Bài Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Hay Nhất, Súc Tích bao gồm Dàn Ý Chi Tiết, Sơ Đồ Tư Duy và Các Mẫu Văn Được Tổng Hợp và Lựa Chọn Từ Những Bài Văn Xuất Sắc Đạt Điểm Cao Của Học Sinh Lớp 9 sẽ Giúp Bạn Phát Huy Tài Năng Viết Văn.
Danh Sách Top 40 Phân Tích Viếng Lăng Bác (Hay, Súc Tích)
Bài Mẫu Phân Tích Viếng Lăng Bác - Mẫu 1
Con từ Miền Nam về thăm lăng Bác
Mỗi ngày mặt trời lặn dần trên lăng
Thấy một bóng mặt trời đỏ rực bên trong lăng.
Hàng ngày, hàng người đi qua mang theo lòng nhớ thương
Hoa kết đoàn, đậm sắc bảy mươi chín mùa xuân.
Viễn Phương tài tình, thông qua từ ngữ “Dâng”, đã truyền đạt được rất nhiều tình cảm, tình nghĩa. Không nói về tuổi tác bằng “bảy mươi chín mùa xuân” thể hiện một cách diễm lệ và thơ mộng.
Khổ thơ thứ ba mô tả về sự bất diệt vĩnh hằng của Bác, như một giấc ngủ bình yên dưới ánh trăng, mang lại cảm giác đau đớn và xúc động sâu sắc cho độc giả.
Khổ thơ cuối cùng phản ánh cảm xúc lưu luyến, buồn thương của nhà thơ sau khi viếng lăng Bác, cùng với ước muốn hóa thân thành chim hót hoặc cây tre trung hiếu để đền ơn đáp nghĩa Người.
Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác
a) Bắt Đầu Bài Thơ
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm:
+ Viễn Phương là một nhà thơ mà dòng máu chiến sĩ chảy trong tim, người sống và đấu tranh bên cạnh những người dân miền quê trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ xâm lược.
+ Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và xúc động sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ khi đến viếng lăng với sự trang trọng và tha thiết, thể hiện lòng biết ơn và tình yêu thương vô hạn dành cho Bác.
b) Phần Chính của Bài Thơ
* Cảm Xúc Trước Lăng Bác
- Tâm trạng chân thành, giản dị của nhà thơ Viễn Phương thể hiện sự nhớ nhung, lòng biết ơn sâu sắc đối với Bác Hồ của người dân miền Nam.
“Con từ miền Nam về thăm lăng Bác”
+ Câu thơ hé lộ tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam, mong mỏi suốt bao nhiêu năm, giờ đây được đến viếng lăng Bác.
+ Việc sử dụng đại từ xưng hô “con” tạo ra sự gần gũi, thân mật, diễn đạt tâm trạng của một người con khi đến thăm cha sau nhiều năm dài mong mỏi.
+ Bằng cách sử dụng từ ngữ giảm nói tránh và từ “thăm”, tác giả nhẹ nhàng giảm bớt sự đau đớn của sự mất mát, cũng như diễn đạt sự mong đợi và tình thân thiết của mình.
- Hình ảnh hàng tre là một biểu tượng đa nghĩa.
+ Hình ảnh hàng tre, với tính tượng trưng, gợi lên những hình ảnh quen thuộc của làng quê, biểu tượng của dân tộc.
+ Cây tre là biểu tượng của sự kiên trung, thẳng thắn, và tinh thần của người Việt Nam.
+ Từ “Ôi” thể hiện niềm kính phục, biểu lộ sự xúc động và tự hào về phẩm chất mạnh mẽ, trực tính của dân tộc.
* Cảm xúc khi nhìn thấy dòng người vào lăng
- Trong khổ thơ thứ hai, tác giả tạo ra một cặp hình ảnh song đôi: mặt trời rực rỡ và hình ảnh của Bác.
+ Tác giả ẩn dụ bằng hình ảnh mặt trời để diễn đạt về Bác, nguồn sáng và niềm vui, ấm no cho dân tộc.
- Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ diễn tả sự xúc động, tiếc thương và kính trọng của người dân khi đến viếng lăng.
- Hình ảnh 'kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân' biểu hiện sự kết tinh tươi đẹp.
+ Đoàn người đến viếng Bác không chỉ là hình ảnh thực tế mà còn là biểu tượng sáng tạo, đẹp đẽ của nhà thơ, thể hiện cuộc sống của dân tộc ta được phát triển dưới sự lãnh đạo của Bác.
+ 'Bảy mươi chín mùa xuân' là hình ảnh ẩn dụ về tuổi đời của Bác, cuộc sống của Người dành cho sự nghiệp của đất nước và dân tộc.
* Tình cảm khi bước vào lăng
- Sự biết ơn sâu sắc dần chuyển thành nỗi xúc động khi tác giả nhìn thấy Bác:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Trong ánh trăng dịu dàng
+ Ánh sáng nhẹ nhàng trong lăng đem lại những tưởng tượng đầy thú vị: “vầng trăng sáng dịu dàng”
+ Hình ảnh vầng trăng luôn kết hợp với vần thơ của Bác, gợi lên cảm xúc sâu sắc và tâm hồn thanh cao của Người
+ Bác thể hiện sự hòa quyện giữa vĩ đại và giản dị, tạo nên một hình ảnh thanh thản và gần gũi
- Nhà thơ xúc động, đau lòng trước sự ra đi vĩnh viễn của Người:
Vẫn biết trời xanh là vĩnh viễn
Mà lòng như gió luồn sâu
+ Dù Người đã ra đi, nhưng sự vĩnh viễn đó được thể hiện qua thiên nhiên, qua hình ảnh của quê hương, tương tự như lời của Tố Hữu: “Bác sống như trời đất của ta”
+ Nỗi lòng “như gió luồn sâu” của tác giả thể hiện sự đau đớn, sự nhức nhối trong tâm hồn khi đối diện với di hài của Người, đó là sự rung động chân thành của nhà thơ.
* Cảm xúc khi chuẩn bị từ biệt
- Cuộc chia ly đầy tiếc nuối, nước mắt của tác giả tuôn trào
+ Sau khi trở về miền Nam, nước mắt lưu trào: như một lời tạm biệt đặc biệt, diễn đạt tình cảm sâu lắng, chân thành
+ Cảm xúc “trào dâng” niềm tiếc nuối, quyến luyến, không muốn xa rời
+ Mong muốn chân thành hóa thân thành “chim”, “cây tre”, “đóa hoa” để gần gũi với Bác
+ Từ “muốn làm” thể hiện trực tiếp và gián tiếp sự lưu luyến của nhà thơ
- Hình ảnh cây tre kết thúc bài thơ một cách tinh tế, cây tre trung hiếu được nhân hóa mang đặc tính trung hiếu của con người
+ “Cây tre trung hiếu” thể hiện bản tính của con người Việt Nam, trung hiếu, kiên định, không khuất phục, đồng thời cam kết sống trách nhiệm với lý tưởng của Người.
c) Kết bài
- Viếng lăng Bác là một bài thơ đẹp và gây xúc động trong lòng độc giả. Nhân dân Việt Nam biểu lộ lòng trung thành và xúc động với con đường cách mạng mà Bác đã dẫn dắt.
- Bằng giọng điệu trang trọng và tha thiết, hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, và ngôn ngữ bình dị, hàm súc.
Sơ đồ Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác
Phân tích Viếng Lăng Bác - mẫu 2
'Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.'
Niềm mong đợi và hy vọng của những người dân miền Nam với Bác khi đến thăm không còn nữa! Bác đã ra đi mãi mãi, để lại niềm tiếc thương sâu sắc trong lòng mỗi người con Nam Bộ. Viễn Phương - một nhà thơ trẻ miền Nam - có dịp vinh dự được thăm lăng Bác. Tác giả đã thể hiện tình cảm của mình khi đứng trước Người, người cha già của dân tộc. Xúc động tận sâu trong lòng, Viễn Phương viết bài 'Viếng lăng Bác'. Đó là một bài thơ gợi lên trong ta những cảm xúc sâu sắc nhất.
Cảm xúc đầu tiên mà tôi cảm nhận được từ bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam Bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ cùng Bác nỗi mong chờ và mong đợi Bác vào thăm.
Xúc động dạt dào, mở đầu bài thơ, tác giả viết:
'Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre! Xanh xanh Việt Nam'
Tình cảm của nhà thơ rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người chiến sĩ miền Nam được ra thăm lăng Bác là một điều rất vinh dự. Nhưng không vì thế mà giảm mất tình yêu thương của tác giả đối với Bác. Câu thơ ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật 'con'. Bởi tất cả mọi người đều là những người con trung hiếu của Bác, xem Bác như 'là cha, là bác, là anh'. Tình người bao la, giản dị, tình dân tộc đằm thắm mến yêu. Đoạn thơ đã tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi.
Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, hình ảnh thân thuộc của đất nước để mở bài thơ rộng hơn. Xa hơn nhưng cũng gần gũi hơn bao giờ hết. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta lại nghĩ tới đất nước, tới dân tộc Việt Nam với bao đức tính cao quý. Tre anh dũng trong chiến đấu, tre yêu thương giúp đỡ dân tộc, tre hi sinh cho thế hệ mai sau và tre cũng rất anh hùng bất khuất:
'Này tre non đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường'
Tre đã trải qua nhiều gian khổ, chịu nhiều gian nguy nhưng vẫn kiên cường đứng thẳng giữa bão táp, như lòng dân tộc ta không bao giờ khuất phục trước kẻ thù xâm lược: 'Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng'.
Theo đoàn người, tác giả vào thăm lăng Bác, nhà thơ thấy:
'Hàng ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực đỏ.'
Độc đáo hơn, nhà thơ còn tạo ra một hình ảnh khác để tôn vinh Bác:
'Ngày ngày dòng người vẫn đi trong nhớ mong'
'Kết những hàng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.'
Hình ảnh những dòng người đi vẫn hiện hữu trong lòng nhớ mong, tạo thành những hàng hoa vô tận không chỉ là biểu tượng của sự hiện hữu mà còn là biểu tượng của cuộc sống đẹp đẽ dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa ấy đang dâng lên Bác tất cả những điều tốt đẹp nhất. 'Dâng bảy mươi chín mùa xuân' - đây là biểu tượng của cuộc sống giàu có và ý nghĩa mà con người đã tạo ra.
Nhà thơ vào lăng, thấy Bác nằm trong giấc ngủ bình yên giữa dòng sáng nhè nhẹ. Ánh sáng đó được so sánh như ánh trăng dịu dàng:
'Bác nằm trong giấc ngủ yên lành
Giữa dòng sáng mặt trăng dịu hiền
Biết rằng trời xanh sẽ mãi mãi
'Nhưng lòng như giọt máu đang rỉ máu'
Ánh sáng từ những ngọn đèn mờ trong lăng gợi cho nhà thơ một sự liên tưởng thú vị với 'ánh trăng'. Tác giả thể hiện sự hiểu biết về Bác qua liên tưởng đặc biệt đó. Trăng luôn gắn với Bác như một người bạn tri âm tri kỉ. Ánh trăng đã từng soi sáng Bác trong nhà lao, trên chiến trận, và giờ đây lại ru giấc ngủ cho Người. Với hình ảnh 'vầng trăng sáng dịu hiền', nhà thơ muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Bác như mặt trời ấm áp và như ánh trăng dịu dàng. Đó là biểu hiện của sự vĩ đại và sự nghiệp của Người.
Dù đang đứng trong lăng Bác, nhưng khi nghĩ đến việc phải rời xa Người, Viễn Phương cảm thấy bịn rịn và không muốn rời đi. Tình cảm của nhà thơ luôn sâu lắng và đau đớn. Chỉ nghĩ đến việc quay về miền Nam, tác giả đã rơi nước mắt, luyến tiếc khi phải chia tay, và không muốn rời xa nơi Bác nằm nghỉ. Tâm trạng của tác giả được thể hiện một cách giản dị nhưng đầy cảm xúc.
Tác giả thể hiện niềm thương tiếc vô hạn của nhân dân miền Nam đối với vị cha già dân tộc. Câu nói đơn giản ấy làm cho độc giả hiểu và đồng cảm với tình cảm của Viễn Phương. Viễn Phương mong ước được gần Bác, và ước nguyện của Người cũng là mong ước chung của mọi người.
'Muốn bay như chim hót quanh lăng Bác
Muốn tỏa hương như đóa hoa đây đó
Muốn trở thành cây tre trung hiếu ở đây.'
Từ ngữ 'muốn làm' được lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện ước muốn và sự tự nguyện của tác giả. Hình ảnh cây tre khép lại bài thơ một cách khéo léo, là mong ước chân thành của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim hằng ngày ca hót cho Bác yên ngủ, làm đóa hoa tỏa hương thơm, cùng với hàng ngàn đóa hoa khác tô điểm nơi Bác nghỉ. Và hạnh phúc nhất là được trở thành cây tre trung hiếu, đứng bên Bác canh giấc ngủ của Người. Những cánh hoa ấy, tiếng chim hót và cây tre trung hiếu ấy giữ cho Người giấc ngủ bình yên. Viễn Phương thể hiện mong ước của mình cũng như ước nguyện của chúng ta muốn được gần Bác để trưởng thành hơn mỗi ngày.
'Khi ở bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Chúng ta lớn lên một chút khi ở bên Người.'
Bác của chúng ta giàu lòng yêu thương, đầy lòng hi sinh và cuộc sống của Người vô cùng giản dị. Việc mất Bác cũng như mất đi một người cha vĩ đại, người luôn dành tình thương vô bờ bến cho nhân loại.
Phân tích Viếng Lăng Bác - mẫu 3
Viễn Phương là một cây bút tiêu biểu của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976, khi đất nước thống nhất và lăng Bác được khánh thành. Đây là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác, khi vào trong lăng và những ước nguyện khi ra về.
Thơ của Viễn Phương có một giọng điệu nhẹ nhàng, giàu cảm xúc, được thể hiện rõ ràng ở lời xưng hô:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã nhìn thấy hàng tre trong sương bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp Mưa sa đứng thẳng hàng
Mở đầu là lời xưng hô “con - Bác” thân mật gần gũi như người thân trong gia đình, giữa cha và con. Lời chào giới thiệu đứa con ở miền Nam ra thăm lăng Bác. Cách nói giảm nói tránh “thăm lăng Bác” dường như trong lòng Viễn Phương, Bác vẫn còn sống mãi để bây giờ đứa con xa xôi ra thăm cha. Đến với lăng Bác, nhà thơ bắt gặp hình ảnh “hàng tre trong sương xanh ngắt” bốn mùa. Hàng tre ấy được trồng quanh lăng Bác, gợi trong lòng cảm giác quen thuộc trở về với quê hương. Cây tre là loài cây bé nhỏ dẻo dai không khuất phục bão táp mưa sa. Ngắm nhìn hàng tre mà nhà thơ không khỏi bồi hồi xúc động “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”. Dòng cảm xúc trào dâng được thể hiện bằng từ “ôi” cùng nghệ thuật ẩn dụ hàng tre xanh xanh tượng trưng cho cả dân tộc Việt Nam đang quây quần bên lăng Bác.
Không chỉ nhìn thấy hàng tre, mà Viễn Phương còn nhìn thấy hình ảnh mặt trời:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Nhìn thấy một mặt trời đỏ rực trong lăng
Mỗi ngày dòng người đi với tâm thương nhớ
Kết thành tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Có thể nói người con ở miền Nam xa xôi gặp người cha kính yêu là một khao khát “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” và giờ đây ước mơ đã thành hiện thực. Bước vào lăng, dòng cảm xúc trong nhà thơ lại trào dâng khi thấy hình ảnh:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Trong vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là vĩnh cửu
Mà cảm thấy nhói như đâm vào tim.
Không khí trong lăng yên bình, Bác nằm trong giấc ngủ bình yên. Cách diễn đạt giản dị nhưng sâu lắng, thể hiện tâm trạng của nhà thơ khi đối diện với hình ảnh Bác.
Viễn Phương đầy xúc động khi phải rời lăng Bác, mong muốn được gần gũi với Bác được thể hiện qua những lời nguyện:
Muốn hót vang dưới lăng Bác như con chim
Muốn toả hương ngát như đóa hoa đâu đó
Muốn trung thành canh giữ bên lăng này như cây tre.
Nhà thơ mong muốn trở thành những điều tốt đẹp, gần gũi với Bác để góp phần làm cho nơi đây trở nên ôn hòa, yên bình hơn.
Phân tích Bài thơ Viếng Lăng Bác - Mẫu 4
Con từ miền Nam đến thăm lăng Bác
…
Mong muốn làm cây tre trung hiếu ở đây
Năm 1976, sau khi đất nước giành được hoàn toàn độc lập, lăng Bác được khánh thành. Nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam đã đến thăm lăng Bác. Tâm trạng dâng trào, ông đã viết một bài thơ chân tình, đó là lời bộc bạch của hàng triệu người miền Nam với Bác. Đây là một bài thơ đặc biệt, ý nghĩa, khiến cho người đọc bị xúc động.
Hai dòng thơ đầu tiên thể hiện cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác: một chút tự hào, niềm vui, xen lẫn xúc động khi gần gũi với Người cha yêu quý của dân tộc. Bằng những hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, ngôn từ giản dị nhưng giàu ý nghĩa, đoạn thơ đã để lại trong lòng độc giả những cảm xúc rất sâu sắc. Hai dòng thơ cuối cùng như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, truyền đạt tấm lòng yêu mến của nhà thơ dành cho Hồ Chủ Tịch. Bằng những từ ngữ ẩn dụ tinh tế, ngôn từ giản dị mà giàu ý nghĩa, câu thơ đã kích thích trong lòng độc giả những cảm xúc sâu sắc và đáng quý...
Bài thơ được chia theo cấu trúc thời gian, và hai dòng thơ đầu tiên nói về cảm xúc của tác giả khi nhìn thấy lăng Bác từ xa:
Con từ miền Nam đến viếng thăm lăng Bác
Dòng thơ đầu tiên rất ngắn gọn nhưng lại là lời tâm sự chân thành của nhà thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Tiếng “con” ấm áp, gần gũi, thể hiện lòng kính yêu sâu sắc đối với Bác. Bác thân thiện với dân, như là một người cha già của dân tộc. “Con từ miền Nam đến” - những từ ấy bao gồm một nỗi đau và một niềm tự hào. Miền Nam vất vả và dũng cảm, miền Nam dẫn đầu và phía sau, miền Nam thành đồng đội Tổ quốc, miền Nam vừa chiến thắng kẻ thù dã man rồi trở về trong lòng gia đình Việt Nam ơi! Nhà thơ ước ao được gặp Bác một lần sau khi đất nước được giải phóng nhưng tiếc thay, Bác đã ra đi. Vì thế, từ “viếng” đã được thay bằng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau cũng như bày tỏ niềm tin rằng Bác vẫn sống mãi.
Đã nhìn thấy hàng tre trong sương bát ngát
Ôi hàng tre xanh ngắt Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Thu hút sự chú ý của nhà thơ là hình ảnh hàng tre xanh trước lăng Bác. Cây tre - biểu tượng của sự kiên cường, bất khuất của người dân Việt Nam - đã ghi lại dấu ấn sâu sắc trong tâm trí tác giả trước khi bước vào lăng Bác. Hàng tre bát ngát - Hàng tre xanh ngắt - Hàng tre Việt Nam: hàng tre như là một dấu hiệu đặc biệt của dân tộc. Hàng tre tạo bóng mát rợp lên bao thế hệ, hàng tre mang đậm phẩm chất của con người Việt Nam: dẻo dai, đoàn kết, bất khuất, kiên cường. Bên lăng Bác, có tất cả những gì mà con người Việt Nam từng có, cả cái biểu tượng sự sống xanh tươi ấy, cả sự kiên cường “đứng thẳng hàng” trong “bão táp mưa sa” ấy. Dân tộc ta thật sự có sức mạnh sống mãnh liệt, dù gặp bất kỳ thử thách nào của thiên nhiên, của lịch sử cũng không bao giờ chịu khuất phục, vẫn kiên cường chống đối, và vẫn giữ vững đứng thẳng không chấp nhận bị cong. Hàng tre đứng đó, bên lăng Bác như làm cho giấc ngủ ngàn thu của Bác thêm êm đềm, mãi gắn bó với Bác như lòng người Việt Nam vẫn kính trọng Bác mãi mãi.
Gần lăng Bác, xếp hàng vào viếng, tác giả trải qua nhiều cảm xúc mới.
Mỗi ngày mặt trời lặng lẽ qua trên lăng
Nhìn thấy một mặt trời đỏ sáng trong lăng
Mỗi ngày, hàng ngàn dòng người đi qua trong nỗi nhớ thương
Kết mạch hoa dâng tặng bảy mươi chín mùa xuân…
Cùng với mặt trời lặng lẽ qua trên lăng, mỗi ngày dòng người vẫn đi qua trong nỗi nhớ thương. Điệp ngữ “mỗi ngày” thể hiện sự nhớ nhung, lòng kính trọng với công lao của Bác, mãi mãi không phai nhạt. Nhịp thơ chậm rãi, chân thành diễn tả đúng tâm trạng khi đứng trước lăng, ngẫm nghĩ về Bác đã ra đi. Tuy vậy, nhịp thơ chậm chạp như bước chân của người đi trong cuộc tưởng niệm nhưng câu thơ vẫn không buồn. Đúng vậy, chúng ta không chỉ đơn giản là tưởng niệm Bác như một người đã khuất. Dòng người này đang tiến về trong cuộc hành trình ca ngợi vinh quang của Bác. Và tràng hoa vinh quang không phải chỉ là những bông hoa thông thường như trên đời. Tràng hoa này là biểu tượng của cuộc sống, là những đứa con mà Bác đã gieo mầm suốt bảy mươi chín mùa xuân Bác trải trên thế gian. Những bông hoa trong vườn Bác đã trưởng thành, nở rộ thơm ngát, tôn vinh Bác.
Bước vào bên trong lăng Bác, thấy Người nằm đó, nhà thơ lại một lần nữa cố gắng che giấu tiếng nấc nghẹn:
Bác yên giấc trong giấc ngủ thanh bình
Giữa vầng trăng sáng dịu dàng
Trong lăng, bầu không khí êm đềm, thanh bình. Tại đây, mọi ánh nhìn chỉ dành cho hình ảnh của Bác. Bác nằm yên đó, ngủ trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác đã ra đi sao? Không đúng. Bác chỉ nằm đó, ngủ thôi, chỉ ngủ thôi! Suốt bao năm lao động vì đất nước, giờ đây đất nước yên bình, Bác cần được nghỉ ngơi. Xung quanh giấc ngủ của Bác, có một “vầng trăng sáng dịu dàng”. Đó là biểu tượng cho những năm tháng Bác làm việc, luôn có mặt trăng bên cạnh. Từ trong tù, đến bóng đêm núi rừng Việt Bắc, và rồi “nguyên tiêu”… Nhưng Bác chưa bao giờ được thảnh thơi ngắm trăng đúng nghĩa. Khi nào “trong tù không rượu cũng không hoa”, khi nào “việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên bình, vầng trăng đó mới thật sự yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu dàng, soi sáng hình ảnh của Bác. Nhìn Bác nằm ở đó thật bình yên, nhưng vẫn có một sự thật đau lòng, mặc dù ta phải chấp nhận: Bác đã ra đi mãi mãi.
Vẫn biết bầu trời xanh mãi mãi
Nhưng lòng ta vẫn đau nhói!
Bầu trời xanh bao la vô tận, không bao giờ kết thúc. Dù trí óc luôn an ủi bản thân rằng Bác vẫn sống, vẫn theo dõi Tổ quốc mãi mãi như màu xanh thanh bình trên bầu trời độc lập của Tổ quốc, nhưng lòng ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng. Từ “nhói” của nhà thơ nói lên nỗi đau, nỗi đau vượt lên mọi lý lẽ, mọi lập luận trí óc. Bác vẫn hiện diện trên mỗi mảnh đất, mỗi thành tựu, mỗi phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng Bác đã ra đi, ta không còn Bác trong cuộc sống hàng ngày. Mất Bác, sự vắng bóng đó có thể được bù đắp không? Tổ quốc ta đã không còn Bác dẫn dắt từng bước chân, không còn Bác nâng đỡ mỗi khi gặp khó khăn. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Tất cả con người Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một hình ảnh vĩ đại không thể phai nhạt. Dù Bác đã ra đi, những gì Bác đã làm vẫn sẽ sống mãi trong tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn sẽ luôn tồn tại trong trái tim của mỗi người dân Việt Nam.
Cuối cùng, dù nhớ Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng để về. Khổ thơ cuối như một lời chia tay đầy xúc động:
Mai về miền Nam, lòng đầy nước mắt nhớ thương
Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một lời “thương” từ miền Nam vang lên, nhắc nhớ về vùng đất xa xôi của Tổ quốc, nơi đã in sâu trong lòng người. “Thương” ấy là yêu thương, là biết ơn, là tôn trọng cuộc đời cao quý, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương trong lòng khi mất Bác. Thương Bác nhiều, nước mắt trào ra, đó là tình thương của người Việt Nam, vô cùng chân thành và đầy cảm xúc.
Ước ao hóa thành con chim hót vang quanh lăng Bác
Ước ao hóa thành đóa hoa tỏa hương khắp nơi
Ước ao hóa thành cây tre trung hiếu bên đây
Cùng với tình thương vô biên, tác giả thốt ra muôn vàn lời ước ao. Từ “muốn làm” là khẳng định mạnh mẽ về những ước ao ấy. Ước mong có thể biến thành hiện thực để luôn gần Bác, để mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc sống và tâm hồn của Bác, để thể hiện lòng mình với Bác. Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui bình minh của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hoặc một cây tre trong hàng tre xanh xanh Việt Nam tạo bóng mát dịu dàng, làm Bác vui và ngủ sâu hơn. Đây cũng chính là lời ước mong chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau khi viếng thăm lăng Bác. Bác ơi! Bác hãy tiếp tục ngủ trong bình yên, chúng con sẽ về miền Nam xây dựng Tổ quốc từ những nền móng Bác đã đặt! Câu thơ cuối cùng kết thúc, yên bình tĩnh lặng…
Bằng lời nói chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện niềm xúc động và lòng biết ơn sâu sắc đối với Bác trong chuyến viếng lăng Bác. Bài thơ như một lời nói chung của toàn dân Việt Nam, biểu lộ sự đau lòng khi mất Bác yêu quý. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng sự hòa bình của đất nước hiện nay phần lớn là nhờ công lao của Bác, vì vậy chúng ta phải biết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để những công lao vĩ đại của Bác không bị lãng quên.
Phân tích Viếng Lăng Bác - mẫu 5
Vì vậy, khi đọc bài thơ, như ta đang bước theo bước chân của tác giả vào lăng viếng Bác. Khổ thơ đầu tiên tập trung vào cảnh sắc bên ngoài lăng, với hình ảnh hàng tre; trong khi đó, khổ thơ thứ hai và thứ ba mô tả về dòng người không ngừng đến viếng lăng Bác, nhà thơ cảm xúc và suy tư về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Cuối cùng, khổ thơ cuối cùng thể hiện cảm xúc của tác giả khi sắp phải rời lăng Bác để trở về miền Nam, mong ước được ở lại bên Bác mãi mãi.
Hai dòng thơ đầu như một lời tâm sự, đong đầy cảm xúc:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Bác đã mãi mãi ra đi trong khi đất nước vẫn còn chia cắt. Câu thơ của Viễn Phương mang theo xúc động của một người con miền Nam sau bao ngày mong mỏi được viếng thăm lăng Bác lần đầu tiên. Cách gọi “con” và “Bác” vừa gần gũi vừa thân thiết, vừa trân trọng như một đứa con được trở về thăm cha sau một thời gian dài xa cách. Do đó, tác giả chọn từ “thăm” thay vì “viếng” để thể hiện một trạng thái cảm xúc chứa đựng trong lòng. Trong cùng khổ thơ này, hình ảnh đầu tiên tác giả nhìn thấy quanh lăng Bác là hàng tre. Nhà thơ cảm nhận rằng đó là biểu tượng quen thuộc của quê hương Việt Nam:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng.
Hình ảnh của hàng tre quen thuộc kích thích mạch cảm xúc một cách tự nhiên và mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Từ hàng tre cụ thể bên lăng Bác, nhà thơ kết nối với cây tre Việt Nam, biểu tượng cho sức sống bền bỉ và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Tre không chỉ được hiểu đen và trắng mà còn được hiểu qua ý nghĩa ẩn dụ. Lăng Bác trở nên gần gũi và giản dị như một ngôi làng Việt Nam, nơi Bác đặt chân. Việc nhắc đến tre là nhắc đến Việt Nam, và nhắc đến Việt Nam là nhớ đến Bác. Một sự liên kết không thể hiểu được hơn!
Khổ thơ thứ hai mở đầu bằng hình ảnh của “Mặt trời”
Mỗi ngày mặt trời lặng lẽ trôi qua trên lăng
Thấy một ánh nắng đỏ rực bên trong lăng
Có hai 'mặt trời': 'mặt trời' ở câu thơ trên là hình ảnh thực, 'mặt trời' ở câu thơ dưới là biểu tượng ẩn dụ. Bác là mặt trời tỏa sáng, biểu hiện vĩ đại và sự sống cho loài người; là mặt trời rực rỡ của cách mạng vô sản... Việc sử dụng 'mặt trời' để so sánh với Bác, nhà thơ thể hiện sự tôn kính và kính trọng, cũng như lòng tôn sùng của toàn dân Việt Nam dành cho lãnh tụ kính yêu.
Sự tôn kính đó cũng được thể hiện qua hình ảnh dòng người đến lăng viếng Bác hàng ngày:
Mỗi ngày dòng người đi với lòng nhớ mong
Đặt trái tim trong tràng hoa, gửi bày mươi chín mùa xuân
Ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ mô tả cảm xúc khi vào trong lăng:
Bác nằm trong giấc ngủ an lành
Dưới ánh trăng sáng dịu êm
Biết rằng trời xanh vẫn mãi mãi
Nhưng lòng vẫn cảm thấy nhói đau!
Khổ thơ có bốn câu, mỗi câu bảy chữ, trang nghiêm và cân đối, phù hợp với không khí linh thiêng và yên bình trong lăng. Thời gian và không gian dường như dừng lại trước một hình ảnh có tính vĩnh cửu. Nhà thơ cảm nhận rằng Bác chỉ đang ngủ trong một 'giấc ngủ yên bình'. Đó cũng là cảm nhận chung của mọi người khi đến viếng lăng, viếng Bác. Hình ảnh 'vầng trăng' là một liên tưởng độc đáo và bất ngờ của nhà thơ. Có thể ý tưởng này bắt nguồn từ ánh sáng nhẹ nhàng, trong trẻo của không gian trong lăng. Khi được trình bày thành hình ảnh thơ, 'vầng trăng sáng dịu êm' gợi lên tâm hồn cao quý, tinh khiết và những dòng thơ tràn đầy ánh trăng của Bác.
Từ hình ảnh 'vầng trăng', nhà thơ tiếp tục nhảy sang hình ảnh 'bầu trời xanh'. Bầu trời xanh là biểu tượng của tự nhiên vĩnh cửu và rộng lớn. 'Trời xanh', 'vầng trăng', 'mặt trời' trở thành một phần của vũ trụ lớn, kỳ vĩ. Tố Hữu đã từng viết: 'Bác sống như trời đất của ta'. Bác ra đi, nhưng vẫn còn mãi với quê hương đất nước, như trời xanh vẫn còn mãi. Mặc dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau lòng vì sự ra đi của Người: 'Mà sao nghe nhói ở trong tim!'. Câu thơ diễn đạt cụ thể và trực tiếp nỗi đau xót trong hình thức của một câu hỏi tự hỏi.
Và đến khổ thơ cuối, nhà thơ thể hiện sự tiếc nuối khi sắp phải trở về miền Nam:
Mai trở về miền Nam, lòng trào dâng nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
“Mai trở về miền Nam”, nhớ Bác đến 'trào nước mắt'. Câu thơ được diễn đạt chân thành, mộc mạc theo kiểu Nam Bộ. Ba câu thơ cuối bắt đầu bằng từ ngữ 'muốn làm', thể hiện sự mong ước, lòng tiếc nuối của nhà thơ muốn hoá thân vào cảnh vật xung quanh lăng Bác: 'muốn làm con chim hót', 'muốn làm bông hoa tỏa hương,' và hơn hết, 'muốn làm cây tre trung hiếu' góp phần vào 'hàng tre bát ngát' quanh lăng Bác.
Hình ảnh hàng tre từ khổ thơ đầu được lặp lại ở cuối bài, tạo ra một kết cấu đối chiếu, nhấn mạnh vào hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được truyền đạt đầy đủ.
Bài thơ có giọng điệu phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu sắc, vừa tận tụy, đau buồn, tự hào. Với hình thức thơ tám chữ xen kẽ với các dòng thơ bảy chữ hoặc chín chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn đạt sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu sắc. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với tâm trạng mong ước. Hình ảnh thơ có nhiều sự sáng tạo, kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ - biểu tượng như 'Mặt trời trong lăng', 'tràng hoa', 'vầng trăng', 'trời xanh'... vừa quen thuộc vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, vừa mang ý nghĩa khái quát và tình cảm của toàn dân đối với vị lãnh tụ kính yêu.
Chỉ biết quên mình để hết sức mình
Như dòng sông chảy cuồn cuộn nặng trĩu phù sa
Phân tích Viếng Lăng Bác - mẫu 6
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Khác với cách các nhà thơ khác sử dụng lời mời mọc để miêu tả cuộc viếng thăm, Viễn Phương đã chọn sự chân thành nhất để giới thiệu. Tác giả, đến từ miền Nam xa xôi, sau ngày độc lập, mới được ra thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Hai từ 'miền Nam' nhấn mạnh khoảng cách địa lý giữa hai phần của Tổ quốc.
Bác thương miền Nam nỗi thương nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha
(Tố Hữu)
Nghệ thuật nói giảm nói tránh được sử dụng ở đây như một cách để làm giảm đi nỗi đau xót trong lòng tác giả. Bao nhiêu cảm xúc đau lòng tỏa ra như một cơn sóng mạnh mẽ, nhưng ấn tượng đầu tiên trong lòng tác giả lại là 'hàng tre'. Trước mắt Viễn Phương, hàng tre xanh hiện lên trong sương sớm.
Cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng cho dân tộc ta, cho tinh thần bất khuất của cha ông ta. Từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, đến những cây chông, cây gai vót nhọn cản bước quân thù. Cây tre cứ thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện lên 'bát ngát'.
Không có từ nào khác, chỉ 'bát ngát' mới khiến người đọc cảm thấy sự cao cả, mênh mông của hàng tre xung quanh lăng Bác. Ấn tượng này của nhà thơ bỗng chốc trở thành một lời cảm thán.
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ đột nhiên cảm thấy như những cây tre ấy là biểu tượng của ý chí bất khuất của người Việt qua bao năm tháng. Dù gặp 'bão táp mưa sa' nhưng họ vẫn đoàn kết, hiên ngang đứng vững. Từ 'xanh xanh' ở đây biểu thị rằng dân tộc Việt Nam luôn giữ vững sức mạnh không phai mờ.
'Xanh xanh' tức là luôn như vậy, luôn mạnh mẽ, luôn xanh như thế. Thế hệ sau luôn mạnh mẽ để bảo vệ cho dân tộc. Khổ thơ đầu tiên chứa đựng những xúc cảm đầu tiên của tác giả khi viếng thăm lăng Bác lần đầu. Trong đó, nỗi đau về sự mất mát của Bác, nhưng cũng ẩn chứa niềm tự hào dân tộc.
Sang khổ thơ thứ hai, theo chân Viễn Phương, chúng ta tiến vào lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm đó, nhà thơ thấy hiện ra hình ảnh của mặt trời. Mặt trời của vũ trụ luôn di chuyển không ngừng qua lăng Bác, sưởi ấm cho Người. Từ đó, nhà thơ nhận ra 'một mặt trời trong lăng rất đỏ'.
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng
(Sáng tháng năm)
Mọi điều đó tạo nên một bức tranh về mặt trời rực rỡ, không kém phần lớn lao và tinh thần như mặt trời vũ trụ. Tác giả thông minh khi sử dụng từ 'ngày ngày' ở đây. 'Ngày ngày' ám chỉ sự liên tục của thời gian, sự tuần hoàn của tự nhiên và ý chí sáng tỏ của Bác. Điều này lặp lại khi dòng người đi vào lăng, bày tỏ nỗi tiếc thương và đau đớn.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Có lẽ khổ thơ này là quan trọng nhất trong bài thơ. Nó ca ngợi công ơn của Bác và sự biết ơn của mọi người dành cho Người. Tiếp theo, nhà thơ tiếp tục hành trình vào lăng Bác và gặp cha già yêu quý:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác nằm đó, nhẹ nhàng như đang chìm vào giấc ngủ ngon lành. Đời Người chỉ có một ước mong, đó là hòa bình cho đất nước. Vì vậy, khi đất nước được hòa bình, Người được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình.
Toàn bộ cuộc đời Người đã dành hết cho sự giải phóng dân tộc, vì vậy bây giờ, Người 'nằm trong giấc ngủ yên bình'. Đối với mọi người, Bác như vừa mới ngủ sau những ngày vất vả, lo lắng cho dân tộc:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Âm thanh của suối như là giai điệu xa xăm
Ánh trăng chiếu lên cây thụ lồng lộng bóng hoa
Hay:
Giữa dòng bàn bạc cuộc sống quân đội
Đêm xuống, trăng chiếu bát ngát, âm thanh của sóng vỗ đầy thuyền
Vẫn biết trời xanh sẽ mãi mãi
Nhưng lòng lại cảm thấy nhói đau
Lời trách cứ mới chỉ làm đau đớn thêm! Lời trách cứ đó như là lời trách cứ về bầu trời xanh kia. Bầu trời vẫn thế, màu xanh vẫn còn mãi, nhưng vị Cha già của dân tộc sao lại phải ra đi? Mặc cho sự bền vững của luật tự nhiên, lòng vẫn đau đớn vô cùng. Dù lý trí biết rằng quy luật của tự nhiên không thay đổi, nhưng tâm trí vẫn 'cảm thấy nhói đau'.
Nỗi đau ấy đã trở thành lời trách cứ dành cho bầu trời xanh. Cảm giác 'nhói đau' khiến người đọc cảm thấy cảm xúc của tác giả. Thứ cảm xúc đó lan tỏa khắp cơ thể con người.
Cuộc gặp gỡ nào cũng đến lúc chia ly, và cuộc viếng thăm của Viễn Phương với Hồ Chủ tịch cũng vậy. Khi phải nói lời từ biệt, nhà thơ cảm thấy vô cùng xúc động. Sự xúc động kết hợp với nỗi đau từ ban đầu đã trỗi dậy thành tiếng khóc, tiếng rưng rức nghẹn ngào:
Mai khi quay về miền Nam, lệ chảy như dòng suối
Muốn trở thành chú chim hót vang quanh lăng Bác
Muốn trở thành bông hoa tỏa hương thơm nơi đây
Muốn trở thành cây tre trung hiếu bên này
Ngày mai, tôi sẽ phải rời xa Cha, rời xa vị Cha già kính mến để quay về miền Nam xa xôi, không biết khi nào mới có cơ hội được thăm lại Người. Chính vì vậy, tôi đã không kìm được cảm xúc. Bao nhiêu nỗi đau, nghẹn ngào tuôn trào theo dòng lệ. Lúc này, trong lòng tôi, chợt hiện lên một ước nguyện:
Tôi muốn trở thành chú chim hót quanh lăng Bác
Tôi muốn trở thành bông hoa tỏa hương thơm nơi này
Tôi muốn trở thành cây tre trung hiếu ở đây
Từ 'muốn' được lặp lại ba lần như một sự khẳng định mạnh mẽ về ước muốn của tôi. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng của tôi. Ước nguyện đó là được ở lại bên cạnh Người - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ để trở thành 'một chú chim hót', 'một bông hoa', 'một cây tre trung hiếu'. Tất cả chỉ là những điều vô cùng nhỏ bé, tầm thường, nhưng lại là mong ước của tôi.
Vì chú chim hót sẽ làm cho giấc ngủ của Người thêm êm đềm, hoa sẽ toả hương thơm và một cây tre nhỏ sẽ mãi trung hiếu với nơi này. Nhịp thơ ở đây chậm đi một nhịp so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi đó như muốn kéo dài thêm chút thời gian trước khi phải chia xa. Kết lại bài thơ, hình ảnh cây tre lại một lần nữa xuất hiện như một vòng lặp tuần hoàn.
Cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam, là biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tôi muốn ở lại bên lăng Hồ Chủ Tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ dẫn. Qua đó, tôi muốn khẳng định một điều, đó là sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Người đã truyền bá.
Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tôi, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở bên cạnh Người, ở bên vị lãnh tụ yêu quý của dân tộc và từ đó, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Bác và lý tưởng mà Người đã gây dựng.
Với hệ thống biện pháp tu từ, đặc biệt là việc nói giảm nói tránh, bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương đã thức tỉnh trong lòng độc giả sự tôn kính dành cho Bác, và từ đó chia sẻ vào nỗi đau xót và ước muốn mà tác giả muốn truyền đạt.
Cùng với việc phân tích bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương, các em có thể tham khảo một số bài học khác như: Cảm nhận về bài thơ 'Viếng lăng Bác', 'Viếng lăng Bác' là bài ca về tình cảm động của Viễn Phương, Cảm nhận của em trước lòng kính yêu tha thiết của nhân dân miền Nam qua bài 'Viếng lăng Bác', Suy nghĩ của em về bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương.
Phân tích Viếng Lăng Bác - mẫu 7
Khi nhắc đến nhà thơ Viễn Phương, ta nhớ đến một nhà thơ mang hồn thơ nhẹ nhàng, sâu lắng và bâng khuâng. Thơ ông chạm đến lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh thơ giản dị mà sâu sắc. Bài thơ 'Viếng lăng Bác' chính là một ví dụ, với tình cảm chân thành bình dị của một người con miền Nam, Viễn Phương đã tạo ra những dòng thơ thiết tha để diễn đạt lòng thành kính và nỗi xúc động khi được viếng lăng Bác.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Lời gọi gần gũi, thân mật như tình cảm của một đứa con yêu quý dành cho người cha kính trọng. Sau bao khát khao, hôm nay đứa con ấy đã có cơ hội được viếng lăng Bác, nỗi xúc động, nghẹn ngào thốt lên thành tiếng như làm thỏa lòng mong mỏi gặp Bác từ lâu.
Ở miền Nam xa xôi, đứa con kia mang trong lòng trái tim của hàng triệu người miền Nam đang dõi theo, ấm áp đến bao. Đứng trước lăng, hàng tre xanh bát ngát trong sương mai buổi sớm, hàng tre ấy vẫn kiêu hãnh, đứng bên người, bảo vệ cho người.
Cây tre xanh rì rào khắp Việt Nam
Bão táp mưa sa đánh thẳng hàng
Khi đứng trước lăng, tác giả cảm nhận sâu sắc về dân tộc Việt Nam, về lòng kiên trung và gan dạ của họ. Cây tre là biểu tượng của sức mạnh và ý chí bất khuất của dân tộc, luôn kiên cường và thủy chung dù gặp khó khăn. Hình ảnh hàng tre xanh xanh là biểu tượng cho sức sống bền bỉ và khả năng tồn tại của dân tộc. Khi đi vào viếng lăng Bác, tác giả lại càng cảm thấy lòng mình được ôn lại những tình cảm sâu nặng.
Mỗi ngày mặt trời lặn dần sau lăng
Thấy một mặt trời đỏ rực trong lăng
Mỗi ngày dòng người qua lăng với tình thương nhớ
Vòng hoa dâng kỷ niệm bảy mươi chín năm
Bác vẫn ở đó, chúng con từ khắp nơi đều đến gần Người. Mỗi ngày, những dòng người viếng thăm Bác với lòng thương nhớ không nguôi. Tình yêu thương ấy được thể hiện qua những bó hoa tươi đẹp nhất, được dâng lên Người. Cuộc sống của dân tộc nở hoa dưới bóng đại diện và công lao vĩ đại của Bác.
Bác đã dành trọn bảy mươi chín năm đẹp nhất của cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng, làm nên một mùa xuân mới cho đất nước và nhân dân. Khi bước vào lăng, nỗi đau xót lại trỗi dậy mạnh mẽ hơn, cảm xúc tràn đầy khi gặp lại hình ảnh của Người:
Bác nằm yên trong lăng, giấc ngủ an lành
...
Nhưng lòng vẫn cảm thấy nhói đau
Trong giấc ngủ êm đềm, Bác nghỉ yên giữa dải trăng ấm áp, như tâm hồn Bác luôn dịu dàng và ấm áp, tri âm tri kỷ với mọi người. Ánh trăng kia tỏa sáng như nhân cách vĩ đại của Bác, cao quý và thân thiện. Mỗi lúc nhớ đến Bác, lòng lại trào dâng, quyến luyến không muốn rời xa. Được bên Bác là khoảnh khắc quý báu và đáng trân trọng nhất, nhưng khi phải rời xa lại đau lòng.
Không thể không buồn, không thổn thức, không tiếc nuối khi bầu trời xanh của dân tộc đã ra đi mãi mãi. Tiếng thơ cất lên như một lời kinh vãi vào lòng, khiến lòng thổn thức đến tận cùng. Càng ở bên Bác, tình cảm lại càng sâu đậm, không muốn rời xa. Mỗi khoảnh khắc ở bên Người là quý báu và đáng trân trọng nhất, nhưng khi phải xa Người, nuối tiếc không dứt.
Mong ước giản dị nhưng chứa đựng tình cảm lớn lao của mọi người gửi đến Bác. 'Muốn làm' lặp lại như thể hiện sự khao khát không nguôi muốn ở lại bên Bác, được bên Bác lâu dài. Là con chim hót trên bầu trời thanh bình, là đóa hoa tỏa hương ngát ngào, là cây tre canh giữ giấc ngủ yên bình cho Bác. Ước nguyện ấy không chỉ của Viễn Phương mà còn của tất cả mọi người gửi đến Bác.
Mọi nhà thơ đã viết về Bác, về lăng Bác. 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy xúc động, thể hiện tình cảm của dân miền Nam dành cho Bác. Từ đầu bài thơ, tác giả giới thiệu: 'Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác'. Lời thơ đơn giản nhưng chứa đựng biết bao cảm xúc. Trong suốt cuộc đời, Bác luôn nhớ đến miền Nam. Như Tố Hữu đã viết:
Bác nhớ miền Nam, nhưng miền Nam cũng nhớ Bác. Đó là mối nhớ thương giữa Bác và dân miền Nam, không nguôi không mờ.
Biết bao nhà thơ đã viết về Bác, về lăng Bác. 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy xúc động, thể hiện tình cảm của dân miền Nam dành cho Bác. Từ đầu bài thơ, tác giả giới thiệu: 'Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác'. Lời thơ đơn giản nhưng chứa đựng biết bao cảm xúc. Trong suốt cuộc đời, Bác luôn nhớ đến miền Nam. Như Tố Hữu đã viết:
Bác nhớ miền Nam, nhưng miền Nam cũng nhớ Bác. Đó là mối nhớ thương giữa Bác và dân miền Nam, không nguôi không mờ.
(Bác ơi)
Những dòng thơ này thể hiện tình cảm sâu lắng của người con miền Nam khi đến thăm lăng Bác, nơi nghỉ yên của người Cha già của dân tộc. Tình cảm trong bài thơ là của người con xa nhà, nỗi nhớ thương mãi ấp ủ, chỉ chờ được gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng, thổn thức. Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã rơi vào cảm xúc sâu sắc:
Nhà thơ phải đến sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm còn phủ quanh lăng. Con đường dẫn tới lăng nổi lên hàng tre bát ngát. Bát ngát của tre và bát ngát của sương. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh quen thuộc: “hàng tre xanh xanh Việt Nam / Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Khổ thứ hai nói về cảm xúc trước cảnh đoàn người xếp hàng vào lăng. Đoàn người dài, đi rất chậm. Cảnh vật vẫn còn sương phủ, nhưng mặt trời đã lên cao trên đầu. Mặt trời trên lăng lại gợi lên một ý nghĩ mới:
Mặt trời đi qua trên lăng, nhưng một mặt trời trong lăng lại rực rỡ đỏ chói. So sánh này là sáng tạo mới, chưa từng có. Mặt trời “rất đỏ” gợi lên hình ảnh trái tim nhiệt huyết, trái tim thương dân, thương nước. Nhìn đoàn người vào viếng, nhà thơ nghĩ đến vòng hoa:
Những dòng thơ này thể hiện tình cảm sâu lắng của người con miền Nam khi đến thăm lăng Bác, nơi nghỉ yên của người Cha già của dân tộc. Tình cảm trong bài thơ là của người con xa nhà, nỗi nhớ thương mãi ấp ủ, chỉ chờ được gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng, thổn thức. Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã rơi vào cảm xúc sâu sắc:
Mặt trời đi qua trên lăng, nhưng một mặt trời trong lăng lại rực rỡ đỏ chói. So sánh này là sáng tạo mới, chưa từng có. Mặt trời “rất đỏ” gợi lên hình ảnh trái tim nhiệt huyết, trái tim thương dân, thương nước. Nhìn đoàn người vào viếng, nhà thơ nghĩ đến vòng hoa:
Mỗi ngày, hàng ngàn người đi với lòng thương nhớ
Đến dâng tràng hoa trong bảy mươi chín mùa xuân...
Mọi người dường như không đến viếng một người đã khuất, một thi hài, mà đến viếng một cuộc đời đã trải qua bảy mươi chín mùa xuân, hiến dâng bao nhiêu hoa trái. Tác giả không chỉ kết nối tinh tế mà còn sử dụng từ ngữ đầy cảm xúc, quý trọng.
Những từ “ngày ngày” được lặp lại hai lần tạo cảm giác về thời gian vô tận, không ngừng, như tấm lòng nhân dân không ngừng nhớ đến Bác.
Khổ thơ thứ ba nói về cảm xúc khi bước vào lăng. Đây là nơi yên bình của sự yên nghỉ vĩnh viễn. Câu thơ viết rất chân thực và mơ mộng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Trong ánh trăng nhẹ nhàng dịu dàng
Khung cảnh yên bình, im lặng, hòa mình vào giấc ngủ ban đêm, êm đềm dưới ánh trăng nhẹ nhàng dịu dàng. Nhà thơ vừa không muốn nhận ra đây là giấc ngủ cuối cùng, ngủ giữa ban ngày, nhưng cũng không thể không chấp nhận sự thật rằng người đã ra đi mãi mãi:
Trời xanh vẫn mãi là vĩnh cửu.
Nhưng lòng lại cảm thấy đau thắt
Biết rằng Bác sống mãi như trời xanh, nhưng lòng vẫn không thể kìm nén được nỗi đau mất mát, làm đau lòng. Câu thơ nghe như là tiếng khóc nghẹn ngào. Khổ thơ cuối cùng là cảm xúc trước khi rời đi:
Muốn trở thành chú chim hót quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương đâu đó
Muốn trở thành cây tre trung hiếu bên đây
Nghĩ đến ngày mai trở về miền Nam, nỗi thương xót làm rơi nước mắt. Không phải là rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén trong tâm hồn, sinh ra bao ước muốn. Ước muốn trở thành chú chim hót quanh lăng Bác, để lại chút niềm vui, vẻ hồn nhiên bên một người đã hy sinh cả gia đình, tình riêng vì đất nước. Ước muốn trở thành đóa hoa tỏa hương quanh lăng, một hương thơm như thật như hư “đâu đó”, thoảng trong không gian.
Ước muốn trở thành cây tre trung hiếu quanh lăng. Mọi ước muốn đều hội tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, chắc chắn là muốn làm vui, làm dịu đi nỗi lạnh lẽo của con người đã dành cả cuộc đời hy sinh cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một người đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào miền Nam ruột thịt.
Bài thơ miêu tả một ngày ra thăm lăng Bác, từ buổi sáng đến buổi chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bốn khổ, mỗi khổ đều trào dâng một niềm thương nhớ sâu lắng và xót xa vô hạn. Bốn khổ thơ, mỗi khổ đều chứa đựng những ẩn dụ tinh tế, thể hiện sự tinh tế của tình cảm từ cuộc sống hàng ngày lên cõi cao cả.
Tình cảm dành cho Bác chỉ có thể là tình cảm cao cả, nâng cao tinh thần con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, được dân tộc kính trọng.
Phân tích Viếng Lăng Bác - mẫu 9
Khi nhắc đến Viễn Phương, Mai Văn Tạo đã từng nhận xét: “Thơ của Viễn Phương mềm mại, nhẹ nhàng, lắng đọng, sâu lắng, đầy cảm xúc, không cầu kỳ, phức tạp, quá hoa mỹ. Mọi hình ảnh trong cuộc sống anh ta đều mang hơi thở của thi ca. Không chỉ có 'Tiếng tù và trong sương đêm', 'Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều' hay 'Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước”...
Một chiếc lá khô hanh trong rừng vắng cũng được anh ta đưa vào đó cảm giác thực, hư, vừa thơ mà vẫn thực, vừa thực mà vẫn thơ”. Thật vậy, tác phẩm của Viễn Phương đã thể hiện điều đó rõ ràng. Ông có nhiều tác phẩm xuất sắc nhưng phải kể đến Viếng lăng Bác.
Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978 với những dòng cảm xúc chân thành, sâu sắc, lòng biết ơn và tôn kính của nhà thơ cũng như của toàn thể đồng bào miền Nam, của nhân dân toàn quốc dành cho người cha vĩ đại của dân tộc. Bởi vậy, bài thơ cũng được coi là một lời tri ân chân thành được dâng lên Người. Đầu tiên có thể thấy hiện diện trong khổ thơ đầu là cảm xúc tự hào, xúc động khi được đến thăm lăng Bác để thoả lòng của một nhà thơ:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Tác giả như một đứa con lâu ngày mới có dịp về thăm người cha già kính yêu. Với từ “thăm” - một cách diễn đạt giảm nhẹ, tác giả cố gắng che giấu, kìm nén trong lòng cảm xúc đau thương mất mát không thể bù đắp được của cả dân tộc và cũng như để nói với lòng mình: Bác vẫn còn sống mãi với non sông đất nước, vẫn sống mãi như “trời đất của ta”, trong “từng cọng lúa mỗi nhành hoa” (Tố Hữu).
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” hiện ra trong sương sớm trên con đường đến thăm Bác, đó là hình ảnh chân thực, hình ảnh của quê hương thân thương, yên bình, gần gũi luôn ở bên Người. Một câu cảm thán tác giả sử dụng để diễn đạt cảm giác ngỡ ngàng về hình ảnh hàng tre:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Đó là biểu tượng tuyệt vời cho người dân Việt Nam, là biểu tượng cho sự bền bỉ, kiên trì của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh vất vả và khó khăn, để rồi những nhà thơ như chắc chắn rằng: mỗi cây tre như một con người Việt Nam kiên cường, vững vàng, hiện ra để tôn vinh Bác. Ba hình ảnh đã tạo ra một cảm giác kỳ lạ, hấp dẫn: Lăng Bác trở thành một cộng đồng yên bình với những con người bình dị, gần gũi tận hưởng cuộc sống.
Mỗi ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Mỗi ngày dòng người đi trong nỗi nhớ thương
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Dòng người đó là biểu tượng sống động của sự đoàn kết, cùng nhau lao động, sản xuất, chiến đấu, đại diện cho gần sáu mươi dân tộc từ khắp nơi trên toàn quốc tụ họp ở đây. Họ hình thành một “tràng hoa” - biểu tượng tinh tế đại diện cho những điều tốt đẹp nhất, tinh túy nhất của con người Việt Nam, tôn vinh Bác, tôn vinh “bảy mươi chín mùa xuân”.
Sử dụng phép bóng đáng, là cách diễn đạt sâu sắc ý nghĩa: bảy mươi chín năm tuổi của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, một cuộc sống đầy ý nghĩa. Bác đã mang lại cho chúng ta một mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân của tự do và hạnh phúc. Với cảm xúc và suy nghĩ của riêng mình, lời thơ của Y Phương đã chạm đến trái tim của tất cả chúng ta khi nghĩ về Bác:
Mạch cảm xúc của tác giả tiếp tục với những dòng cảm xúc tiếc thương vô hạn, dù cố gắng che giấu đi nhưng vẫn đủ sức rung động trái tim của hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Nhưng sao lòng cảm thấy nhói đau.
Vẫn là cách diễn đạt giảm nhẹ, tác giả cố gắng muốn xua tan đi sự thật khắc nghiệt: Bác không còn nữa. Hai câu thơ như tái hiện trước mắt độc giả hình ảnh thực tế: Bác nằm trên kệ, ánh đèn hồng chiếu lên khiến cho khuôn mặt Bác trở nên hồng hào và sáng dịu như vầng trăng.
“Bầu trời xanh” và “ánh trăng” được nhắc đến không chỉ là hình ảnh thực tế mà còn là biểu tượng cho sự bất diệt và tồn tại vĩnh cửu của thiên nhiên. Kết hợp với cặp từ “vẫn biết - mà sao”, tác giả muốn khẳng định quy luật tự nhiên để thể hiện quy luật của con người, nhằm an ủi lòng mình: vẫn biết Bác luôn sống trong lòng dân tộc nhưng sự thật rằng Bác đã ra đi mãi mãi khiến tác giả cảm thấy “nhói ở trong tim”.
Từ “nhói” là phép ẩn dụ chuyển đổi mạnh mẽ cảm giác đau đớn tột cùng của tác giả khi nhớ rằng Bác không còn nữa. Đó là nỗi đau lớn khiến tác giả không thể kìm nén được. Điều này khiến tác giả nghĩ đến ngày mai phải xa Bác thân yêu, lòng người và những người con miền Nam bày tỏ sự xúc động:
Mai về miền Nam lòng rưng rức nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Lời thơ cảm động, đầy nước mắt, thể hiện sự nhớ mong được trải lòng một cách trực tiếp, “lòng rưng rức nước mắt” không chỉ là cảm xúc của Viễn Phương mà ông cũng đại diện cho tất cả những trái tim ấm áp khác khi phải xa nơi thánh thiêng. Để gần gũi hơn, nhà thơ diễn đạt ước muốn chân thành, nồng nhiệt, xúc động bằng loạt từ “muốn làm” kết hợp với hình ảnh thiên nhiên biểu tượng: làm con chim để hót vang lên lăng Bác, làm cây trẻ trung thành, uy nghi như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người.
Đó không chỉ là hình ảnh đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của sức sống con người kính dâng lên Bác. Bình dị, khiêm nhường, không ồn ào, ước mong của nhà thơ cũng là ước mong của chúng ta: Ai cũng muốn ở bên Bác, muốn làm điều gì đó nhỏ nhặt để làm Bác vui lòng.
Cùng với tất cả những tác phẩm tôn vinh Hồ Chủ tịch, bài thơ Viếng lăng Bác đã gửi đi dòng cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc suốt bốn mươi năm qua vì thành công về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Ngôn từ thơ mộc mạc, giản dị, đậm chất Nam Bộ, hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều tưởng tượng, liên tưởng.
Với ý nghĩa đó, bài thơ thực sự trở thành lời kính phục thành tâm của nhà thơ và của nhân dân cả nước dành cho Bác. Đồng thời, Viễn Phương đã góp phần quan trọng vào việc ca ngợi về lãnh tụ. Một bài thơ hay, một cảm xúc chân thành, in sâu trong lòng người đọc.
Cùng với nhiều bài thơ tôn vinh Bác, Viếng lăng Bác của Viễn Phương luôn là bài hát đồng điệu theo thời gian. Bài thơ đã lồng ghép trong lòng chúng ta những tình cảm tự hào, biết ơn vô tận đối với người cha già vĩ đại của dân tộc.
Phân tích Viếng Lăng Bác - mẫu 10
Suốt bài thơ là mạch cảm xúc sôi sục, xúc động, không thể kìm nén khi đứng trước một anh hùng dân tộc. Bài thơ bắt đầu như một tiếng reo vui:
Con ở miền Nam đến thăm lăng Bác
Nhìn thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh mướt của Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Khung cảnh trước mắt khi nhà thơ đến đây là hàng tre “bát ngát”. Tre là biểu tượng thân thuộc, gần gũi với đất nước Việt Nam, là biểu tượng cho sự bền bỉ, kiên cường, tinh thần không khuất phục của toàn dân ta. Dù có bão táp mưa sa, hàng tre vẫn kiên cường, trang trọng và không khuất phục như tinh thần gan góc của dân tộc ta.
Mỗi ngày mặt trời trôi qua trên lăng
Thấy một bức tranh mặt trời trong lăng rực rỡ
Mỗi ngày dòng người đến trong niềm nhớ mong
Gắn kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Bác nằm yên trong lăng, giấc ngủ bình yên
Giữa bầu trời trăng sáng mềm mại hiền hòa
Trời xanh mãi mãi vẫn biết, biết đến Bác
Nhưng lòng vẫn nhói đau đau đớn đau thắt
Bác vẫn nằm yên ở đây, giữa trung tâm thủ đô rực nắng, giữa hàng triệu trái tim của dân tộc hướng về Người. Nụ cười hiền hòa trên khuôn mặt Người là biểu tượng cho những phẩm hạnh cao quý, tinh khiết nhất của một cuộc đời. Dù nỗi đau vẫn còn, mất mát vẫn còn, nhưng đất nước luôn nhớ về Người. Có lẽ câu cuối cùng trong bài thơ sẽ khiến người đọc bàng hoàng trước lời nguyện ước của Viễn Phương:
Mai về miền Nam, lòng trào dâng nước mắt
Muốn trở thành con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương khắp nơi
Muốn làm cây tre vững chãi ở đây
Phân tích Viếng Lăng Bác - mẫu 11
Bác đã ra đi, ôi Bác ơi!
Mùa thu vẫn đẹp, nắng xanh trời
(Tố Hữu)
Có thể nói sự ra đi của vị lãnh tụ vĩ đại là một mất mát lớn đối với toàn bộ nhân dân Việt Nam. Có không ít những bài thơ thể hiện niềm thương xót, xúc động trước sự ra đi của Bác. Mặc dù mất mát ấy đã được một năm, khi cả đất nước được thống nhất, nhưng Viễn Phương vẫn không kìm được dòng cảm xúc của mình. Sự xót xa, nhớ thương ấy được tác giả thể hiện qua bài thơ “Viếng lăng Bác”
Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã mô tả hoàn cảnh của mình khi đến viếng lăng Bác:
Con từ miền Nam đến thăm lăng Bác
Nhìn thấy trong sương hàng tre mênh mông
Ôi! Những hàng tre xanh mướt Việt Nam
Bão táp mưa sa, trông thẳng hàng
Bác nhớ miền Nam, nhớ ngôi nhà
Miền Nam mong Bác, mong người cha
(Tố Hữu)
Có lẽ nhà thơ đã đến viếng lăng Bác vào buổi sáng sớm nên mới thấy những hàng tre 'xanh mướt' liên tiếp mênh mông trong sương, dù có phải trải qua bao 'bão táp mưa sa' nhưng chúng vẫn đứng thẳng. Tre là biểu tượng cho tính cách thẳng thắn, kiên cường, mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. Những hàng tre thẳng tắp trước lăng càng tôn vinh sự uy nghiêm của khung cảnh này.
Khi đến viếng lăng, nhà thơ đã chứng kiến hai hình ảnh về mặt trời:
Mỗi ngày mặt trời trôi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực rỡ đỏ
Mỗi ngày dòng người đi với nỗi nhớ thương
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Bức tranh mặt trời mà Viễn Phương sử dụng trong bài thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được tình cảm cao quý, thiêng liêng của tác giả dành cho vị cha già của dân tộc. Ánh sáng mặt trời trong vũ trụ phản ánh ánh sáng và sự sống cho mọi sinh vật, cũng như 'mặt trời' trong lăng mang lại ánh sáng và sự sống cho nhân dân. Bác là một vị anh hùng vĩ đại, công ơn của Người đối với dân tộc không thể nào diễn tả hết. Nhà thơ đã đồng hành cùng dòng người viếng thăm lăng để dâng lên Người tràng hoa kính mừng nhất. “Tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” cũng chính là thời gian Bác đã sống và hy sinh cho Tổ quốc. Nhịp thơ chậm rãi như nhịp bước của những người đến viếng thăm, đựng đầy nỗi xúc động của mọi người. Cuộc đời của Bác không có phút giây nào được yên bình, và Bác không thể nghỉ ngơi khi cuộc sống của nhân dân còn khổ cực.
Khi bước vào lăng, tác giả như lặng thinh khi chứng kiến:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa ánh trăng sáng dịu dàng
Vẫn biết trời xanh sẽ mãi mãi
Nhưng lòng nghe nhói đau
Bác đã dành cả cuộc đời để hy sinh cho nhân dân, không bao giờ để ý đến bản thân. 'Bác nằm trong giấc ngủ bình yên' chỉ là một cách để Bác nghỉ ngơi. Bác vẫn hiện diện trong lòng nhân loại, và Bác vẫn sống mãi trong tâm hồn của người Việt. Trời xanh vẫn còn, và bầu trời hòa bình của dân tộc chúng ta sẽ mãi giữ gìn, nhưng thiếu vắng Bác khiến lòng dân đau đớn. Bác đã trở thành một phần của trời xanh để sống mãi mãi cùng dân tộc.
Dù không muốn, nhưng nhà thơ vẫn phải chào tạm biệt Bác với tình cảm đầy xót xa trước khi trở về miền Nam yêu dấu:
Mai về miền Nam, lòng đầy nước mắt
Ước muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương ở đây
Ước muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Tác giả muốn trở thành con chim, đóa hoa, cây tre để ở bên cạnh Bác. Ông muốn làm con chim hót quanh lăng của Chủ tịch Hồ, muốn làm đóa hoa để thêm vẻ đẹp cho khuôn viên lăng, và cũng muốn làm cây tre để trung thành với Người. 'Ước muốn làm' thể hiện sự mong muốn chân thành của Viễn Phương, bởi ai có thể không muốn ở bên cạnh người cha già mến yêu của mình?
Với cách diễn đạt trang trọng, chậm rãi cùng việc sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, bài thơ “Viếng lăng Bác” đã thể hiện những tình cảm chân thành của nhà thơ đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Những cảm xúc đau đớn, nhớ nhung của tác giả cũng là cảm xúc của mọi người dân Việt Nam khi Bác đi xa.
Phân tích Viếng Lăng Bác - mẫu 12
Trong những bài thơ viết về Bác sau khi Bác ra đi, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài thơ nổi bật. Bài thơ thể hiện lòng kính yêu, sự tiếc nuối và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với vị lãnh tụ bằng cách diễn đạt chân thành, sâu sắc, thiết tha.
Từ miền Nam sau nhiều năm chiến đấu gian khổ, tác giả đã thực hiện cuộc hành trình về miền Bắc. Với tâm trạng xúc động, anh đã đến Ba Đình:
Con ở miền Nam đến thăm lăng Bác.
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam.
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Đoạn thơ mở đầu trang trọng nhưng vẫn mang một không khí ấm áp, gần gũi không chỉ ở cách xưng hô “con” mà còn ở cách sử dụng từ mang ý nghĩa giảm nhẹ. Nhà thơ không nói ra “viếng” mà là ra “thăm”, như con về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ ngơi. Nỗi đau như muốn che giấu nhưng giọng thơ vẫn chứa đựng sự xót xa. Hình ảnh đầu tiên gây ấn tượng sâu sắc với tác giả là hình ảnh hàng tre trong sương sớm, trải dài, bát ngát một màu xanh, khiến lăng Bác trở nên thân thuộc, gần gũi nhưng làng Việt Nam. Hình ảnh hàng tre “đứng thẳng hàng” trong “bão táp mưa sa” đã trở thành biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, không bao giờ khuất phục của nhân dân Việt Nam. Hình ảnh đó như khúc dạo đầu mở ra một loạt suy tư sâu sắc, phong phú:
Ngày ngày mặt trời ló dạng trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực đỏ.
Mỗi ngày dòng người vẫn đến trong lòng nhớ thương
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Điều mệnh danh “mỗi ngày” và hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” không chỉ khắc sâu ấn tượng về cuộc sống vĩnh cửu mà còn phản ánh tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác. Tình cảm ấy được thể hiện qua việc dâng tràng hoa đẹp tỏa hương bảy mươi chín mùa xuân của những người kính yêu Bác. Nhịp thơ chậm rãi, dàn trải, cấu trúc câu và từ ngữ được lặp lại gợi nhớ đến những bước đi chầm chậm của dòng người vào lăng viếng Bác trong không khí thiêng liêng, thành kính và niềm cảm xúc sâu lắng.
Đứng trước di hài Bác, bao tình cảm ấp ủ từ lâu bỗng trào dâng thổn thức :
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
“Trời xanh”, “vầng trăng” là những hình ảnh kỳ vĩ của thiên nhiên gợi suy ngẫm về cái cao cả, vĩ đại, bất diệt, trường tồn. Bác vẫn còn mãi với non sông, người đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước. Sự nghiệp của người là bất tử. Mặc dù tin như vậy nhưng trái tim vẫn nhói đau khi nghĩ rằng Bác không còn nữa. Nỗi đau được biểu hiện cụ thể, trực tiếp “mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Đó là nỗi đau, là niềm thương vô hạn của đứa con về muộn bên di hài người cha yêu kính.
Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia tay. Lòng nhớ thương, đau xót kìm nén đến giờ vỡ oà thành nước mắt:
Mai về miền Nam lòng trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương nơi này
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Ước nguyện được biến hình thành con chim, đoá hoa, cây tre để trông nom, trang hoàng cho nơi vị lãnh tụ kính yêu yên nghỉ. Hình ảnh cây tre lặp lại cuối bài tạo ấn tượng sâu sắc thể hiện lòng kính yêu và lòng biết ơn vô hạn đối với Bác. Từ “muốn làm”, cấu trúc câu được lặp đi lặp lại tạo ra nốt nhạc dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm, khát khao trào dâng mãnh liệt. Bài thơ có vẻ kết thúc trong sự xa cách về không gian nhưng lại gợi lên sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Như vậy, dù bước chân đã rời đi nhưng tấm lòng của người con miền Nam vẫn ở lại. Tiếng lòng đó, ước nguyện đó không chỉ thuộc về tác giả mà còn là tiếng lòng chung của nhiều người.
“Viếng lăng Bác” là một bài thơ sâu sắc, giàu ý nghĩa, trữ tình với sự sử dụng luyến láy ngôn ngữ, phong phú âm điệu, tạo nên sức thu hút đặc biệt, nhanh chóng được đông đảo bạn đọc chấp nhận. Chính vì điều đó, nó đã nhanh chóng trở thành một bài ca sâu sắc, giàu tình cảm và quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam.
Phân tích Viếng Lăng Bác - mẫu 13
Con ở miền Nam đến thăm lăng Bác.
Con ở miền Nam đến thăm lăng Bác,
Thấy trong sương hàng tre bát ngát,
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam,
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
'Ôi!' là từ ngữ của cảm xúc, thể hiện niềm tự hào xúc động. Hình ảnh hàng tre xanh là biểu tượng, giàu ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Tre mang đặc điểm cao quý của con người Việt Nam: 'mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng, bất khuất...'. Có nhà thơ đã viết:
... Bão táp thân bọc lấy thân,
Tay ôm, tay níu, tre gần nhau hơn.
Yêu nhau như cây tre không riêng gì
Tạo thành một lũy từ đó, ơi người...
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Mô tả cảnh quan bên ngoài lăng Bác, nhà thơ khơi dậy những suy tư sâu sắc về phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta. Dòng thơ kế tiếp nói về Bác. Bác là tấm gương ưu tú của dân tộc, là 'tinh hoa và hào quang của nhân dân Việt Nam (Phạm Văn Đồng).
Ngày ngày mặt trời vượt qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng đỏ rực.
Ngày ngày dòng người đi với nỗi nhớ thương
Đặt tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Từ 'dâng' chứa đựng nhiều tình cảm, tình nghĩa. Nhà thơ không nói 'bảy chín tuổi' mà nói: bảy mươi chín mùa xuân, một cách diễn đạt rất thơ: cuộc đời Bác trở nên tươi đẹp như những mùa xuân. Điều này thể hiện sự tinh tế, tài biểu cảm và tạo hình từ ngữ của Viễn Phương.
Khổ thơ thứ ba nói về sự vĩnh hằng bất diệt của Bác. Bác như đang ngủ một giấc ngủ 'yên bình', trong một bối cảnh lãng mạn. Bác luôn yêu thích trăng. Trong những ngày kháng chiến, giữa núi rừng của Việt Bắc, Bác từng trải qua những khoảnh khắc sống thần tiên:
Công việc quân sự và dân sự đã hoàn thành,
Ngủ say bên cạnh dòng sông dịu dàng dưới ánh trăng nhẹ nhàng.
Bây giờ, nhà thơ cảm thấy Bác nằm yên bình, thanh thản 'trong ánh trăng dịu dàng'. Nhìn thấy Bác nằm, nhà thơ đau lòng, xúc động. Câu thơ 'nhưng lòng lại cảm thấy đau đớn' diễn tả cảm xúc tiêu cực, tiếc nuối tột cùng. Viễn Phương có phong cách viết sắc sảo, đầy sức quyến rũ; từ ngữ để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.
Khổ thơ cuối thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi rời khỏi. Nỗi buồn, nỗi tiếc thương vô tận. Nhà thơ muốn biến thành 'chim hót', trở thành 'hoa thơm bay', làm 'cây tre trung hiếu' để đền đáp lòng biết ơn Người. Tư duy thâm sâu, hình ảnh thơ đẹp và độc đáo, cách biểu hiện cảm xúc rất Nam Bộ. Đây là những dòng thơ nổi bật nhất trong bài Viếng lăng Bác.
Ngày trở về miền Nam, nước mắt tuôn trào. Muốn trở thành con chim hót quanh lăng Bác. Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương khắp nơi. Muốn trở thành cây tre hiếu kính trong nơi này. Tư duy 'muốn trở thành... ' được nhắc lại ba lần, thể hiện cảm xúc chân thành, sâu sắc của nhà thơ Nam Bộ đối với vị lãnh tụ.
Viếng lăng Bác, bài thơ ngắn nhưng ý thơ sâu, hình ảnh thơ đẹp, cảm xúc thơ sâu lắng, sắc sảo và quý phái. Viễn Phương đã chọn thể thơ mỗi câu tám từ, mỗi khổ bốn câu, tổng cộng bốn khổ - một sự cân đối tuyệt vời để thể hiện một phong cách thơ nghiêm túc, trang trọng.
Bài thơ là biểu hiện của tình yêu, tôn trọng và lòng biết ơn đối với Bác. Tâm trạng của nhà thơ, của mỗi người Việt Nam và của cả dân tộc. Đó là giá trị vĩ đại của bài thơ Viếng lăng Bác.
Phân tích Viếng Lăng Bác - mẫu 14
“Viếng lăng Bác” là tác phẩm đặc trưng của phong cách thơ của Viễn Phương. Bài thơ được xuất bản trong tập “Như mây mùa xuân” vào năm 1976, gây ấn tượng bởi sự chân thành và lòng biết ơn của nhà thơ, của nhân dân miền Nam và cả nước dành cho Bác.
Mở đầu bài thơ, người đọc cảm nhận được niềm xúc động và tự hào của nhà thơ khi được đến thăm lăng Bác sau 7 năm kể từ ngày Người ra đi:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Câu thơ đầu tiên vang lên như một lời chào, một sự giới thiệu đầy cảm xúc về hành trình của những đứa con từ miền Nam ra thủ đô thăm Bác. Viễn Phương sử dụng từ “con -Bác” gợi cảm giác gần gũi, gợi mối quan hệ gắn bó như cha con ruột thịt. Nhà thơ trong đó giống như một đứa con xa nhà, đã lâu mới có dịp quay lại thăm hỏi người cha già kính yêu. Đồng thời, động từ “thăm” được sử dụng như cách nói giảm nhẹ cho sự ra đi của Bác để nén lại bớt cảm xúc mất mát đau thương chưa thể xoa dịu của cả dân tộc.
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” hiện lên trong làn sương sớm mờ ảo trên con đường đến thăm Bác là hình ảnh chân thực, gợi lên dáng hình của quê hương, đất nước thân yêu, bình dị. Đồng thời, nó cũng là biểu tượng cho lòng kiên cường, bất khuất của người Việt Nam, vượt qua “bão táp mưa sa” khó khăn để thống nhất đất nước theo di ngôn của Người, rồi quay về kính cẩn trước linh hồn của Người. Những hình ảnh gợi mở, gợi cảm kết hợp với nhau đã tạo ra một không gian liên tưởng độc đáo, thú vị. Lăng Bác hiện lên dưới nét bút của nhà thơ như một làng quê yên bình.
Tác giả đi theo dòng người chậm rãi vào lăng, tâm hồn trào dâng niềm kính trọng, lòng biết ơn và ngưỡng mộ sâu sắc:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Từ “hàng ngày” khẳng định quy luật thời gian vĩnh viễn của tự nhiên và con người, miêu tả sự hiện hữu của dòng người không ngừng, mặn mà tiến vào lăng Bác để thể hiện tình cảm với người cha già yêu quý. Họ là biểu tượng cho người Việt Nam từ ba miền Bắc Trung Nam, từ 54 dân tộc anh em trên khắp mọi miền Tổ Quốc. Họ hòa quyện thành hình ảnh tượng trưng cho những điều tinh túy, tươi đẹp nhất của đất nước và con người Việt Nam trình bày tôn kính trước Bác.
Ngoài ra, tác giả còn sáng tạo hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” mô tả bảy mươi chín năm tuổi của Bác như bảy mươi chín mùa xuân rực rỡ, ý nghĩa. 79 mùa xuân ấy đã hi sinh để mang đến cho dân tộc một mùa xuân tự do, độc lập và hạnh phúc vĩnh cửu.
Khi đứng trước lăng Bác, trái tim nhà thơ tràn ngập cảm xúc không thể kìm nén, gợi lên xúc động sâu sắc trong hàng triệu con tim:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh mãi mãi
Nhưng lòng nghe nhói như cắt.
Viễn Phương tiếp tục sử dụng phép nói giảm, nói tránh “giấc ngủ bình yên” như muốn giảm bớt sự thật đau đớn về sự ra đi của Bác. Nhà thơ tái hiện trước mắt độc giả khung cảnh đầy cảm xúc: Bác nằm trong lăng, gương mặt thân thương của Bác trở nên hồng hào, dịu dàng như vầng trăng dưới ánh đèn mờ ảo. Hình ảnh “trời xanh” và “ánh trăng” là hình ảnh thực hiện sự tồn tại vĩnh cửu của thiên nhiên đồng thời cũng là hình ảnh tượng trưng cho tình cảm của nhân dân với Bác. Nó kết hợp với cặp từ “vẫn biết – nhưng lòng nghe nhói” để diễn đạt cảm xúc sâu sắc. Biết rằng Người sẽ mãi sống trong lòng dân tộc nhưng sự thật Bác đã ra đi mãi mãi vẫn khiến nhà thơ “nghe nhói như cắt”.
Nghệ thuật ẩn dụ biến đổi cảm giác “nghe nhói” nhấn mạnh sự đau xót tột cùng của nhà thơ trước sự thực tế Bác không còn nữa. Rồi nghĩ đến ngày mai phải trở về, xa Bác, cảm xúc của tác giả cũng như của những người con miền Nam vượt qua ranh giới thành tiếng khóc than:
Mai về miền Nam nước mắt trào dâng
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương nơi đây
Muốn làm cây tre trung hiếu đây…
Những giọt nước mắt tiếc thương, nhung nhớ Bác đến giây phút này đã không thể giữ lại. Lời thơ vẫn vang lên đầy cảm xúc, nghẹn ngào. Niềm mong muốn chân thành muốn ở gần Bác của ông được thể hiện mạnh mẽ thông qua loạt động từ “muốn làm”. Viễn Phương muốn trở thành con chim để hót lên lời ca cho lăng Bác, muốn trở thành cây tre thanh cao, tôn trọng như người lính bảo vệ giấc ngủ yên bình cho Người. Đó đều là những hình ảnh ẩn dụ chỉ những điều tốt đẹp nhất của thiên nhiên, thể hiện ước nguyện sâu sắc của nhà thơ và toàn thể dân tộc: Muốn ở bên, canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Người.
Với bài thơ “Viếng lăng Bác” Viễn Phương đã đóng góp không nhỏ cho văn chương về Bác. Dù đã trôi qua bao năm, bài thơ vẫn là tác phẩm đầy cảm xúc gửi gắm những giá trị vĩnh cửu mà nhà thơ và toàn thể dân tộc dành cho Bác.