở đầu với không gian và thời gian của một cuộc đánh cá tạo ra bối cảnh hùng vĩ và nên thơ cho toàn bộ bài thơ. Bút pháp liên tưởng lãng mạn nhưng đầy cảm xúc đã làm cho người đọc cảm thấy hào hứng và tự hào trước sự hào phóng của thiên nhiên mà họ cố gắng chinh phục để làm giàu cho đất nước.