1. Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ - Hồ Chí Minh
Diện tích: 75740 ha
Vị trí: Thành phố Hồ Chí Minh
Năm UNESCO công nhận: 2000
Cần Giờ, nơi ghi dấu những trận đánh lịch sử, hôm nay trở thành 'lá phổi' quan trọng, làm sạch không khí và nước thải, giữ vững hệ sinh thái độc đáo.

2. Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà - Hải Phòng
Diện tích: 26,241 ha (17,041 ha đảo, 9,200 ha biển)
Vị trí: Hải Phòng
Năm UNESCO công nhận: 2004
Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà tại Hải Phòng là bảo tàng sinh quyển độc đáo, với đa dạng thực vật và động vật, đồng thời là điểm khảo cổ quan trọng với nền văn minh biển tiền sử của Việt Nam.
Với hệ sinh thái độc đáo, từ rừng mưa nhiệt đới đến rừng ngập mặn, khu dự trữ này là môi trường sống lý tưởng cho nhiều loài quý hiếm, như Voọc Cát Bà. Nơi đây còn là ‘cái nôi’ của nền văn minh và văn hóa biển tiền sử Việt Nam, được UNESCO công nhận từ năm 2004.


3. Khu dự trữ sinh quyển Châu thổ sông Hồng - Bảo tồn hóa học của đại dương
Diện tích: khoảng 105.558 ha, trong đó 66.256 ha là đất liền ven biển và 39.302 ha mặt nước biển
Vị trí: Các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình
Năm được UNESCO công nhận: 2004
Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng tọa lạc ở cửa sông Đáy, sông Hồng và sông Thái Bình, gồm 3 vùng riêng biệt: Vùng ven biển cửa sông Đáy thuộc Kim Sơn (Ninh Bình) và Nghĩa Hưng (Nam Định); vùng ven biển cửa Ba Lạt thuộc Giao Thủy (Nam Định) và Tiền Hải (Thái Bình); vùng ven biển cửa sông Thái Bình thuộc Thái Thụy (Thái Bình). Đây là khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận vào ngày 2/12/2004.
Khu dự trữ sinh quyển thế giới châu thổ sông Hồng bao gồm bãi ngang, rừng ngập mặn Kim Sơn, Nghĩa Hưng, Thái Thụy, VQG Giao Thủy, cồn Nổi, cồn Vành, cồn Thủ, khu bảo tồn thiên nhiên Tiền Hải và các vùng phụ cận, Khu Ramsar Xuân Thuỷ. Là khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên được công nhận bởi Công ước Ramsar năm 1989 và khu Ramsar đầu tiên ở Đông Nam Á. Đây cũng là khu trọng điểm phát triển làm tổ cho những loài chim nước với khoảng 200 loài, trong đó có gần 60 loài chim di cư và hơn 50 loài chim nước.
Nơi đây có cảnh đẹp độc đáo với rừng ngập mặn, bãi bồi ven biển và cửa sông, nhưng đang phải đối mặt với áp lực khai thác và nuôi trồng thủy sản quá mức, có thể gây thiệt hại đáng kể đến đa dạng sinh học. Việc khai thác không kiểm soát có thể dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học ở vùng lõi, ảnh hưởng đến chuỗi thức ăn tự nhiên.


4. Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An
Diện tích: 1.303.278 ha
Vị trí: Nghệ An
Được UNESCO công nhận năm: 2007
Nằm tại 9 huyện ở phía tây tỉnh Nghệ An, Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An là khu dự trữ sinh quyển lớn nhất Đông Nam Á. Vùng lõi bao gồm Vườn quốc gia Pù Mát và hai khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống và Pù Hoạt, đặc trưng với toàn bộ lưu vực sông Cả và đỉnh núi Trường Sơn Bắc như Pu Xai Lai Leng, Phu Hoạt.
Khu dự trữ Tây Nghệ An đa dạng sinh học cao, đại diện cho nhiều kiểu rừng mưa nhiệt đới và các sinh cảnh khác nhau như núi, đất ngập nước, suối. Nơi đây bảo tồn một diện tích lớn rừng nguyên sinh, đặc biệt ở khu vực biên giới Việt Lào. Khu này có khoảng 2.500 loài, trong đó có 2.000 loài thực vật bậc cao; 130 loài động vật lớn nhỏ như sao la, hổ, thỏ vằn; 295 loài chim; 54 loài lưỡng cư và bò sát; 84 loài cá, 39 loài dơi, 304 loài bướm ngày và hàng ngàn loài côn trùng khác. Bên cạnh đa dạng sinh học, khu còn đa dạng văn hóa dân tộc với 9 dân tộc, trong đó có dân tộc Ơ Đu, ít người nhất trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới vào 20/9/2007, đây là khu vực nghiên cứu lý tưởng về tác động của con người và biến đổi khí hậu toàn cầu.


5. Khu bảo tồn sinh quyển ven biển và đảo của Kiên Giang
Diện tích: 1.118.105 ha
Vị trí: Kiên Giang
Năm được UNESCO công nhận: 2006
Khu bảo tồn sinh quyển ven biển và đảo Kiên Giang được UNESCO công nhận tại cuộc họp thứ 19 diễn ra từ ngày 23 đến 27/10/2006 tại Paris. Với diện tích hơn 1,1 triệu ha, đây là khu bảo tồn sinh quyển lớn thứ hai của Việt Nam. Khu bảo tồn sinh quyển này bao gồm các huyện Phú Quốc, Kiên Hải, An Minh, Vĩnh Thuận và Kiên Lương và có ba vùng lõi nằm trong các Vườn quốc gia Phú Quốc, Vườn quốc gia U Minh Thượng và rừng phòng hộ ven biển Kiên Lương - Kiên Hải.
Về sự đa dạng của hệ sinh thái, khu bảo tồn sinh quyển Kiên Giang là nơi tập trung nhiều hệ sinh thái rừng nhiệt đới: hệ sinh thái rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh với đặc điểm cây họ Dầu; hệ sinh thái rừng trên núi đá với đặc điểm của loài ổi rừng và hoàng đàn ; hệ sinh thái rừng ngập chua phèn; hệ sinh thái rừng ngập mặn (đước, sú, vẹt, mắm,... đặc biệt là loài cóc đỏ còn sót lại duy nhất ở Việt Nam); hệ sinh thái rú bụi ven biển; hệ sinh thái rạn san hô, cỏ biển.
Vùng đảo Phú Quốc là nơi có sự đa dạng sinh học đặc sắc. Thực vật ở đây phong phú với nhiều loài quý hiếm, đặc hữu có giá trị cho nghiên cứu khoa học, bảo tồn nguồn gen và kinh tế. Phú Quốc có 529 loài thực vật thuộc 118 họ và 365 chi, trong đó có 8 loài đặc hữu. Trong 42 loài được ghi vào sách đỏ, có 11 loài tuyệt chủng hoặc có nguy cơ tuyệt chủng, 20 loài quý hiếm, 8 loài bị đe doạ và 3 loài nguy cấp. Động vật đặc hữu của đảo Phú Quốc không chỉ có chó Phú Quốc mà còn bao gồm hai phân loài chim là chìa vôi vàng và hút mật đỏ. Tính quý hiếm của động vật trên đảo Phú Quốc còn được thể hiện qua 23 loài ghi trong Sách Đỏ, trong đó có rắn hổ mây, vích , cá sấu nước ngọt, đồi mồi, chồn bay, vượn má trắng và gấu chó đều đang đối diện với nguy cơ tuyệt chủng.
Vùng Kiên Lương - Kiên Hải có hệ thực vật bao gồm 182 loài thuộc 59 họ, trong đó thực vật ngập mặn chiếm ưu thế với 39 loài như cây mắm, đước,... Thực vật rừng tràm có 47 loài, thuộc 30 họ, chủ yếu là cây tràm. Động vật hoang dã tại khu vực này có 28 loài thú thuộc 8 bộ, tập trung chủ yếu ở Hòn Chông, với nhiều loài đặc hữu Đông Nam Á, cũng như một số có nguồn gốc từ Ấn Độ, Miến Điện và Mã Lai. Với nhiều vách đá, hang động và vịnh biển, khu vực này rất thuận lợi cho các loài thú nhỏ và chim nước, tạo nên một môi trường phong phú với nhiều loài và chủng loại. Trong số 55 loài chim đã được phát hiện, nhiều loài như sếu cổ trụi, cò quắm cánh xanh và hạc cổ trắng đều đóng góp quan trọng vào việc bảo vệ đa dạng sinh học ở Việt Nam và trên thế giới, nhưng cũng đối diện với nguy cơ tuyệt chủng.
Ngược lại, hệ động vật ở Vườn quốc gia U Minh Thượng không phải là một khu vực giàu có như những khu bảo tồn khác ở Việt Nam, nhưng lại đóng vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái của rừng ngập nước úng phèn và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Đặc biệt, nơi đây là quê hương của loài Rái cá mũi lông - một loài hiếm có tên trong Sách Đỏ động vật Việt Nam và sách đỏ IUCN. Vườn quốc gia U Minh Thượng còn là nơi duy nhất tại Đồng bằng sông Cửu Long giữ lại rừng úng phèn nguyên sinh với khu rừng tràm hỗn giao và rừng tràm trên đất than bùn.


6. Khu bảo tồn sinh quyển Cù Lao Chàm - Hội An
Diện tích: 33.146 ha
Vị trí: Quảng Nam
Được UNESCO công nhận năm: 2009
Khu bảo tồn sinh quyển Cù Lao Chàm - Hội An, cùng với Mũi Cà Mau, đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới tại kỳ họp thứ 21 của Hội đồng Điều phối Quốc tế Chương trình Con người và Sinh quyển, tổ chức tại đảo Jeju (Hàn Quốc). Khu bảo tồn bao gồm đô thị cổ Hội An, vùng cửa sông Thu Bồn và dọc theo sông này đến Đô thị cổ Hội An, cùng toàn bộ diện tích khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm.
Trải dài từ thành phố Hội An đến quần đảo Cù Lao Chàm, nơi này có độ đa dạng sinh học cao, đại diện cho các hệ sinh thái tự nhiên đặc trưng của vùng sinh học Nam Trung Bộ, bao gồm hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển, thảm rong biển, rừng ngập mặn, và vùng cửa sông. Cù Lao Chàm được đánh giá là một trong những khu vực có độ đa dạng sinh học cao nhất Việt Nam với hơn 300 loài san hô, 97 loài thân mềm, và khoảng 270 loài cá rạn.
Ngoài đặc điểm sinh học, Cù Lao Chàm còn nổi tiếng với di sản văn hóa lịch sử, từ phố cổ Hội An đến quần đảo Cù Lao Chàm, thể hiện sự hài hòa giữa văn hóa và thiên nhiên. Phố cổ Hội An với kiến trúc cổ truyền và Cù Lao Chàm với cảnh quan biển độc đáo tạo nên một bức tranh sinh động về sự kết hợp giữa di sản văn hóa và sinh quyển biển.
Khu bảo tồn sinh quyển Cù Lao Chàm - Hội An là mô hình điển hình cho sự phát triển bền vững, nơi mà văn hóa và thiên nhiên hòa quyện và tạo nên một tương lai bền vững.


7. Khu bảo tồn sinh quyển Mũi Cà Mau
Diện tích: 371.506 ha
Vị trí: Cà Mau
Được UNESCO công nhận năm: 2009
Nằm ở cực nam của Tổ quốc, khu bảo tồn sinh quyển Mũi Cà Mau mang những giá trị đa dạng sinh học, cảnh quan thiên nhiên, môi trường, văn hóa và lịch sử.
Khu bảo tồn Mũi Cà Mau được chia thành 3 vùng: vùng đệm, vùng chuyển tiếp và vùng lõi, trong đó vùng lõi bao gồm Vườn quốc gia U Minh Hạ và Mũi Cà Mau với hai hệ sinh thái khác nhau. Rừng ngập mặn là hệ sinh thái đặc trưng của Mũi Cà Mau với nhiều loài cây như đước, mắm trắng, mắm ổi, vẹt... Khu vực này đánh giá là đa dạng sinh học thứ 2 thế giới, chỉ kém rừng ngập Amazon ở Nam Mỹ.
Vườn quốc gia U Minh Hạ có hệ sinh thái rừng kín mưa ẩm nhiệt đới trên đất chua ngập nước, với nhiều loài cây như tràm, bụi, mốp, trâm sẻ. Động vật ở đây đa dạng với 23 loài thú, 91 loài chim, 36 loài bò sát và 11 loài lưỡng cư.
Đặc biệt, khu bảo tồn mở rộng hàng năm do phù sa từ hệ thống sông, kênh, rạch bồi đắp dưới sự giúp sức của rừng mắm, đước ven biển. UNESCO công nhận Mũi Cà Mau là khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 29 tháng 5 năm 2009.


8. Khu bảo tồn sinh quyển LangBiang
Diện tích: 275.439 ha
Vị trí: Lâm Đồng
Năm được UNESCO công nhận: 2015
Khu bảo tồn sinh quyển LangBiang là khu bảo tồn sinh quyển đầu tiên của Tây Nguyên. Với diện tích 275.439 ha, trong đó vùng lõi, vùng chuyển tiếp và vùng đệm lần lượt là 34.943 ha, 72.232 ha và 168.264 ha nằm trên địa bàn thành phố Đà Lạt, các huyện Đơn Dương, Đức Trọng, Lạc Dương, Đơn Hà và Đam Rông, khu bảo tồn sinh quyển LangBiang bao gồm một vùng rừng nguyên sinh rộng lớn với vùng lõi là Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà, nơi được đánh giá là một trong bốn trung tâm đa dạng sinh học của Việt Nam với 1923 loài thực vật, trong đó có những loài đặc biệt quý hiếm như: Thông hai lá dẹt, Pơ mu, Thông đỏ, Thông 5 lá Ðà Lạt. Họ Lan có 297 loài - thủ phủ hoa Lan của Việt Nam.
Động vật ở đây đa dạng với 422 loài, trong đó có những loài quý hiếm như: Sói lửa, bò tót, gấu ngựa, báo lửa, vượn đen má vàng, chà vá chân đen… Khu vực này cũng là một trong 221 vùng chim đặc hữu của thế giới và có 154 loài động thực vật nằm trong Sách đỏ Việt Nam và 153 loài trong Sách đỏ thế giới. Cơ quan bảo vệ động vật hoang dã Thế giới đã xác định nơi đây thuộc diện ưu tiên bảo tồn số một trong dãy núi Nam Trường Sơn của Việt Nam. Nơi đây cũng tồn tại cây Pơ mu có độ tuổi lên tới 1300 năm.
Khu bảo tồn sinh quyển được đặt tên theo ngọn núi Langbiang, nơi có câu chuyện tình lãng mạn giữa chàng Lang và nàng Biang của người K’Ho - cư dân thiểu số bản địa đã sinh sống ở đây bao đời nay. Nơi này lưu giữ giá trị toàn cầu về đa dạng sinh học, cảnh quan thiên nhiên và văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.


9. Khu bảo tồn sinh quyển Đồng Nai
Diện tích: 969 993 ha
Vị trí: Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Lâm Đồng và Đắc Nông
Được UNESCO công nhận năm: 2011
Ngày 29/6/2011, Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thứ 580 của thế giới và là khu dự trữ sinh quyển thứ 8 tại Việt Nam, với tổng diện tích là 969.993 ha trên cơ sở mở rộng khu dự trữ sinh quyển Nam Cát Tiên cũ. Trải rộng trên địa bàn 5 tỉnh thuộc khu vực Đông Nam Bộ và Nam Tây Nguyên, khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai bao gồm Vườn quốc gia Cát Tiên, khu Bảo tồn thiên nhiên và di tích Vĩnh Cửu, khu bảo tồn vùng nước nội địa Trị An – Đồng Nai và khu Ramsar Bàu Sấu.
Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai có vùng sinh cảnh đa dạng, phong phú, từ kiểu rừng trên đất thấp ven sông đến rừng trên núi cùng hệ sinh thái đa dạng với 401 loài thực vật, thuộc 623 chi, 156 họ, 92 bộ, 10 lớp, 6 ngành thực vật khác nhau; là môi trường sống lý tưởng cho các loài động vật, nhất là động vật có vú, chim, bò sát và cá,… với 1.781 loài thuộc 211 họ, 51 bộ. Vườn quốc gia Nam Cát Tiên cũng là nơi duy nhất ở Đông Nam Bộ còn sót lại kiểu rừng mưa nhiệt đới.
Mặt khác, trước đây khu vực này là căn cứ cách mạng, có các di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia, như: Căn cứ Khu ủy miền Đông Nam Bộ, Căn cứ Trung ương Cục miền Nam, Địa đạo Suối Linh. Ngoài ra, vùng đất này còn ẩn chứa cả một kho tàng văn hóa phong phú và đa dạng. 11 dân tộc anh em cùng sinh sống trên một vùng đất đã góp phần tạo nên những nét độc đáo mà bạn không thể lẫn được với bất kỳ vùng đất nào khác.
Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai là hình mẫu về bảo tồn đa mục đích. Nơi đây đang được kì vọng sẽ là mô hình phát triển bền vững, hài hòa giữa con người và thiên nhiên dựa trên sự đa dạng sinh học và đa dạng văn hóa được duy trì từ xa xưa; các phong tục tập quán truyền thống được bảo tồn gắn liền với bảo tồn đa dạng sinh học theo quan điểm “Bảo tồn để phát triển, phát triển để bảo tồn”.

