
Tổng hợp hơn 50 bài văn phân tích và đánh giá các tác phẩm văn học mà bạn yêu thích nhất, cung cấp dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Danh sách Top 50 Bài phân tích và đánh giá văn học hàng đầu
Đề bài: Hãy viết một bài văn nghị luận phân tích và đánh giá một tác phẩm văn học mà bạn yêu thích.
Dàn ý cho Bài văn nghị luận phân tích và đánh giá một tác phẩm văn học mà bạn yêu thích
1. Mở đầu: Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm (tiêu đề, tác giả,...) và ý kiến tổng quan của bạn về tác phẩm. Chia sẻ với độc giả lí do bạn chọn tác phẩm này để phân tích và đánh giá, những điều khiến bạn yêu thích tác phẩm.
2. Nội dung chính:
+ Tóm lược nội dung chính của câu chuyện.
+ Phân tích và đánh giá về chủ đề của truyện dựa trên các chứng cứ từ tác phẩm.
+ Phân tích và đánh giá các đặc điểm nghệ thuật của tác phẩm. Mỗi phần phân tích và đánh giá cần có các chi tiết đặc biệt được lấy từ tác phẩm.
3. Kết luận:
Tóm tắt các nhận định trong phần thân bài, xác nhận giá trị của tác phẩm và đưa ra một số ý tưởng mở rộng, ...
Nghị luận phân tích và đánh giá về một tác phẩm văn học: Trần Trụ Trời - mẫu 1
Trong thần thoại dân gian của người Việt, việc sáng lập vũ trụ bắt đầu với câu chuyện về Thần Trụ Trời. Truyện này đã được các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian thu thập và ghi lại trong cuốn 'Hợp tuyển thơ văn Việt Nam'. Nó thể hiện giá trị về chủ đề và nghệ thuật một cách đặc sắc, thể hiện sự tôn kính và thiêng liêng của con người đối với văn hóa tâm linh, tín ngưỡng và với trời đất.
Theo câu chuyện, vào thời kỳ trời đất còn trong tối tăm và hỗn loạn, chưa có thế giới và vạn vật, có một vị thần với sức mạnh phi thường xuất hiện. Vị thần đã tự mình tạo ra cột chống trời, sau đó tạo ra núi non, biển cả từ đất đá. Vị thần này được gọi là Trời hoặc Ngọc Hoàng. Các vị thần khác sau đó tiếp tục xây dựng thế giới.
Qua cốt truyện Thần Trụ Trời, chúng ta nhận ra giá trị của câu chuyện không chỉ qua chủ đề mà còn qua bài học cuộc sống mà nó truyền đạt. Đây là một tác phẩm văn học dân gian thuộc nhóm truyện thần thoại suy nguyên, được sáng tạo và lưu truyền từ xa xưa nhằm giải thích sự hình thành của thế giới tự nhiên. Câu chuyện này thể hiện niềm tin và sự tôn kính của con người đối với văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, trời đất.
Từ thời nguyên thuỷ, cuộc sống đã yêu cầu con người phải quan sát, suy ngẫm về các hiện tượng tự nhiên xung quanh. Câu chuyện này cho thấy người Việt cổ và các dân tộc khác trên thế giới đã cố gắng hiểu rõ thế giới tự nhiên bằng cách sáng tạo những huyền thoại và thần thoại. Đồng thời, nghệ thuật phóng đại đã làm cho các nhân vật thần thoại trở nên sống động, vượt qua thời gian để truyền bá đến ngày nay. Qua đó, câu chuyện này thể hiện sự tôn kính của con người đối với văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, trời đất và khám phá thế giới của thế hệ con cháu chúng ta.
Phân tích và đánh giá về một tác phẩm văn học: Thần Trụ trời - mẫu 2
Truyện 'Thần Trụ trời' thuộc loại thần thoại kể về nguồn gốc vũ trụ, được tác giả Nguyễn Đổng Chi sưu tầm. Tác phẩm được xem là có đặc điểm nổi bật về chủ đề và hình thức nghệ thuật.
'Thần Trụ trời' kể về vị thần Thần Trụ trời có sức mạnh phi thường chia cắt giữa bầu trời và mặt đất, tạo ra các dạng địa hình tự nhiên. Câu chuyện này giải thích nguồn gốc của các hiện tượng tự nhiên một cách sáng tạo.
Bắt đầu câu chuyện, tác giả mô tả không gian vũ trụ hoang sơ và thời gian chưa xác định rõ ràng. Thần Trụ trời xuất hiện với thân hình khổng lồ và sức mạnh phi thường, tạo ra thế giới tự nhiên bằng cách đào đất và đập đá. Từ đây, chủ đề của truyện trở nên gần gũi và hấp dẫn với người đọc.
Chủ đề và nghệ thuật luôn hỗ trợ lẫn nhau trong một tác phẩm văn học. Trong truyện 'Thần Trụ trời', cốt truyện được xây dựng đơn giản và gần gũi, giải thích quá trình tạo lập vũ trụ và thế giới tự nhiên. Đồng thời, nhân vật Thần Trụ trời được phác thảo với kích thước khổng lồ và sức mạnh phi thường, giúp người đọc hình dung rõ ràng về một vị thần trong thần thoại.
Truyện 'Thần Trụ trời' với những đặc điểm nổi bật về chủ đề và nghệ thuật đã mang lại cho người đọc câu chuyện thú vị về nguồn gốc của các hiện tượng tự nhiên. Tác phẩm cũng phản ánh mong muốn khám phá và tìm hiểu của con người từ thời sơ khai. Hy vọng rằng tác phẩm sẽ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc yêu thích văn học dân gian.
Phân tích và đánh giá về một tác phẩm văn học: Chuyện người con gái Nam Xương
Đau lòng thay phận của phụ nữ,
Nói rằng số phận bạc mệnh là điều phổ biến.
Trong xã hội phong kiến cổ xưa, số phận của phụ nữ thực sự như Nguyễn Du đã mô tả. Dù ở bất kỳ tầng lớp nào, dù có tốt đẹp đến đâu, họ đều chia sẻ số phận 'bạc mệnh' như nhau. Số phận đau đớn đó đã được các nhà văn phản ánh trong các tác phẩm của họ.
Một ví dụ tiêu biểu có lẽ là Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, một tác phẩm nổi tiếng từ thế kỉ XVI (Trong tập Truyền kì mạn lục). Đây là một tác phẩm có giá trị sâu sắc và đã gây ra cảm xúc trong lòng người đọc qua mọi thế hệ.
Chuyện người con gái Nam Xương là một tác phẩm có giá trị hiện thực sâu sắc. Xã hội thời đó là một xã hội loạn lạc, chiến tranh liên miên đã làm cho cuộc sống của người dân thật sự khốn khổ. Từ buổi tiễn biệt Trương Sinh ra trận đến lời chia tay của Vũ Nương với chồng, tất cả đều cho thấy sự sợ hãi của người dân trước chiến tranh.
Chiến tranh đã tách xa vợ chồng, cha con... và là nguyên nhân của nhiều nỗi đau cho người phụ nữ. Trương Sinh đi lính, Vũ Thị Thiết ở nhà chăm sóc mọi việc. Mẹ chồng bệnh, mẹ mất, cúng tế...
Khi chồng trở về, Vũ Nương không được hạnh phúc vì anh ta đa nghi và ghen tuông mù quáng, tin lời đứa trẻ ngây thơ mà không suy nghĩ. Vì 'cái bóng' vô hình, Vũ Nương bị buộc tội oan. Nhưng trong xã hội phong kiến, người phụ nữ không được bào chữa hoặc làm sáng tỏ cho mình. Họ không có quyền lực, không có sự ủng hộ hay bảo vệ. Cuối cùng, nàng phải chịu số phận oan trái.
Số phận của phụ nữ trong xã hội phong kiến là như vậy! Bị ràng buộc bởi truyền thống, họ phải chịu số phận 'bạc mệnh' suốt đời.Thậm chí khi được minh oan, dù Vũ Nương rất yêu quý chồng con nhưng cũng không thể trở lại cuộc sống thường nhật vì nơi đó luôn đầy rẫy nguy hiểm cho phụ nữ. Điều này là một chi tiết quan trọng trong việc phê phán xã hội phong kiến.
Tác phẩm khẳng định sự tàn ác của xã hội phong kiến, nơi giam cầm cuộc sống của phụ nữ suốt hàng thế kỷ. Đó là một bức tranh sống động, phản ánh thực tế thân phận đáng thương của phụ nữ trong xã hội xưa.
Đằng sau nỗi đau của Vũ Nương, ta nhận thấy lòng nhân ái đáng trân trọng của tác giả. Từ lòng yêu thương và tôn trọng phụ nữ, Nguyễn Dữ ca ngợi những phẩm chất cao quý của người con gái Nam Xương: kiên cường, hiếu thảo, trung thực. Khi chồng đi lính, nàng đảm nhận vai trò của cả chồng lẫn vợ mà không than vãn: chăm sóc con cái, lo lắng cho mẹ già.
Nàng luôn tuân thủ đạo đức hiếu thảo với cha mẹ, phụng dưỡng mẹ chồng như mẹ ruột. Đối với chồng, dù gặp nghi ngờ, nàng vẫn giữ trọn nghĩa tình. Biết chồng hay nghi ngờ, “nàng vẫn giữ phong cách, không để bất kỳ xung đột nào xảy ra giữa vợ chồng”. Khi bị chồng nghi oan, không thể giải thích được, nàng đã hy sinh tính mạng để chứng minh tình cảm của mình.
Lời nguyện thề cuối cùng của Vũ Nương trước khi qua đời là minh chứng cho lòng trong sạch, trung thực của nàng. “Nếu giữ trọn tinh thần trong sáng, lòng trinh bạch, mong vào trở thành ngọc Mỵ Nương trong nước, cỏ Ngu Mỹ trên đất. Dưới hình dạng chim cá, lừa đảo chồng con, mong làm mồi cho cá tôm dưới nước, cơm cho diều quạ trên trời và chịu sự phỉ nhổ của mọi người”. Vũ Nương tin vào lòng trung thực và trong sáng của mình, vì thế sau khi qua đời, lời nguyện của nàng đã được thực hiện.
Tinh thần cao quý của người con gái Nam Xương như vậy! Câu chuyện càng đau thương, tấm lòng nàng lại càng tỏa sáng. Vũ Thị Thiết là minh chứng cho tâm hồn cao đẹp. Trong lòng nàng, không có gì ngoài tình yêu chồng con. Tinh thần nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ trong việc phản ánh nỗi oan của Vũ Nương. Trong khi xã hội phong kiến coi thường quyền sống của phụ nữ, không quan tâm đến nỗi đau của họ, truyện ngắn này đã nhấn mạnh nỗi đau đó, thấu hiểu nỗi oan ấy.
Bên cạnh đó, Nguyễn Dữ còn nâng cao mong muốn của họ: được tôn trọng. Sau khi vợ mất, không chỉ chồng hiểu ra oan của nàng và giải oan, mà tâm hồn trong sáng và trung thực của họ còn gây ấn tượng đến thần linh. Hình ảnh “Vũ Nương được đưa đi trong một lễ hoa, sau đó là hơn năm mươi chiếc xe, cờ tán và võng lọng rực rỡ” thật là đẹp. Đó là phần thưởng, là sự an ủi cho nàng. Đồng thời, nó cũng thể hiện được ước mơ của tác giả, của nhân dân xưa.
Bên cạnh đó, truyện còn nhiều thành công về mặt nghệ thuật.
Đặc biệt là nghệ thuật xây dựng câu chuyện với nhiều tình tiết gay cấn. Những phần thắt nút, mở nút, và sự bất ngờ vẫn rất tự nhiên. Người đọc bất ngờ trước những lời nói ngây thơ của đứa trẻ khi gặp lần đầu tiên cha, cảm thấy thương tâm trước cái chết của người vợ, và càng ngạc nhiên khi đọc đến chi tiết: đứa con chỉ thấy bóng cha in trên vách mà nói: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Đó là lý do gây ra nỗi đau, nỗi oan ức của một con người, và sự tan nát của một gia đình chỉ vì một “cái bóng” theo lời của trẻ thơ. Chi tiết đó làm nổi bật nỗi oan trở nên rõ ràng hơn với tất cả sự bi thảm của nó.
Các nhân vật trong truyện, mặc dù chưa thực sự phát triển cá tính, nhưng vẫn thể hiện được một số đặc điểm khá sắc nét: đứa trẻ ngây thơ, người vợ hiền lành trung thực cam chịu, người chồng vừa nóng tính vừa ghen tức nhưng cũng có tấm lòng nhẹ nhàng. Truyện kết hợp hiện thực với những yếu tố huyền bí tạo ra sự hấp dẫn cho người đọc.
Tuy nhiên, do viết bằng chữ Hán và có những cách diễn đạt cầu kỳ, ngôn từ của truyện khiến ta cảm thấy thiếu tự nhiên, không biết chính xác lời nói của cha ông ngày xưa. Nhưng dù sao, đây vẫn là một truyện ngắn đầu tiên trong văn học Việt Nam đạt được thành công đáng kể.
Tóm lại, Chuyện người con gái Nam Xương là một câu chuyện đầy oan khuất. Qua câu chuyện này, ta nhận ra sự bất công phi lý của xã hội phong kiến đã mang lại đau khổ cho phụ nữ đẹp trong văn học Việt Nam thế kỷ XVI và vẻ đẹp đáng quý của phụ nữ Việt Nam. Dù đã trải qua hàng thế kỷ, nhưng giá trị của tác phẩm vẫn không hề mất đi.
Phân tích và đánh giá một tác phẩm văn học: Bình Ngô Đại Cáo
Nếu “Nam quốc sơn hà” được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì “Bình Ngô Đại Cáo” xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Với bút pháp và tư duy vượt thời đại, Nguyễn Trãi đã tạo ra một tác phẩm văn học và lịch sử vô cùng quan trọng.
Nguyễn Trãi không chỉ là một vị tướng tài ba, góp phần quan trọng vào việc lập ra nhà Lê, mà ông còn là một nhà thơ với sự nghiệp sáng tác lớn. Ông để lại ấn tượng đậm nét bởi tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện trong mỗi tác phẩm. Trong số đó, “Bình Ngô Đại Cáo” là một bản tuyên ngôn vĩ đại của dân tộc. Sau khi kết thúc cuộc chiến chống lại quân Minh, Nguyễn Trãi trình bày bản cáo này để tuyên bố sự chiến thắng của quân và dân ta. Tên tác phẩm có nghĩa là: bài cáo quan trọng thông báo về việc chấm dứt yên bình của giặc Ngô (tên gọi khinh bỉ thay cho quân Minh).
Trước hết, Nguyễn Trãi đặt ra cơ sở lý luận cho những quan điểm của mình. Ông khẳng định rằng trung tâm của tư tưởng nhân nghĩa là dân, dân là gốc. Nếu trong Nho giáo, nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người dựa trên tình thương và đạo lý thì đến với Nguyễn Trãi, ông đã mở rộng ý nghĩa của nhân nghĩa:
“Nhân nghĩa làm căn bản là để dân được sống yên bình
Và đầu tiên là trừ bỏ những kẻ hung ác trước khi suy tính lương tâm”
Nhân nghĩa không chỉ đảm bảo hạnh phúc cho dân mà còn loại trừ sự tàn ác, diệt trừ những kẻ làm dân khốn khổ. Điều này là một khẳng định mạnh mẽ về tính chất: chúng ta là chính nghĩa, kẻ khác là phi nghĩa. Đồng thời, đây cũng là một tuyên bố về quốc gia và chủ quyền. Nguyễn Trãi đã thông minh đưa ra nhiều bằng chứng thuyết phục cho sự độc lập không thể chối cãi của dân tộc: có lịch sử lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục và truyền thống, … Cùng với đó, các từ “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia” cũng làm cho sự tồn tại của quốc gia ta trở nên rõ ràng hơn. Nguyễn Trãi cũng thể hiện ý thức cao cả về chủ quyền khi so sánh triều đại Đại Việt và triều đại Trung Hoa bằng cách sử dụng từ ngữ ngang bằng. Trong khi vua phương Bắc thường gọi vua ta là “Vương” (chức vị cai trị một vùng đất nhỏ) thì Nguyễn Trãi mạnh mẽ gọi là “Đế” (danh hiệu của vua của một quốc gia). Một từ ngữ nhỏ thôi nhưng cũng thể hiện lòng kiêu hãnh của một quốc gia nhỏ về diện tích lãnh thổ nhưng không hề nhỏ về lòng tự trọng dân tộc. Các tướng lãnh của địch lần lượt được đề cập chỉ để cảnh báo về hậu quả của việc chống lại sự công bằng: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết khuất phục, Toa Đô bị bắt sống,… Tư tưởng nhân nghĩa là nền tảng cho sự tuyên bố về chủ quyền của một quốc gia và chắc chắn rằng dòng dõi con Rồng cháu Tiên sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ quyền tự do và độc lập.
Ánh sáng chiếu vào thực tế, hình ảnh nhân dân ta bị bóp méo dưới gót giày áp bức của giặc Minh khiến lòng người đau xót:
“Dân làng bị đốt cháy dưới lửa tàn ác
Con cái bị chôn vùi dưới bóng tối bao phủ”.
Gánh nặng thuế đè nặng như trút núi
Đánh bắt cá, săn chim hoang, mạng lưới rải rác
Người dân bị đày đọa, bẫy hươu đen, khắp nơi rối rắm
Giống côn trùng, cây cỏ bị tàn phá tan tác
Cả nghề nông nghiệp bị hủy hoại...
Người bị buộc phải xuống biển, lưng chòng mò ngọc, chán chường trước cá mập ác
Kẻ bị đưa vào núi, đào cát kiếm vàng, khổ đau giữa rừng sâu độc nước.
Gánh nặng của nỗi khổ cùng cực
Thay vì lòng mềm lòng cứng cứ chết khốn cùng
Nguyễn Trãi đã phơi bày sự đố kịp, lừa dối của những kẻ xâm lược nước ta ('nhân', 'thừa cơ') nhưng lại lợi dụng những đạo lý giả dối. Họ bóc lột dân ta đến tận cùng: giết hại vô tội, cướp bóc tài nguyên, làm hại môi trường,... Một sự hủy diệt tàn nhẫn khiến cả trời đất cũng phải căm phẫn. Hình ảnh 'Trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Đông Hải không rửa hết mùi' với sự so sánh tội ác của kẻ thù trước sự bất khả gì của tự nhiên khẳng định rằng tội ác của chúng không thể được tha thứ. Dường như trong lòng chúng không còn là trái tim của con người mà là khối sắt không có cảm xúc. Chúng giống như những con quỷ đói máu luôn sẵn sàng giết hại những người dân vô tội. Câu hỏi nảy ra khiến lòng dân phẫn uất đến cực độ:
Nếu trời đất có lòng thương xót
Thì ai có thể hy vọng vào sự khoan dung của thần dân
Thậm chí cả vũ trụ ngàn năm cũng không tha thứ trước tay ác của quân thù, càng không phải là nhân dân!
Như một kết quả tự nhiên của sự bất công, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã bùng phát, đòi lại hòa bình cho đất nước. Mở đầu là hình tượng vị anh hùng Lê Lợi trong bức tranh 'áo vải':
“Ta đây
Núi Lam Sơn nổi lên với tinh thần của cuộc nghĩa
Ở nơi hoang dã, ta tự lập bản thân
Xuất thân từ gia đình nông dân, mang trong lòng căm thù sâu sắc với kẻ thù, con người với trí tuệ vượt trội đó tận hưởng sự cam kết cao cả. Quên ăn, quên ngủ, thậm chí cả trong giấc mơ cũng lo lắng cho sự thịnh vượng của quê hương. Những từ ngữ này ghi lại sâu sắc ý chí và quyết tâm vì lý tưởng cao cả của một vị lãnh tụ có tài năng và lòng nhân từ, dốc hết tâm huyết cho cuộc nghĩa lớn. Trong giai đoạn phản công và chiến thắng, tác giả sử dụng kỹ thuật liệt kê để làm nổi bật không khí đấu tranh sôi nổi và chiến thắng đầy tự hào của chúng ta. Đối diện với chiến thắng không thể tránh khỏi đó là sự thất bại nhục nhã và tủi hổ của quân địch:
“Trần Trí, Sơn Thọ không còn cơ hội vươn ra,
Lí An, Phương Chinh im lặng, mong muốn thoát khỏi cảnh đau đớn.”
Trong giai đoạn thứ hai, quân ta tiến công về phía Bắc. Kẻ thù huy động tất cả lực lượng để phòng thủ, nhưng chúng ta đầy quyết tâm giành chiến thắng. Bằng cách sử dụng từ ngữ mạnh mẽ, Nguyễn Trãi làm cho người đọc hiểu rõ hơn về sự khốc liệt của cuộc chiến và sự thất bại nhục nhã của quân Minh:
“Dòng máu Ninh Kiều chảy thành sông, lan tỏa vạn dặm
Đền Tốt Động lấp đầy kí ức, không để mờ mịt suốt ngàn năm.
Sự thất bại của kẻ thù là phúc âm: Trần Hiệp đã phải ngả đầu trước sự thống trị của chúng ta.
Kẻ thù gian ác: Lí Lượng cũng không thoát khỏi sự diệt vong.
Nghệ thuật sử dụng phóng đại ('lấp đầy kí ức, không để mờ mịt suốt ngàn năm') mang lại ấn tượng sâu sắc về cuộc chiến khốc liệt cũng như sự thất bại của quân Minh. Với tấm lòng nhân đạo kéo dài qua các thế hệ, “Ta dùng lợi ích lớn lao để chống lại sự tàn bạo” làm cho quân và dân ta chọn con đường nhân đạo khi đối diện với kẻ thù xâm lược:
“Sức mạnh thần thánh không hại đến tấm lòng của chúng ta, chúng ta mở đường cho sự hy sinh cao quý
Mã Kì, Phương Chính, cung cấp năm trăm chiếc thuyền ra khơi, hồn vẫn bay bổng, tự do.
Vương Thông, Mã Anh, gửi về một vài nghìn con ngựa, nhưng trái tim vẫn rung động.
Chúng ta không cần phải truy đuổi và tiêu diệt đối phương đến tận cùng. Nguyễn Trãi thực sự cao cả khi nhận ra rằng bây giờ không cần phải làm mất thêm sinh mạng mà cần tập trung vào việc chăm sóc binh sĩ và dân chúng sau những ngày chiến tranh dữ dội.
Niềm tin của nhân dân sau những chiến thắng lớn đã trở nên vững mạnh hơn. Nguyễn Trãi đại diện cho vua Lê, tuyên bố với toàn bộ dân chúng rằng đất nước đã hòa bình, mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc - thời kỳ độc lập, tự do:
“Từ đây, xã tắc vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.”
Tone hùng hồn vô cùng, hình ảnh về tương lai rạng ngời hơn bao giờ hết. Tất cả đều hướng về một tương lai tươi sáng cho đất nước. Vua và dân cùng nhau hân hoan về công việc xây dựng đất nước. Như vậy, trên mọi miền đất, dưới mỗi mái nhà, độc lập, tự do và hòa bình đã thực sự trở lại. Cuối cùng, Nguyễn Trãi cũng gửi lời biết ơn chân thành tới tổ tiên của chúng ta:
“Mọi sự đều nhờ vào trời đất và tổ tiên của chúng ta
Linh thiêng vẫn im lặng phù trợ
Đúng thế, “Bình Ngô Đại Cáo” là một tác phẩm văn học hùng tráng, mang đậm dấu ấn văn chương.
“Bình Ngô Đại Cáo” thực sự là một kiệt tác văn học cổ điển. Tác phẩm này thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền của dân tộc, khẳng định lòng yêu nước lâu dài.
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
(Nam quốc sơn hà)
Phân tích văn học: Bức tranh dời đô
Lí Công Uẩn, vị hoàng đế khai sinh nhà Lý, đã trải qua biết bao sóng gió. Trong thời gian làm vua, ông dành thời gian đàn áp các cuộc nổi dậy, từ đó củng cố triều đình trung ương. Vào năm Canh Tuất (1010), Lí Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư sang Đại La (Hà Nội ngày nay), mở ra thời kỳ phồn thịnh cho nhà Lý kéo dài hơn 200 năm.
Chiếu dời đô là một tác phẩm quan trọng trong văn học triều Lý, tôn vinh vai trò của Thăng Long là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa, mang lại sự thú vị và sự thuyết phục về khao khát kiểm soát đất nước.
Bài chiếu này đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Việt Nam, là một phần của hành trình 1000 năm lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long - một bước ngoặt quan trọng của dân tộc Việt Nam.
Trong chế độ phong kiến, chiếu là một loại văn bản quan trọng, truyền đạt mệnh lệnh, ý kiến của vua đến quần thần và dân chúng. Nó cũng kết hợp ngôn ngữ hành chính với ngôn ngữ gần gũi với nhân dân.
Bài chiếu có thể chia thành 3 đoạn rõ ràng: Đoạn 1: Nêu bật ý nghĩa của việc chọn địa điểm kinh đô phù hợp. Đoạn 2: Phản ánh sự sai lầm trong việc chọn vị trí lập kinh đô của nhà Đinh. Đoạn 3: Nhấn mạnh vai trò của Thăng Long là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước.
Việc chọn kinh đô đúng là bước quan trọng củng cố sự thịnh vượng của muôn đời. Trong mỗi văn bản, tác giả sử dụng phương pháp lập luận sắc bén để thể hiện ý nghĩa sâu sắc, tầm nhìn của mình về việc dời kinh đô, đồng thời trình bày các dẫn chứng từ lịch sử để củng cố lập luận. Điều này được thể hiện rõ trong bài viết về việc dời đô, một quyết định không dễ dàng nhưng lại mang lại nhiều ý nghĩa tích cực cho đất nước.
Tác giả đã nhấn mạnh rằng việc dời đô không phải là điều hiếm gặp trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, và những quyết định này thường đi kèm với sự thành công lớn lao trong việc quản lý quốc gia và phục vụ nhân dân. Việc đặt câu hỏi về tầm quan trọng của việc dời đô giúp khơi dậy sự suy ngẫm trong tâm trí của người đọc.
Bài viết mở ra nhiều điều để suy ngẫm, đặc biệt là về ý nghĩa của việc chọn địa điểm kinh đô và sự đồng thuận của dân chúng. Việc lắng nghe ý kiến của dân là một phần quan trọng trong quyết định của vị vua, và việc này thường dẫn đến những thay đổi tích cực cho đất nước.
Việc dời đô được coi là điều tất yếu và thể hiện sự hiểu biết sâu rộng về thời đại và khao khát của cả vua và dân chúng. Người viết cũng phê phán các sai lầm trong lịch sử và nhấn mạnh vai trò của việc lắng nghe ý kiến của dân.
Tác giả đã phê phán các sai lầm trong lịch sử và nhấn mạnh rằng việc dời đô không thể bị coi thường, và việc này phản ánh một tầm nhìn sâu sắc và mong muốn sự phát triển của đất nước.
Nếu không lắng nghe ý kiến của dân và không suy nghĩ sâu sắc về thời đại, đất nước sẽ không thể phát triển. Việc chọn kinh đô là một quyết định khó khăn nhưng mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia và dân tộc.
Việc chọn kinh đô là một quyết định quan trọng và mang lại sự thay đổi đáng kể cho đất nước. Điều này là niềm tự hào của toàn dân.
Đoạn 3 nhấn mạnh việc chọn Đại La làm kinh thành là một quyết định đúng đắn và thu hút lòng người theo đồng ý, dựa trên thuyết phong thủy cổ xưa để dự đoán về địa lợi và vẻ đẹp của thành Đại La từ nhiều khía cạnh như địa lý, văn hóa, và điều kiện sống.
Lý Công Uẩn nhận ra rằng Đại La là nơi lý tưởng để xây dựng kinh đô vĩ đại, và lịch sử đã chứng minh rằng Thăng Long - Đại La đã từng là trung tâm của nhiều triều đại và hiện là Thủ đô của Việt Nam.
Đại La không chỉ là trung tâm chính trị, văn hóa và kinh tế của quốc gia, mà còn là một địa điểm lý tưởng để xây dựng kinh đô mới cho Đại Việt. Sự phân tích này cũng được sử gia Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên thể hiện rõ trong việc miêu tả vẻ đẹp và địa thế của Đại La.
Tôn trọng ý kiến của dân và thống nhất quyết định là điều quan trọng đối với Lý Công Uẩn. Việc dời kinh đô được coi là bước quan trọng trong sự đoàn kết và phát triển của đất nước.
Bài viết 'Chiếu dời đô' kết hợp lý và tình, tạo ra sự đồng cảm giữa vua và nhân dân. Việc dời đô từ Hoa Lư ra đồng bằng đất rộng chứng tỏ sức mạnh và lòng yêu nước của triều đình nhà Lý.
Tác phẩm này thể hiện khát vọng của người Việt về một đất nước độc lập, mạnh mẽ và tự chủ. Quyết định của Lý Công Uẩn được coi là đúng đắn và đã được thế hệ sau tôn trọng.
Nghị luận về tác phẩm văn học: Những Ngày Xuân Nhỏ
Có bao nhiêu bài viết về Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải đã từng tồn tại hoặc sẽ tồn tại? Vậy điều gì đã tạo nên sức sống bền vững cho bài thơ? Mỗi người có một cách lý giải không hoàn toàn giống nhau, nhưng chắc chắn sẽ gặp nhau ở một điểm chung cơ bản là: chính sự chân thành, giản dị của cảm xúc đã tạo nên sức sống cho tác phẩm này!
Trước hết cần phải khẳng định rằng, Thanh Hải có lý do để tự hào về việc sống trọn vẹn từ tuổi 17 đến tuổi 50 của mình. Thông thường, khi con người nhận ra rằng mình đang sống trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, họ thường tự soi chiếu và đánh giá bản thân một cách nghiêm túc nhất. Vì vậy, khi nằm trên giường bệnh, Thanh Hải mới cảm nhận được sự cô đơn, bất lực của một cá nhân khi dần dần bị cô lập khỏi cộng đồng, một con người mất dần quyền tự do. Sự bùng nổ của cảm xúc đã trở thành nguồn động viên, là nguồn động lực cho sự sáng tạo. Nếu bản chất của sáng tạo là vĩnh cửu, thì đây chính là khoảnh khắc thăng hoa của tất cả những trải nghiệm mà Thanh Hải đã trải qua để viết ra bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Và những dòng thơ đầu tiên đã tự nhiên bùng nổ:
Nở giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Con chim chiền chiện hót lên vang trời
Tiếng hót vang lên trong bầu trời
Những giọt nước lấp lánh rơi
Tay tôi vươn lên
Khi Thanh Hải sáng tác “Nở giữa dòng sông xanh/ Một bông hoa tím biếc”, không chỉ là một cảnh đẹp nơi ngoại cảnh hoặc một trạng thái tâm lý, mà còn mang trong mình một triết lý về cuộc sống và sự bất diệt. Dòng sông xanh không chỉ là bản thân nó mà còn là biểu tượng của thời gian. Đó là dòng chảy vô hạn, vô biên và lạnh lùng của thời gian. Nó là nguyên nhân tạo ra và nuôi dưỡng “Một bông hoa tím biếc”, đồng thời cũng là một thực thể phá hủy, tiêu diệt mọi thứ. “Bông hoa tím biếc” hiện đang tồn tại sẽ trở thành kỷ niệm để ngày mai sẽ có một bông hoa khác, cùng một loài. Dòng sông là vĩnh cửu, nhưng bông hoa dù rực rỡ đến đâu cũng sẽ tan biến vào quá khứ. Tương tự như mỗi con người, dù tỏa sáng đến mức nào cũng sẽ phải chấp nhận sự tan biến theo quy luật tự nhiên của cuộc sống.
Thấu hiểu qua các hình tượng nghệ thuật, chúng ta có thể cảm nhận được ý nghĩa thực sự của cuộc sống, ngay trong mạch cảm xúc buồn bã, trong trí tưởng tượng của người viết vẫn vang lên những âm thanh vui vẻ của cuộc sống: “Ơi con chim chiền chiện / Hót chi mà vang trời”. Tiếng chim hót là âm thanh tự nhiên nhưng nó kết hợp với tiếng reo vui trong tâm hồn của nhà thơ, đó là âm thanh vui vẻ về việc sống một cuộc sống trọn vẹn và hạnh phúc. Một bông hoa có thể phai nhạt nhưng vẻ đẹp của nó vẫn hiện diện sâu trong tâm trí con người. Một con người có thể biến mất mãi mãi, nhưng những đóng góp về tinh thần của họ có thể còn sót lại với thời gian. Với niềm tự hào chân thành đó, nhà thơ đã vượt qua tâm trạng u sầu để hòa mình vào không khí sôi động của mùa xuân; để cảm nhận và thấu hiểu cái “hồn vía” mà không gian và thời gian đang đong đầy sắc xuân, hương xuân: “Từng giọt long lanh rơi / Tay tôi vươn lên”. Chúng ta đã từng cảm thấy bất lực trước một “tiếng huyền” trong Thơ duyên của Xuân Diệu, một “vị xa xăm” trong Quê hương của Tế Hanh, có lẽ cũng sẽ cảm thấy bất lực trước “Từng giọt long lanh rơi” của Thanh Hải? Bất lực vì không thể giải thích một cách rõ ràng xem “tiếng huyền” là gì, “vị xa xăm” là vị gì và “từng giọt” là giọt gì, nhưng vẫn có thể cảm nhận bằng linh hồn, bằng trí tưởng tượng… về cái đẹp và sự độc đáo của những hình tượng đa nghĩa này. Nếu “tiếng huyền” là những âm thanh xao động vang vọng trong lòng để trở thành âm điệu chính cho “một cõi yêu đương”, “vị xa xăm” là kỷ niệm về một thời xa lạ, thì “từng giọt” có thể là những niềm vui lớn có thể tái sinh lòng ham sống của một con người hiểu biết sâu sắc về sự sống và cái chết sắp đến với mình từ từ, lạnh lùng và tàn nhẫn! Chỉ khi như vậy chúng ta mới thể hiện được sự đồng cảm và xúc động trước một hành động chân thành hướng tới sự sống của nhà thơ: “Tay tôi vươn lên”!
Từ hành động chân thành đó, tác giả đã tái hiện lại cuộc sống lao động và chiến đấu hăng hái mà mình đã dành cả cuộc đời:
Mùa xuân người cầm súng
Lưng mang nặng trĩu hạt lộc
Mùa xuân người bước ra đồng
Hạt lộc phủ đầy đất ruộng
Mọi thứ đều vội vã
Mọi thứ đều nhộn nhịp...
Niềm vui này bắt nguồn từ lòng tin mạnh mẽ vào tương lai của quốc gia:
Quốc gia hàng nghìn năm
Khó nhọc và đầy thách thức
Quốc gia như một ngôi sao
Tiến lên phía trước không ngừng
Quốc gia được hình thành, tồn tại và phát triển qua những thế kỷ của “bốn nghìn năm” lịch sử và những suy tư sâu xa để tỏa sáng như một ngôi sao trong lòng mỗi người dân Việt. Đó chính là vẻ đẹp của quá khứ và cũng là niềm hy vọng cho hiện tại. Giống như mọi công dân trung thành khác, trong những nỗ lực và khó khăn của đất nước, tác giả đã góp phần nhỏ bé của mình, đó là đóng góp tự nguyện như một phần của cuộc sống:
Ta hóa thành tiếng chim hót
Ta biến thành một đoá hoa
Ta hòa mình vào giai điệu hân hoan
Một nốt nhạc sâu lắng xao xuyến
“Tôi” của nhà thơ như một dòng suối khiêm nhường đã hòa mình vào “ta” của “dòng sông xanh” trên quê hương, đất nước của chúng ta. Từ vị thế của “ta, chúng ta”, tức là vị thế của mọi người, nhà thơ đã chia sẻ chân thành với bạn bè, đồng chí về một lối sống đơn giản và chân thành.
Bài thơ được sáng tác vào tháng 11 năm 1980, một thời điểm trong thập kỷ (1976 – 1986) khi đất nước chúng ta đối mặt với những thách thức đặc biệt nặng nề. Tại sao Thanh Hải không cảm thấy buồn bã về điều đó? Như Nguyễn Duy “bị sốc” trước “vẻ đẹp bất ngờ của vầng trăng tròn”, Thanh Hải cũng sẽ “bị sốc” khi nghe tiếng chim hót, bông hoa nở… đại diện cho sự tồn tại vĩnh cửu; đó là những giá trị bất diệt; đó là cái đẹp không tuổi… Nhưng về cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người? Trong mối quan hệ giữa “tôi” và “ta”? Liệu nó có tồn tại mãi mãi? Thanh Hải không trực tiếp trả lời câu hỏi này mà thay vào đó là một lời nhắn nhủ. Ông đã nhắn nhủ điều gì? “Tôi làm con chim hót/ Tôi làm một nhành hoa/ Tôi nhập vào hòa ca/ Một nốt trầm xao xuyến”. Làm con chim phải có tiếng hót đặc biệt. Làm bông hoa phải có mùi hương đặc trưng. Nhưng những đặc trưng đó chỉ được thể hiện trong mối quan hệ với cộng đồng, với những cá thể khác cùng loài. Không thể và không nên so sánh giữa tiếng hót của con chim và hương sắc của bông hoa, xem cái nào quan trọng hơn, cái nào có giá trị hơn?… Mỗi người cũng vậy, mỗi người mang một giá trị riêng không thể so sánh. Vì thế, trong bản “hòa ca” của sự đoàn kết, cần có những người khiêm tốn như một “nốt trầm”. Nhưng mỗi “nốt trầm” phải có đặc điểm riêng của mình, giống như tiếng hót riêng của mỗi con chim và mùi hương riêng của mỗi bông hoa, vì đó mới là bản “hòa ca” có “âm nhạc lâu dài” chứ không phải “hòa tan”: một cách vô nghĩa, không sâu sắc?
Nếu mùa xuân của đất nước là một mùa xuân to lớn thì mỗi mùa xuân lớn đều được tạo thành từ hàng ngàn mùa xuân nhỏ, đó chính là mùa xuân của từng đời người:
Một mùa xuân bé nhỏ
Dịu dàng dành cho cuộc sống
Dù là tuổi thanh xuân
Dù là khi tóc đã bạc phơ
Mỗi cuộc đời giống như một dòng suối nhỏ êm đềm đóng góp nước cho một dòng sông lớn, và dòng sông lớn đó lại cống hiến cho biển cả. Hành động đó lặp đi lặp lại qua hàng ngàn thế hệ, dù có tự ý thức hay không, nó vẫn diễn ra, không thể thay đổi! Quan trọng là việc đó phải kiên nhẫn, kiên trì trong mọi biến động của cuộc sống để cuối cùng nó vươn lên như một hành động hi sinh cao quý: “Dù là tuổi thanh xuân/ Dù là khi tóc đã bạc phơ”. Đó là phẩm chất quý giá của ý thức tự nguyện hi sinh “tôi” cho “chúng ta” rộng lớn của mùa xuân đất nước:
Hãy hát lên mùa xuân
Câu hát Nam ai, Nam bình
Nước non vạn dặm của ta
Nước non vạn dặm tình thương
Nhịp phách quen thuộc của đất Huế
Mùa xuân thật tuyệt vời khiến ta không thể nhịn được việc hát lên. Mọi thứ đều lay động, rộn ràng trong giai điệu buồn của câu hát “Nam ai” và sự dịu dàng của câu hát “Nam bình”; trong nhịp điệu trước đất Huế quen thuộc nhưng bỗng trở nên cảm xúc như một lời chia tay? Trong không gian rộng lớn của “Nước non vạn dặm”, mọi nơi đều đong đầy tình bạn, tình người và tình yêu? Mọi nơi đều đọng lại kỷ niệm, nỗi nhớ vô tận! Bây giờ, nằm trên giường bệnh, ta như đang lạc vào vùng ký ức… Cuộc sống ồn ào xa dần, mơ hồ, rộn ràng… nhưng dường như càng xa nó càng trở nên quan trọng hơn, ý nghĩa hơn!
Nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học: Chữ người tử tù người tử tù - mẫu 1
Nguyễn Tuân được coi là một 'nhà văn vĩ đại, một nghệ sĩ suốt đời theo đuổi cái đẹp'. Ông đóng vai trò quan trọng đối với văn học Việt Nam. Trước cách mạng, ông tìm kiếm cái đẹp, thoát khỏi hiện thực. Tập truyện 'Vang bóng một thời' là minh chứng cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó, không thể không nhắc đến 'Chữ người tử tù' với sự trân trọng niềm vui của việc viết chữ tao nhã truyền thống.
Tác phẩm 'Chữ người tử tù' xuất hiện trong tập 'Vang bóng một thời' năm 1940. Tác phẩm đã truyền đạt đầy đủ tinh thần của tác giả và giá trị nhân văn. 'Chữ' là biểu hiện của cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi khen. 'Người tử tù' đại diện cho cái xấu, cần loại bỏ khỏi xã hội. Mâu thuẫn đã được gợi ra từ tiêu đề, tạo sự tò mò cho người đọc.
Tình huống trong tác phẩm diễn ra trong nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người tài năng không được công nhận. Hai nhân vật có vị trí xã hội đối lập. Huấn Cao muốn lật đổ trật tự xã hội, trong khi quản ngục đại diện cho luật lệ, trật tự. Tuy nhiên, ở mặt nghệ thuật, vai trò của họ lại đảo ngược hoàn toàn. Huấn Cao là người sáng tạo ra cái đẹp, trong khi quản ngục là người trân trọng cái đẹp và sáng tạo. Mối quan hệ này giúp câu chuyện phát triển hợp lý và bộc lộ tính cách nhân vật.
Trong tác phẩm, Huấn Cao là tâm điểm, người được khen ngợi về tài viết chữ xuất sắc. Cái tài của ông được tôn trọng và mong chờ. Không chỉ về tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao cũng là vẻ đẹp của thiên nhiên trong sáng. Tấm lòng của ông với những người trân trọng cái đẹp thể hiện qua việc treo chữ của mình trong nhà ai cũng là niềm vui, niềm vinh dự.
Bên cạnh tài năng, Huấn Cao còn được biết đến với tính ôn hòa, khiêm tốn. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân. Trong cuộc đời, ông không viết chữ vì quyền lợi cá nhân. Tấm lòng thiên lương của Huấn Cao được thể hiện qua việc viết chữ cho viên quản ngục, thể hiện sự trân trọng và biết ơn.
Huấn Cao là biểu tượng của người dũng cảm, không sợ khó khăn. Ông dám đối mặt với quyền lực, đại phản. Dù bị bắt, ông vẫn giữ tư thế tự tin. Thậm chí trước khi chịu án, ông vẫn bình thản, mỉm cười.
Vẻ đẹp của Huấn Cao không chỉ là vẻ đẹp của chữ viết, mà còn là vẻ đẹp của tinh thần và tính cách. Ông tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt vời, không để ý đến những điều xung quanh. Việc viết chữ cho viên quản ngục là biểu hiện rõ nét của tấm lòng biết ơn và trân trọng.
Viên quản ngục, một số phận bi kịch, sống trong môi trường tàn nhẫn của nhà tù, nhưng vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp của một người nghệ sĩ.
Trong những ngày cuối cùng, viên quản ngục đã tổ chức một buổi xin chữ vô cùng đặc biệt, thể hiện tôn trọng và ngưỡng mộ vẻ đẹp tâm hồn của Huấn Cao.
Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện độc đáo, thể hiện thành công niềm tin vào sự chiến thắng của cái đẹp với cái xấu và trân trọng giá trị văn hóa truyền thống.
Nguyễn Tuân đã thể hiện tài hoa văn chương qua việc tái hiện không khí cổ xưa và nét đẹp của thiên lương trong sáng trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”.
Huấn Cao và viên quản ngục là hai nhân vật đối lập nhưng cùng mang tâm hồn cao đẹp, tạo nên câu chuyện kịch tính với cảnh cho chữ đầy ý nghĩa.
Tình huống gặp gỡ giữa Huấn Cao và viên quản ngục tạo nên một cảnh cho chữ đầy cảm xúc và ý nghĩa, thể hiện sự tri âm, tri kỉ giữa hai nhân vật.
Nguyễn Tuân đã thành công khi đặt Huấn Cao và viên quản ngục vào trong tình huống đối nghịch, làm nổi bật tài năng văn chương và tư tưởng của mình.
Huấn Cao được biết đến như một con người tài năng và uyên bác. Anh ta mang trong mình khí phách hiên ngang, tính cách anh hùng và thiên lương trong sáng. Trong tác phẩm, phẩm chất này của Huấn Cao được thể hiện rõ qua cuộc đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ. Tài năng viết chữ đẹp của Huấn Cao đã khiến viên quản ngục khao khát treo bức chữ của ông ở nhà riêng. Nguyễn Tuân đã miêu tả mong muốn này để làm nổi bật phẩm chất nghệ sĩ của Huấn Cao. Không chỉ vậy, Huấn Cao còn là một anh hùng, một người đứng đầu cuộc khởi nghĩa chống lại chính sách cai trị. Ông không sợ bạo lực và luôn tự tin đối mặt với cái chết. Huấn Cao là biểu tượng của sự kiên định và tinh thần anh hùng trong 'Vang bóng một thời'.
Mô tả về cảnh cho chữ trong tác phẩm thật sự đặc biệt và đáng khâm phục. Trong căn phòng giam giữ, không có gì ngoài ánh đèn đỏ và khói tỏa như đám cháy. Nhưng dù ở trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó, Huấn Cao vẫn viết ra những nét chữ đẹp đẽ, tạo nên một cảnh tượng ấn tượng. Sự đối nghịch giữa ông và viên quản ngục được miêu tả rất sống động. Huấn Cao ung dung và tự tại, trong khi viên quản ngục lại run run và nhút nhát. Cả ba nhân vật đều có chung một tấm lòng yêu cái đẹp và thiên lương trong sáng, điều này làm nổi bật sự độc đáo và tinh thần cao đẹp trong tác phẩm.
Trong 'Chữ người tử tù', Nguyễn Tuân phản ánh ba thái độ của con người đối với cái đẹp. Thái độ hủy diệt được thể hiện qua sự tàn bạo của những lính và mệnh lệnh của quan trên. Thái độ yêu mến và quý trọng cái đẹp được thể hiện qua lòng tốt của viên quản ngục và thầy thơ. Thái độ cao thượng và rộng lượng được thể hiện qua nhân cách của Huấn Cao.
Nguyễn Tuân khắc họa sự kết hợp giữa tài năng và cái tâm trong tác phẩm 'Chữ người tử tù'. Ông thể hiện sự hiện diện của cái đẹp ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Ông nhấn mạnh rằng chỉ có cái đẹp mới có thể cảm hóa được tâm hồn con người.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân thể hiện tư tưởng về nghệ thuật và nhân phẩm. Ông nhấn mạnh rằng cái đẹp luôn gắn liền với cái thiện và chỉ có người biết trân trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ chân chính.
Nguyễn Tuân đã khắc họa con người và cảnh vật chi tiết, tỉ mỉ trong tác phẩm. Ông thể hiện sự tôn trọng và yêu mến tài năng và cái đẹp qua việc miêu tả Huấn Cao và viên quản ngục.
Tác phẩm 'Chữ người tử tù' là một chứng minh về sự đa dạng và phong phú của nghệ thuật văn chương của Nguyễn Tuân. Ông thể hiện sự sắc sảo và tinh tế trong việc miêu tả con người và cảnh vật.
Nghị luận về tác phẩm 'Chữ người tử tù' của Nguyễn Tuân thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về tác phẩm và tác giả. Ông nhấn mạnh về ý nghĩa của cái đẹp trong con người và xã hội.
Nguyễn Tuân đã thành công trong việc thể hiện tư tưởng về nghệ thuật và nhân phẩm trong 'Chữ người tử tù'. Tác phẩm là một minh chứng cho sự đam mê và tinh thần cao đẹp của tác giả trong việc tìm kiếm cái đẹp và chân thành trong cuộc sống.
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) sinh ra trong một gia đình theo Phật giáo, quê ông ở làng Mọc hiện nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn có đóng góp quan trọng đối với văn học Việt Nam hiện đại. Suốt đời, ông tìm kiếm cái đẹp trong cuộc sống để thổi hồn vào các tác phẩm của mình, mang lại sự mới mẻ và nhân văn cao đẹp. Các tác phẩm nổi tiếng của ông bao gồm: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960),... Trong đó, truyện ngắn Chữ người tử tù ban đầu được xuất bản dưới tựa đề Dòng chữ cuối cùng in năm 1939 trên tạp chí Tao Đàn, sau đó được tái bản trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Hình tượng của Huấn Cao - một con người tài năng, kiên cường và không bao giờ khuất phục - được Nguyễn Tuân mô tả một cách chân thực trước cảnh ngục tù u ám.
Thành công của một tác phẩm truyện ngắn đến từ tình huống đặc biệt của câu chuyện, đó chính là chìa khóa giúp cốt truyện phát triển đến cao trào, như Nguyễn Minh Châu đã nói: “Tình thế của câu chuyện, là thời điểm mà sự sống hiện ra rất sâu sắc”. Chữ người tử tù cũng là một câu chuyện như vậy, Nguyễn Tuân đặt nhân vật của mình vào tình huống khó khăn, cuộc đối đầu giữa hai thế lực trái ngược nhau. Một bên là người tài năng và cao quý, một bên là quyền lực thâm độc của xã hội phong kiến. Cuộc gặp gỡ diễn ra một cách kịch tính, cuốn hút người đọc, và cuối cùng, cái đẹp cao quý đã chiến thắng trước sự tàn bạo và xấu xa của xã hội.
Chữ người tử tù thành công trong việc xây dựng nhân vật chính mạnh mẽ, họ đại diện cho cái đẹp thanh cao trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Trước hết là hình ảnh của Huấn Cao - một anh hùng có tài và dũng cảm, là người dẫn dắt nhân dân đấu tranh cho công bằng. Nguyễn Tuân tạo ra hình tượng Huấn Cao dựa trên Cao Bá Quát - một tài năng với khả năng viết văn tuyệt vời. Huấn Cao là người mang họ Cao và giữ chức vị huấn đạo - người quản lý việc học tập trong một huyện.
Nguyễn Tuân mô tả vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao từ nhiều góc độ để thấy được cái đẹp thanh cao của một người tài hoa. Huấn Cao được miêu tả là một nghệ sĩ tài ba, được tất cả mọi người khen ngợi. Ông được nhắc đến trong câu chuyện của viên quản ngục và thầy thơ, là người có khả năng viết văn xuất sắc và thậm chí còn có khả năng trốn thoát khỏi ngục tù. Sự tài năng và dũng cảm của Huấn Cao được thể hiện rõ nhất khi viên quản ngục hy vọng có được chữ của ông. Trong tình thế khó khăn, ông vẫn giữ được thái độ điềm đạm và bình tĩnh, không sợ hãi trước sự bất công và tàn bạo của xã hội.
Huấn Cao là một anh hùng với phẩm chất cao quý và dũng cảm, không sợ hãi trước cường quyền và bạo lực. Dù đối mặt với nguy hiểm và tử hình, ông vẫn giữ thái độ kiên định và không bao giờ từ bỏ nguyên tắc. Trước sự coi thường của những kẻ cầm quyền, Huấn Cao chỉ im lặng và thể hiện sự kiên cường thông qua hành động của mình. Trong hoàn cảnh khó khăn, ông vẫn giữ vững tinh thần và không bao giờ bị làm cho khuất phục. Câu nói của Huấn Cao thể hiện sự quyết liệt và không khoan nhượng trước sự bạo lực và tham quan của xã hội.
Trong tiểu thuyết của Nguyễn Tuân, Huấn Cao được mô tả là một anh hùng kiên cường, mang trong mình tấm lòng thiên lương và cao cả. Ông không mưu danh lợi, chỉ viết cho những người tri kỷ và tin rằng cái đẹp thanh cao phải được trao cho đúng người. Huấn Cao bị ấn tượng bởi sự chân thành của chủ tớ Viên quản ngục và luôn giữ tấm lòng nhân hậu.
Ngoài Huấn Cao, tác giả còn xây dựng một nhân vật viên quản ngục, một người yêu thích cái đẹp nhưng lại bị lạc vào môi trường bẩn thỉu. Viên quản ngục dường như không hợp với công việc của mình, nhưng vẫn giữ được sự thanh cao và tôn trọng đối với người tài. Truyện tạo ra sự tương phản giữa hai nhân vật chính diện, cho thấy sự đấu tranh giữa cái đẹp và xấu.
Một đêm tại trại giam tỉnh Sơn, đã xảy ra một cảnh tượng đặc biệt chưa từng có. Trong buồng giam tối tăm, một người tù bị gông xiềng vẫn dùng tấm lụa trắng để viết. Viên quản ngục trước mặt tử tù đầy kính trọng, cho thấy sự tôn trọng đối với cái đẹp và lòng nhân hậu.
'Chữ người tử tù' của Nguyễn Tuân là một thiên truyện đạt 'gần tới sự toàn diện, toàn mỹ'. Tác phẩm thể hiện phong cách nghệ thuật tài tình của nhà văn, khắc họa tính cách nhân vật và thể hiện sự tồn tại vĩnh cửu của cái đẹp.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một nhà văn duy mĩ, yêu và tôn thờ cái đẹp. Ông miêu tả cái đẹp bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh và tạo ra những nhân vật hiện thân cho cái đẹp.
Nguyễn Tuân phát hiện và miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật, kết hợp mĩ với dũng. Truyện 'Chữ người tử tù' là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của ông, thể hiện giá trị tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Truyện 'Chữ người tử tù' là một ví dụ xuất sắc nhất cho sự yêu cái đẹp của Nguyễn Tuân. Tác giả miêu tả cái đẹp bằng ngôn từ sâu sắc, tạo ra những nhân vật tài hoa và dũng cảm, nhấn mạnh vào sự tồn tại vĩnh cửu của cái đẹp.
Trong câu chuyện 'Chữ người tử tù', ông Huấn Cao là một nhà văn tài năng từng thời hoàng kim, nhưng hiện chỉ còn là hồn bóng. Nguyễn Tuân đã lấy cảm hứng từ Cao Bá Quát, một nhà thơ, nhà giáo, và một lãnh tụ của nông dân nổi tiếng, để tạo ra nhân vật Huấn Cao. Cả hai đều có tài năng về chữ viết và sức mạnh lãnh đạo phi thường.
Trong truyện, có hai nhân vật chính: ông Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp, và viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông. Họ gặp nhau trong nhà tù, một trong tình huống oái oăm. Dù họ ở hai vị trí đối lập trong xã hội, nhưng trên phương diện nghệ thuật, họ là tri âm tri kỉ.
Huấn Cao và viên quản ngục gặp nhau trong hoàn cảnh không mấy dễ dàng: một là tù nhân, một là người giam giữ. Tuy nhiên, dưới ánh đuốc đỏ, vẻ đẹp và sức mạnh của chữ viết đã làm cho họ cảm thấy nhỏ bé và bị động trước người tử tù.
Trong tình huống khó khăn, Huấn Cao không quan trọng tiền bạc hay quyền lực, mà chỉ trân trọng những tấm lòng biết quý cái đẹp và cái tài. Ông khuyên viên quản ngục rời bỏ nghề của mình và giữ cho lòng tốt của mình không bị mất đi.
Không chỉ có tài viết chữ đẹp, Huấn Cao còn giữ được tư thế cao quý và kiêng nhẫn ngay trước ngày tử hình. Sự tương phản giữa vẻ đẹp của ông và bẩn thỉu của nhà tù được tác giả miêu tả rõ nét, làm nổi bật thêm vẻ đẹp của Huấn Cao.
Trong buổi đêm tối tăm của nhà tù, vẻ đẹp của Huấn Cao hiện lên rõ ràng khi ông viết chữ cho viên quản ngục. Tình huống này tôn lên sự hòa hợp giữa cái mĩ và cái dũng của Huấn Cao, khiến cho người tử tù trở nên lớn lao và quý phái trong mắt các quan ngục.
Trong truyện, việc Huấn Cao và viên quản ngục tương tác cho thấy sự đối lập giữa cái đẹp và cái xấu, giữa tình yêu và sự thù ghét. Nhưng qua tất cả, vẻ đẹp và tinh thần cao quý của Huấn Cao vẫn chiến thắng, làm cho người xung quanh phải kính phục.
Tại sao Nguyễn Tuân gọi đây là một 'cảnh tượng chưa từng thấy trong quá khứ'?
Cảnh này thực sự là độc đáo, chưa từng có vì trò chơi từ ngôn từ tinh tế không diễn ra trong những căn phòng cao cấp, mà lại diễn ra trong nhà tù tối tăm, bẩn thỉu, hôi hám.
Cảnh tượng hiếm thấy đó là hình ảnh một tù nhân cho chữ một cách uy nghi, trong khi đó, các quan ngục và thư lại, biểu tượng cho xã hội thời đại, lại cảm thấy sợ hãi và run rẩy.
Điều này cho thấy rằng trong nhà tù tối tăm, biểu tượng của sự ác độc, tàn bạo không phải là thứ đang thống trị, mà chính là sự Đẹp, Dũng và Thiện. Với cảnh này, nhà tù tối tăm dường như sụp đổ, vì không còn tù nhân phạm tội, không có quan ngục và thư lại, chỉ có nghệ sĩ tài năng đang tạo ra cái đẹp trước sự ngưỡng mộ của mọi người, tất cả đều được chiếu sáng bởi vẻ đẹp và tinh thần cao quý.
Ngoài hình tượng Huấn Cao lộng lẫy, ta còn thấy một tấm lòng trong xã hội. Trong buổi tối, hình ảnh của viên quản ngục cũng rất cảm động. Sự chân thành của hắn khiến ta cảm thông và đồng cảm với con người này.
Đoạn trích mà Huấn Cao viết chữ là đoạn văn tốt nhất trong truyện ngắn 'Chữ người tử tù'. Phong cách viết của Nguyễn Tuân sắc sảo, sống động, gợi cảm và tạo ấn tượng mạnh mẽ. Ngôn ngữ của ông biến hóa và sáng tạo, mang đậm tinh thần cổ điển nhưng cũng rất cảm động và lôi cuốn.
'Chữ người tử tù' không chỉ là 'chữ', không chỉ là văn chương mà còn là sự thắng lợi của cái đẹp, cao quý và tinh thần bất khuất trước sự phàm trần. Hình tượng Huấn Cao thể hiện sự hòa hợp giữa Đẹp và Dũng, là điểm cao nhất của tinh thần theo lí tưởng của Nguyễn Tuân về cái duy mĩ.
Phân tích và đánh giá một tác phẩm văn học: 'Chữ người tử tù' - mẫu 5
Nguyễn Tuân được biết đến là một nhà văn vĩ đại của văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi câu văn của Nguyễn Tuân đều như một nét bút tinh xảo, điêu luyện như một nghệ nhân điêu khắc trên mặt đá quý của ngôn từ.
Huấn Cao là biểu tượng của bút pháp lãng mạn trong tác phẩm. Ông hiện ra như một nhân vật phi thường, từ tài năng đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, tất cả đều vượt trội.
Tài hoa viết chữ đẹp của Huấn Cao là biểu hiện cho tài viết văn võ song toàn. Mỗi con chữ là sự kết tinh của tâm hồn, là hiện thân của khí phách và thiên lương.
Tấm lòng biết quý trọng thiên lương của Huấn Cao là gốc rễ của nhân cách ông. Sự khinh bỉ trước sự phàm trần và tình cảm chân thành đối với những tấm lòng đã được thể hiện rõ trong tác phẩm.
Cuộc đời phi thường của Huấn Cao được mô tả qua sự sáng tạo và tài năng của Nguyễn Tuân. Ông đã đối diện với cái chết mà không khuất phục, luôn giữ vững tinh thần bất khuất và uy vũ.
Cảnh cho chữ là biểu hiện rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao, điểm sáng cuối cùng trong tác phẩm.
Để thấu hiểu sâu sắc giá trị của việc tạo ra một bức tranh văn học tinh tế, ta không thể không nói đến quá trình dẫn đến điều này. Câu chuyện được chia thành hai phần rõ ràng: Phần đầu tiên giới thiệu các nhân vật và mở đường cho sự kiện chính, trong khi phần sau tập trung vào việc mô tả cảnh quan trọng trong truyện. Nếu thiếu đi phần hai, phần đầu sẽ chỉ là những chi tiết rời rạc, không có sức sống. Vì vậy, phần hai, mặc dù ngắn gọn, lại chính là tinh hoa của cả câu chuyện.
Quan hệ giữa Huấn Cao và quản ngục ban đầu rất căng thẳng với nhau. Quản ngục mong muốn có được bức chữ của Huấn Cao, nhưng đây lại là cơ hội duy nhất. Tuy nhiên, Huấn Cao chỉ viết chữ cho những người ông coi là tri kỷ. Vậy thì muốn có chữ của Huấn Cao, quản ngục phải chứng minh mình xứng đáng trở thành tri kỷ trong mắt ông trong vài ngày tới. Điều này thật khó khăn. Trước mắt Huấn Cao, quản ngục không hơn không kém một kẻ tiểu nhân, và sự khác biệt giữa họ rất rõ ràng.
Việc Huấn Cao cho chữ không chỉ đơn giản là một cách trả nợ, cũng không phải là cơ hội cuối cùng để thể hiện tài năng của mình. Thực ra, việc này là biểu hiện của một tấm lòng trước một tấm lòng khác, là một sự kỳ vọng và hy vọng.
Nguyễn Tuân gọi cảnh này là 'cảnh xưa chưa từng thấy'. Thực tế, nếu không có điều kiện hoàn hảo như những người tự do, thì cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, thậm chí cả trong những tình huống khắc nghiệt nhất. Điều đặc biệt là sự thay đổi trong quyền lực giữa hai nhân vật chính, tạo ra một bức tranh rất đặc biệt.
Tác phẩm này khẳng định rằng cái đẹp có thể chiến thắng mọi thứ, và có thể làm sáng tỏ tâm hồn của con người. Nó là một minh chứng cho giá trị vĩ đại của con người và khả năng của họ để vượt qua mọi khó khăn.
Với nghệ thuật sử dụng ngôn từ và hình ảnh, Nguyễn Tuân đã tạo ra một tác phẩm tinh tế và ý nghĩa. Anh sử dụng cảm xúc và tình cảm để truyền đạt thông điệp của mình một cách rất hiệu quả.
Một phân tích về tác phẩm văn học: 'Chữ người tử tù' - mẫu 6
Khi bước vào cánh cửa của văn đàn Việt Nam, ta không thể không bị ấn tượng bởi vẻ đẹp lan tỏa khắp nơi, phản ánh trên từng dòng văn: 'phản ánh khắp vũ trụ' (Thạch Lam). Trên các trang viết của Nguyễn Tuân, người 'mãi mãi tìm kiếm cái đẹp và sự thật', ta gặp lại cuộc gặp gỡ, cuộc hội ngộ của vẻ đẹp giữa những tình huống khắc nghiệt, tàn bạo. Đó là cuộc gặp gỡ của những cá nhân có vẻ đẹp tinh túy, những con người biết tạo ra và trân trọng vẻ đẹp trong cuộc sống.
Một người đã nói rằng: 'ý tưởng về vẻ đẹp là nét đặc trưng nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Tuân'. Điều này hoàn toàn đúng, vẻ đẹp như một chất kích thích kỳ diệu, khi bước vào trang viết của Nguyễn Tuân, nó lộ rõ, tỏa sáng đặc biệt. 'Chữ người tử tù' là cuộc gặp gỡ của vẻ đẹp của Huấn Cao và quản ngục, một cuộc gặp gỡ không giống như bất kỳ cái nào khác giữa hai cá nhân đặc biệt trong nhà lao. Bằng tình yêu và sự kính trọng, quản ngục - người nắm quyền lực trong nhà lao đã âm thầm đối xử đặc biệt với Huấn Cao - kẻ nổi tiếng với tài năng và phẩm vị đặc biệt.
Người đã sinh ra vẻ đẹp trong 'Chữ người tử tù' không ai khác, đó là Huấn Cao - 'người của Sơn Tỉnh', 'viết chữ nhanh và đẹp', và 'chữ của Huấn Cao như một báu vật trên đời'. Sự tài năng của ông đã được ca tụng qua niềm khao khát và sự kính trọng từ quản ngục. Ca tụng tài năng của Huấn Cao, xem chữ của ông như tác phẩm quý giá, Nguyễn Tuân đã truyền tải lòng yêu quý vẻ đẹp và tôn trọng văn hóa truyền thống, đồng thời thể hiện quan điểm về vẻ đẹp và phẩm hạnh luôn đi đôi với nhau. Quả không sai khi có người nói rằng 'Huấn Cao là biểu tượng của sự nổi loạn của vẻ đẹp'.
Kết thúc tác phẩm, tác giả tập trung mô tả cảnh cho chữ, làm nổi bật vẻ đẹp của anh hùng Huấn Cao, để khẳng định chiến thắng của thiên lương. Cảnh tượng này có thể coi là quý giá nhất mọi thời đại.
Từ ngày xưa đến nay, việc sáng tạo văn chương đã trở thành niềm vui thanh cao của những người có học thức, những nhà thơ, và những người yêu chữ. Chơi chữ là cách thể hiện cái đẹp, tài năng và trí tuệ của con người. Và cảnh cho chữ thường diễn ra trong không gian trang trọng, được tạo điều kiện tốt nhất để tạo ra những tác phẩm tinh tế.
Môi trường và thời gian trong cảnh cho chữ được miêu tả sống động và chân thực. Trong một đêm tối tăm, khi bóng đen bao phủ, nhà tù trở nên hẹp hòi, tăm tối và u ám. Tuy nhiên, ngay tại nơi đen tối ấy, lại xuất hiện một cảnh tượng đầy ấn tượng, làm rung động lòng người.
Một không gian tối tăm, ba người đang cần cù trên một tờ giấy trắng. Bầu không khí bất kỳ ai cũng đều cảm nhận được niềm hạnh phúc, sự hào hứng của những người tạo ra tác phẩm đẹp này. Sự tương phản giữa Huấn Cao và viên quản ngục đã được tác giả diễn tả sắc nét, làm nổi bật phẩm chất cao đẹp nơi tăm tối.
Cảnh cho chữ đầy xúc động này khẳng định vị thế của cái đẹp, cho thấy rằng dù ở nơi nào, ngay cả trong bóng tối nhất, cái đẹp vẫn tồn tại. Điều này thể hiện sức mạnh của cái đẹp, là đường lối chỉ dẫn cho những người tốt bị lạc giữa bóng tối và tội ác trở về đúng con đường chân chính.
Nhờ sự tài năng và tư duy sáng tạo, Nguyễn Tuân đã tạo ra một cảnh cho chữ đầy ấn tượng. Tác phẩm thể hiện sự tiếc nuối của tác giả và người đọc trước số phận của những người yêu cái đẹp và luôn hướng đến cái thiện.
Với sự sáng tạo của mình, Nguyễn Tuân đã biến cảnh cho chữ trở thành một cảnh tượng chưa từng có. Tác phẩm này không chỉ thể hiện sự tiếc nuối của tác giả mà còn là sự khâm phục đối với những con người có tâm hồn cao thượng.
Một phân tích văn học sâu sắc về tác phẩm 'Chữ người tử tù' - mẫu 8
Trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân, nhân vật được tạo hình như một nghệ sĩ. Tác phẩm 'Chữ người tử tù' cũng không ngoại lệ. Tác giả tài tình đã tạo ra một bức tranh vô cùng độc đáo, với cảnh cho chữ trong nhà tù là điểm nhấn đặc biệt.
Cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm mang ý nghĩa rất quan trọng, khi viên quản ngục nhận được công văn về việc xử tử những phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Điều này giúp giải tỏa căng thẳng và chờ đợi của độc giả, đồng thời làm nổi bật giá trị của tác phẩm.
Sau khi nhận công văn, viên quản ngục chia sẻ tâm trạng với thầy thơ. Họ gặp nhau trong bóng tối của nhà tù, nơi mà sự sáng tạo vẫn tồn tại. Huấn Cao, dù bị giam giữ, vẫn tiếp tục viết chữ trên tấm lụa trắng, trong khi viên quản ngục cảm thấy rối bời với tình hình xã hội đang bị đảo lộn.
Đây là cuộc gặp gỡ hiếm hoi giữa Huấn Cao và viên quản ngục, thầy thơ, trong hoàn cảnh đặc biệt. Mặc dù ở hai phe đối lập xã hội, họ lại có sự gắn kết sâu sắc trong nghệ thuật. Câu chuyện vận dụng sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối để tôn vinh cái đẹp và cái thiện.
Sau khi viết xong, Huấn Cao khuyên viên quản ngục từ bỏ nhà tù để giữ vững cái thiện. Trong môi trường đen tối, cái đẹp vẫn có thể tồn tại, nhưng không thể sống chung với cái ác. Tác giả nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc giữ vững cái thiện khi chơi chữ.
Quản ngục, nghe lời khuyên của Huấn Cao, bị xúc động và quyết tâm thay đổi cuộc sống. Trong khung cảnh u tối, hình ảnh của Huấn Cao trở nên vĩ đại, vượt lên trên những gì xấu xa xung quanh, thể hiện niềm tin bất diệt vào cái thiện.
Có người cho rằng: Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa, đặc biệt quan tâm đến vẻ đẹp và nghệ thuật. Tuy nhiên, qua truyện ngắn “Chữ người tử tù”, đặc biệt là hình ảnh của chữ, ta thấy nhận xét đó không đúng. Trong truyện, Nguyễn Tuân không chỉ ca ngợi vẻ đẹp mà còn liên kết nó với phẩm chất tốt đẹp, đạo lý con người. Quan điểm này đã phủ nhận quan niệm hẹp hòi về nghệ thuật trước cách mạng, cho thấy Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư duy nghệ thuật cao và đa chiều.
“Chữ người tử tù” là một bài hát ca về vẻ đẹp, tài năng và phẩm chất cao quý của con người. Hành động của Huấn Cao, những dòng chữ cuối cùng của cuộc đời, mang ý nghĩa truyền bá sự tài hoa sáng tạo cho thế hệ hiện tại và tương lai. Nếu không có sự truyền bá này, vẻ đẹp sẽ bị lãng quên. Đây cũng là lòng muốn bảo tồn vẻ đẹp cho thế hệ sau của một người tri âm, tri kỉ.
Với nhịp điệu chậm rãi, câu văn đầy hình ảnh, truyện ngắn như một đoạn phim được chiếu chậm. Mỗi hình ảnh, mỗi động tác dần hiện ra dưới ngòi bút sắc nét của Nguyễn Tuân: một buồng tối nhỏ hẹp… hình ảnh của người viết chữ trên tấm lụa trắng, hình ảnh người tù cổ đeo gông, viết chữ với chân vướng xiềng. Trình tự mô tả cũng thể hiện rõ từ bóng tối đến ánh sáng, từ bẩn thỉu đến vẻ đẹp. Sử dụng nhiều từ Hán Việt trong ngôn ngữ để tạo ra sự chơi chữ khéo léo. Tác giả đã kết hợp cổ điển và hiện đại trong tác phẩm của mình, với kỹ thuật vẽ nét thực tế và phân tích tâm lý nhân vật.
Hình ảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” là sự kết hợp của tài năng, sáng tạo và tư duy độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm phản ánh lòng ngưỡng mộ và nuối tiếc đối với những con người tài năng, đạo đức và cao quý. Bên cạnh đó, tác giả cũng thể hiện sự đau xót chung cho vẻ đẹp chân chính đang bị hủy hoại. Tác phẩm này là một lời nói đầy nhân văn: dù cuộc đời có đen tối, vẫn tồn tại những trái tim sáng sủa.
Phân tích và đánh giá một tác phẩm văn học: Chữ người tử tù - mẫu 9
Nguyễn Tuân được xem là một nhà văn tài ba của văn học Việt Nam. Sự nghiệp sáng tác của ông được chia thành hai giai đoạn trước và sau cách mạng Tháng Tám. Trước cách mạng, ông tập trung vào việc miêu tả những giai đoạn huy hoàng của quá khứ. Trong đó, truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một tác phẩm xuất sắc, đã thành công trong việc tái hiện hình ảnh của Huấn Cao, một người có tài năng và lòng dũng cảm.
Huấn Cao là một nhà văn quả cảm, dám đấu tranh vì lẽ phải, lên án sự tham nhũng và bóc lột của triều đình. Ông không sợ khó khăn, gian khổ để đấu tranh với sự bất công và tham nhũng trong xã hội. Trong mắt lính và quản ngục, Huấn Cao là một tượng đài của nghệ thuật và võ nghệ, là người khiến họ cảm thấy e sợ và coi thường. Tuy bị giam cầm nhưng ông vẫn giữ vững lòng kiên trung, bản lĩnh cao quý giữa bức tranh xiềng xích và bóng tối.
Bằng nét bút uyển chuyển, Nguyễn Tuân đã tái hiện hình ảnh của Huấn Cao một cách chân thực, kiêu hãnh, mỗi đường nét đều phản ánh sự độc đáo và phi thường. Mặc dù là tù nhân, nhưng Huấn Cao dường như không sợ bất cứ điều gì, có thể thẳng thừng nói lên ý kiến của mình. Dẫu không cần hành động, nhưng phong thái của ông lại khiến mọi người phải ngưỡng mộ.
Huấn Cao trong tù vẫn được biết đến như một người tài năng, được mọi người ngưỡng mộ với biệt danh “người có chữ đẹp và nhanh nhẹn nhất ở vùng Sơn”. Những người tài có chữ đẹp luôn được tôn trọng và kính trọng như vậy. Chữ của ông như một kho báu trên trần gian, ai được sở hữu chữ của ông cũng như sở hữu một kho báu vô giá. Huấn Cao không phải là người thích ép buộc viết chữ, điều này thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những người xứng đáng, những người khiến ông cảm phục và ngưỡng mộ nhất.
Nguyễn Tuân thật sự là một tài năng, mỗi câu chữ của ông như một bức tranh sống động về Huấn Cao, một kẻ sĩ đáng kính trong lòng người.
Huấn Cao còn là một người trân trọng tình bạn, ngưỡng mộ những con người có “chí nhớn”. Thông qua việc kể của viên thơ, ông đã hiểu được lòng của người quản ngục và khao khát sở hữu chữ của mình. Ông thực sự đáng trân trọng, là một người biết trân trọng cái đẹp và luôn hướng về phần thiện.
Hình ảnh cuối cùng của việc cho chữ trong “Chữ người tử tù” là một cảnh tượng ghi sâu trong lòng độc giả. Một hình ảnh không thể quên, thể hiện sự gặp gỡ quá muộn giữa những con người yêu cái đẹp. Huấn Cao, với bút viết vuông vắn, thể hiện rõ nhất sự kiên trung và vĩ đại. Đây chính là hình ảnh của một anh hùng.
Huấn Cao hiện lên với vẻ oai vệ, kiêu hãnh qua từng nét bút của Nguyễn Tuân, không thể rời mắt khỏi trang sách. Ông là biểu tượng của cái đẹp hoàn hảo và kiên trung nhất.
Dù đóng lại trang sách nhưng hình ảnh của Huấn Cao vẫn hiện hữu trong tâm trí độc giả, ông là biểu tượng của sự can đảm giữa những thời đại bất công.
Nghị luận phân tích về một tác phẩm văn học: Chữ người tử tù - mẫu 10
Nguyễn Tuân được biết đến là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại, một nghệ sĩ tài hoa. Dưới bàn tay của ông, những dòng văn tỏa sáng như những viên ngọc quý khắc sâu vào tâm hồn độc giả. Trong đó, tác phẩm Chữ người tử tù là một ví dụ điển hình.
Chữ người tử tù ban đầu được biết đến với tên gọi Dòng chữ cuối cùng, xuất bản năm 1938 trên tạp chí Tao Đàn. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân, tập trung vào nhân vật Huấn Cao, một biểu tượng của sự tài năng và trí tuệ.
Câu chuyện trong Chữ người tử tù là một tác phẩm mang tính nhân văn sâu sắc, đầy kịch tính và lôi cuốn. Nguyễn Tuân đã khéo léo tạo dựng tình huống và nhân vật, từ đó làm nổi bật những phẩm chất tốt đẹp nhất trong con người.
Huấn Cao trong tác phẩm không chỉ là một nhân vật văn võ xuất sắc, mà còn là biểu tượng của sự cao quý và đẹp đẽ. Với tài viết chữ đẹp, Huấn Cao thu hút lòng người và gây ấn tượng mạnh mẽ.
Nguyễn Tuân đã tài tình mô tả nhân vật Huấn Cao như một biểu tượng của sự lãng mạn và tài năng. Việc tạo hình nhân vật qua cuộc trò chuyện giữa các nhân vật đã làm nổi bật tính cách và phẩm chất của Huấn Cao.
Ngoài tài năng văn chương, Huấn Cao còn được biết đến với tấm lòng cao quý và sự trân trọng đối với cái thiện và cái đẹp. Ông không chỉ cho chữ một cách dễ dàng, mà còn đặt ra những tiêu chuẩn cao về đạo đức và phẩm chất cho người được nhận chữ của mình.
Tính cách của Huấn Cao như vậy, khi viên quản ngục muốn xin chữ và đối đãi tốt với ông, ông luôn thờ ơ và không chú ý. Người ta có cảm giác rằng quản ngục là một kẻ làm việc không tốt và là bè lũ của bọn quan lại tham nhũng, nhưng ngược lại, quản ngục lại được mô tả là một người lương thiện và có sở thích tao nhã: chơi chữ. Ước nguyện của ông là có được một đôi câu đối viết bởi chính tay Huấn Cao để treo trong nhà. Ông cả đời này vẫn nhớ mong ước này, ngay cả khi phải đối mặt với nguy hiểm và gánh chịu sự bất công.
Khi biết được lòng tốt và ước nguyện của quản ngục, Huấn Cao đã cho ông chữ. Điều đặc biệt ở đây là cảnh cho chữ diễn ra trong không gian chật hẹp và bẩn thỉu, trong một bối cảnh khắc nghiệt. Nhưng dù điều đó, cảnh tượng vẫn mang lại sự tươi sáng và tinh thần cao quý. Huấn Cao cũng khuyên quản ngục rời khỏi cuộc sống bụi bặm và sống ở nơi yên bình. Những người xung quanh ông trở thành người tôn trọng và ngưỡng mộ cái đẹp. Thiên lương của Huấn Cao đã chiếu sáng và dẫn dắt quản ngục, một kẻ lạc lối, trở lại con đường đúng đắn.
Tác giả qua tác phẩm này cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi và chiến thắng mọi điều xấu xa. Cái đẹp có thể cứu rỗi tinh thần con người, giúp họ hiểu nhau hơn và gắn kết hơn. Ngay cả khi bị chìm trong bóng tối, cái đẹp vẫn tồn tại và giữ được giá trị nhân văn của nó.