Tổng hợp hơn 30 bài văn phân tích chi tiết khổ thơ 3, 4 của bài thơ Viếng lăng Bác, đặc biệt hữu ích cho học sinh muốn cải thiện kỹ năng viết văn.
Danh sách tuyển chọn 30 bài văn phân tích khổ thơ 3, 4 của bài thơ Viếng lăng Bác (sôi nổi, rõ ràng)
Phân tích chi tiết khổ thơ 3, 4 của bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu số 1
Bài thơ Viếng lăng Bác là một trong những tác phẩm đặc biệt của nhà thơ Nam bộ Viễn Phương. Được sáng tác vào năm 1976, sau khi đất nước thống nhất và lăng Bác được khánh thành, nhà thơ đã viết bài thơ này sau chuyến thăm lăng. Tác phẩm được xuất bản trong tập 'Như mây mùa xuân' năm 1978. Bài thơ là sự kính trọng và xúc động của tác giả trước lãnh tụ yêu quý, cha già của dân tộc. Điều này được thể hiện đặc biệt qua khổ thơ 3, 4 của bài thơ.
'Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Dưới ánh trăng dịu dàng lung linh
Dù biết rằng bầu trời xanh là vĩnh cửu
Nhưng cảm thấy đau đớn trong lòng
Tác giả sử dụng phép nói giảm nói tránh để giảm bớt nỗi đau mất mát của nhân dân toàn quốc. 'Ánh sáng nhẹ nhàng' giống như tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Người, như trái tim bao la, đầy nhân ái của Người. Trong lòng mỗi người Việt Nam, Bác mãi là 'bầu trời xanh', là nguồn sống, niềm tin vĩnh cửu. Mặc dù biết rằng Bác sẽ luôn sống trong lòng mỗi người nhưng vẫn cảm thấy đau đớn, mất mát trước sự ra đi của Người. Câu thơ 'nhưng cảm thấy đau đớn trong lòng' đã thể hiện cảm xúc sâu sắc, đau đớn của tác giả và cả dân tộc.
Trong ba khổ thơ đầu, tác giả giữ lại cảm xúc sâu thẳm
Nhưng ở khổ thơ cuối, khi sắp phải rời xa Người, lòng lại trở nên nặng trĩu, cảm xúc tràn đầy:
'Ngày mai trở về miền Nam, nước mắt tuôn trào'
Rời xa Bác, không thể không buồn, không nỗi nhớ. Dù mới chỉ gặp Người một lần nhưng phải chia xa vì một lý do nào đó, cảm giác thật khó diễn tả. Tác giả thể hiện sự mong mỏi, khao khát của mình:
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương ở đây
Muốn trở thành cây tre trung hiếu trong chốn này.
Biểu hiện của 'muốn trở thành' được nhắc lại 3 lần, cho thấy sự hấp tấp, lòng khao khát mãnh liệt của nhà thơ. Chỉ muốn trở thành chú chim nhỏ hót quanh Bác mỗi ngày, muốn làm đóa hoa để lan tỏa hương thơm, để làm cho nơi đây thêm thắm đẹp. Và ước nguyện cuối cùng của tác giả:
'Muốn trở thành cây tre trung hiếu trong chốn này'
Mỗi người như một cây tre trung hiếu với Bác, và hàng tre là cả dân tộc trung hiếu với Người. Nguyện trung thành và hiếu kính với Người suốt cả cuộc đời. Luôn học tập và theo đuổi con đường cách mạng của Người. Ước nguyện này không chỉ của riêng Viễn Phương mà còn của cả dân miền Nam, của toàn dân tộc.
Dàn ý Phân tích khổ 3, 4 bài thơ Viếng lăng Bác
1. Mở bài:
- Tổng quan về tác giả và tác phẩm.
- Tóm tắt nội dung khổ thơ 3 và 4.
2. Thân bài:
a) Khổ thơ 3: Tâm trạng của tác giả khi đặt chân vào lăng mộ:
- 'Bác nằm trong giấc ngủ yên bình': Sử dụng từ ngữ nhẹ nhàng để giảm bớt nỗi đau khi Bác đã ra đi. Đặt nặng việc Bác vẫn mãi sống trong lòng người Việt.
- Hình ảnh ẩn dụ về 'vầng trăng':
+ Tạo ra một không gian an bình, ấm áp.
+ Gợi nhớ về ánh trăng quen thuộc trong tác phẩm của Bác.
- Biểu hiện ẩn dụ về 'trời xanh mãi mãi': Đồng nhất với việc Bác đã trở thành một phần của tự nhiên, của quê hương.
- 'Nhói': Mô tả sâu sắc nỗi đau khi phải đối diện với sự thật Bác đã ra đi.
b) Khổ thơ 4: Nguyện ước chân thành của tác giả:
- 'Mai về miền Nam': Thông báo về kế hoạch của tác giả phải rời xa lăng Bác, trở về miền Nam.
- 'Thương trào nước mắt': Sự tiếc nuối khi phải xa Bác.
- Trở thành con chim: Để hát ca về tình yêu dành cho Bác mỗi ngày.
- Trở thành cây tre: Để thể hiện lòng trung hiếu với Bác và với đất nước.
- Biểu hiện tình yêu thương như một bông hoa, lan tỏa hương thơm cho nơi này.
- Ước nguyện 'muốn làm': nhấn mạnh lòng khát khao chân thành của nhà thơ.
3. Kết bài:
- Xác nhận lại giá trị nội dung và nghệ thuật ở khổ thơ 3, 4.
Phân tích khổ thơ 3, 4 bài Viếng lăng Bác - mẫu 2
“Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một tác phẩm xuất sắc được sáng tác vào năm 1976, thể hiện sự thành kính sâu sắc của nhà thơ đối với Hồ Chủ tịch. Bằng ngôn từ chân thành, bài thơ ghi lại tình cảm của nhân dân dành cho Bác.
Hai khổ thơ 3 và 4 cuối bài như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, thể hiện lòng yêu mến tha thiết của nhà thơ với Hồ Chủ tịch. Bằng ngôn từ sâu lắng và ẩn dụ, bài thơ đã gợi lên trong lòng độc giả những cảm xúc sâu sắc và đáng trân trọng...
'Bác nằm trong giấc ngủ bình yên'
'Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền'
Khung cảnh bên trong lăng êm đềm, yên bình. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng, không phải Bác đã ra đi. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, bên cạnh là vầng trăng sáng dịu hiền, ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác.
'Vẫn biết trời xanh là mãi mãi'
'Mà sao nghe nhói ở trong tim!'
Trời xanh vô tận, nhưng lòng vẫn nhói đau vì sự ra đi của Bác. Mất Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được?
Cuối cùng, dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra về.
'Mai về miền Nam thương trào nước mắt'
Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Tiếng 'thương của miền Nam' vẫn vang lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim người.
'Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác'
'Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây'
'Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này'
Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Con chim hót, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu, tất cả là nguyện ước chân thành của hàng triệu con tim người Việt.
Bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc, biểu hiện thành công về những giá trị nội dung. Hình ảnh trong bài thơ ẩn dụ, nhịp thơ linh hoạt, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc.
Bằng lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện niềm xúc động và lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một chuyến viếng lăng Bác ở miền Bắc. Bài thơ như tiếng nói chung của toàn dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất nước ta có hoà bình như ngày hôm nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, chúng ta cần phải biết xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Phân tích khổ 3, 4 bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu 3
Viễn Phương là một trong những nhà văn tiên phong của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời chiến tranh. Thơ của Viễn Phương đậm chất Nam Bộ, bình dị, đằm thắm. Bài thơ 'Viếng lăng Bác' mang đậm tình cảm sâu sắc và lời hay. Đặc biệt, hai khổ thơ cuối thể hiện lòng kính yêu và ý nguyện dâng hiến đời mình cho vẻ đẹp của đất nước.
'Bác nằm trong giấc ngủ bình yên'
'Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền'
'Vẫn biết trời xanh là mãi mãi'
'Mà sao nghe nhói ở trong tim!'
Mai trở về miền Nam, nước mắt trào dâng
Ước gì được hóa thân thành con chim hót quanh lăng Bác
Ước gì được trở thành cây tre trung hiếu ở đây”
Đã lâu rồi, giống như nhiều chiến sĩ và người dân miền Nam xa xứ, Viễn Phương luôn khát khao đến viếng thăm lăng Bác, trở về với người cha vĩ đại. Nhưng cuộc chiến kéo dài, kẻ thù còn ngoan cố, cho đến sau khi đất nước giải phóng, ông mới có cơ hội thực hiện ước mơ ấy.
Tác giả đến với lăng Bác với tâm trạng luyến tiếc và tự hào, vừa tiếc nuối vì người đã ra đi vĩnh viễn, vừa hạnh phúc vì được trở về với tinh thần cao quý của dân tộc. Bước vào trong lăng, không khí và khung cảnh như đọng lại, thời gian dường như ngưng lại. Hình ảnh thơ đã chính xác diễn tả sự yên bình và trang trọng của không gian trong lăng Bác:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”
Dưới ánh trăng dịu dàng hiền hòa
Biết rằng trời xanh mãi mãi
Nhưng lòng cảm thấy nhói đau!”
Khởi đầu với việc mô tả thực tế hình ảnh của Bác, nhà thơ cảm nhận rằng Người đang nằm trong giấc ngủ bình yên, yên bình dưới ánh trăng dịu hiền. Tất cả tạo nên một khung cảnh thiêng liêng, vô cùng trang trọng. Sự yên bình đến kỳ lạ, không có âm thanh, chỉ có ánh sáng, đủ sức đưa con người vào tâm trạng tĩnh lặng.
Ranh giới mỏng manh giữa thực và hư, làm cho không gian trở nên huyền bí hơn. Ánh trăng tỏa sáng lung linh xung quanh lăng cữu của Người, cùng điều hành với Người trong thế giới siêu nhiên. Hình ảnh “trăng dịu dàng sáng tỏ” gợi cho chúng ta tinh thần, cách sống cao quý, thanh cao, trong sạch của Bác.
Tiếng suối reo như tiếng hát xa
Trăng soi sáng bóng cây lá xanh
Thậm chí trên chiến trường, khi quân bận rộn, trăng vẫn ghé thăm Bác mời gọi, kêu gọi:
“Trăng qua cửa sổ, kêu ca muốn thơ
Quân bận, xin đợi đến ngày mai”.
Ngay cả khi ở trong tù, trăng vẫn là người bạn tâm giao, hiểu biết và chia sẻ nỗi lòng cùng Bác:
“Bóng trăng soi qua khung cửa sổ
Trăng nhìn qua khe cửa, nhìn nhà thơ”
Dường như trong mọi hoàn cảnh, tình cảm của Bác với trăng vẫn mãi không phai nhạt. Và ánh trăng đẹp càng thêm niềm tin và lạc quan cho Bác trong cuộc hành trình cách mạng giải phóng dân tộc. Khi nghĩ về Bác, Viễn Phương hình dung những bóng trăng sáng rực như ánh trăng dịu dàng chiếu sáng, ấp ủ Bác như một phần của hiện thực đó.
Suốt cả cuộc đời, từ khi còn trẻ trai cho đến khi tóc bạc phơ, Bác đã hy sinh tất cả vì sự độc lập của dân tộc Việt Nam yêu quý này. Dù phải trải qua nhiều năm xa cách ở hải ngoại, nhiều lần nằm gối dưới tuyết sương, và nhiều lần bị giam cầm, nhưng Bác vẫn kiên định, vượt qua mọi gian khổ để ánh sáng cách mạng chiếu sáng khắp nơi, để xóa tan mọi gông cùm, khó khăn cho đất nước Việt Nam thống nhất. Việc nhà thơ so sánh Bác với “trời xanh” là hoàn toàn chính xác và mãi mãi đúng với tinh thần của dân tộc chúng ta.
Tuy nhiên, khi đọc lại dòng thơ: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”, ta cảm thấy như có điều gì đó nặng nề, làm lòng chúng ta đau đớn. Cảm xúc đó được khẳng định khi gặp câu thơ:
“Nhưng sao lòng đau nhói”
Dù vậy, dòng cảm xúc và tưởng tượng của Viễn Phương vẫn phong phú, sâu sắc, đang chìm đắm trong niềm hạnh phúc, trong lòng tràn đầy sự kính trọng và hạnh phúc khi ở bên Bác, thoả mãn tấm lòng của người miền Nam hướng về Bác như cha thương yêu.
Nhưng bây giờ nhà thơ không thể tránh khỏi sự thật đau lòng, sự thật mà toàn bộ dân tộc Việt Nam phải chịu đựng vào ngày 2 tháng 9 năm 1969:
“Nhiều ngày qua buồn tiễn đưa
Mắt rơi lệ, trời tuôn mưa”
(Bác ơi! – Tố Hữu)
Cảm giác đó bất ngờ ùa về làm nhà thơ cảm thấy “nhói ở trong tim”. Từ “nhói” phản ánh rõ nét phong cách Nam Bộ. Trong không khí thơ đầy xót xa, nhớ nhung, ý thơ chân thực đã diễn tả chân thành cảm xúc đau đớn tột cùng của tác giả khi đối diện với thực tại đau lòng: Bác đã ra đi mãi mãi. Đoạn thơ của Viễn Phương đã giúp ta hình dung được nhà thơ đang đứng trước một cảnh tượng trang nghiêm, cúi đầu kính cẩn, tưởng nhớ Bác với tấm lòng yêu thương, kính trọng và biết ơn sâu sắc.
Tình yêu thương Bác dù rất lớn nhưng gần gũi không nhiều, cho nên khoảnh khắc chia ly đau lòng, buồn bã lưu luyến. Nghĩ đến ngày mai khi rời xa miền Bắc, rời xa Bác, tình cảm của nhà thơ không thể kìm nén, không giấu giếm trong lòng mà được thể hiện ra ngoài:
“Ngày mai về miền Nam, lòng trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương khắp nơi
Muốn làm cây tre hiếu khách ở đây”
Vẫn với cách diễn đạt sâu lắng, thấm thiết như vùng Nam Bộ “tình thương lưu luyến như dòng nước mắt” kết hợp với triết lý “muốn làm” như một điệu nhảy, lại được nắm bắt trong ba câu thơ liên tiếp, các câu thơ đã trở thành điểm cao của cảm xúc, giúp tác giả thể hiện mọi tâm tư, tình cảm yêu thương và kính trọng dành cho Bác. Điều đó không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn của hàng triệu trái tim khác. Gần bên Bác dù chỉ trong khoảnh khắc nhưng ta không bao giờ muốn rời xa Bác, bởi Người quá ấm áp, quá to lớn.
Bởi tình yêu thương, kính trọng, sự xót xa và bịn rịn không muốn rời đi, nhà thơ đã ước nguyện trở thành “con chim” yêu thương “hót quanh lăng”, muốn trở thành “đóa hoa tỏa hương” lan tỏa hương thơm xung quanh lăng, muốn trở thành “cây tre” trung hiếu vĩ đại vẫn mãi yêu thương, kính trọng người cha già của nhân dân.
Đặc biệt là mong muốn “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để tham gia vào hàng tre rậm rạp, giữ gìn giấc ngủ bình yên của Người. Hình ảnh cây tre mang tính biểu tượng một lần nữa nhấn mạnh, làm cho bài thơ có cấu trúc từ đầu đến cuối phù hợp.
Nếu ở khổ thơ đầu là một hàng tre như tầng lớp nhân dân vây quanh Bác, sống cùng Người, chiến đấu cùng Người để bảo vệ hòa bình, độc lập của dân tộc, thì khổ thơ cuối chỉ là “cây tre” biểu tượng cho nhà thơ, cho tinh thần của nhà thơ, cho ý chí kiên trung, bất khuất của dân tộc.
Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp lại ở câu thơ cuối như mang thêm ý nghĩa mới, tạo ra ấn tượng sâu sắc, làm cho dòng cảm xúc trở nên đầy đủ. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành không biên giới với Bác, nguyện mãi mãi theo đuổi con đường cách mạng mà Người đã chỉ lối. Đó là lời hứa chân thành của riêng nhà thơ và cũng là nguyện vọng của người dân miền Nam, của mỗi người chúng ta đối với Bác.
Ngày nay, với tình yêu, tôn kính, tri ân Bác, toàn dân, toàn Đảng ra sức xây dựng, phát triển đất nước. Riêng học sinh chúng em luôn ghi nhớ lời dạy của Bác “Non sông Việt Nam có tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang, sánh vai với cường quốc năm châu hay không phụ thuộc chủ yếu vào việc học của các em” và cố gắng chăm chỉ học tập, rèn luyện tốt nhân cách, đạo đức, để sau này góp phần vào công cuộc xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước, để đền đáp phần nào công lao vĩ đại của Bác.
Bằng những cảm xúc chân thành, cách diễn đạt sâu lắng và tinh tế, với tư duy ẩn dụ đẹp đẽ, bài thơ “Viếng lăng Bác” nói chung và từng khổ thơ cụ thể nói riêng thể hiện tình cảm yêu thương, kính trọng của nhà thơ và cả của toàn dân đối với Bác.
Giọng văn thơ phản ánh đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả: trang trọng, sâu sắc, cũng như cảm động, đau xót và tự hào. Hình ảnh thơ độc đáo, kết hợp giữa hiện thực và tượng trưng. Những hình ảnh tượng trưng vừa quen thuộc
Phân tích hai khổ thơ thứ ba và thứ tư của bài thơ 'Viếng lăng Bác' - mẫu 4
Mở màn:
Nội dung chính:
Bài thơ thể hiện một cách toàn diện dòng chảy cảm xúc chân thành và xúc động của nhà thơ Viễn Phương khi đến thăm lăng Bác. Từ xa, tác giả nhìn thấy “hàng tre bát ngát”, nhưng khi lại gần, thấy từng dòng người vào lăng viếng Bác, nhà thơ cảm thấy vừa tự hào, vừa mừng rỡ, xen lẫn cảm xúc nghẹn ngào và đau lòng. Khi bước vào bên trong lăng, không khí và cảnh quan trang trọng, thiêng liêng đến mức có cảm giác như thời gian và không gian đều ngừng lại, đưa tác giả trở về quá khứ đầy hoài niệm. Đứng trước di ảnh linh thiêng của Người, nhà thơ không thể không ngậm ngùi:
“Bác nằm trong giấc ngủ yên bình
Dưới ánh trăng nhẹ nhàng dịu dàng
Vẫn nhận ra trời xanh mãi mãi
Nhưng lòng nghe đau xót mãi
Hình ảnh thơ tận dụng ánh sáng nhẹ nhàng, không gian yên bình trong lăng Bác để diễn đạt. Tác giả cảm nhận Người ngủ say. “Giấc ngủ bình yên” là cách miêu tả nhẹ nhàng để biểu đạt tâm trạng trân trọng, yêu mến giấc ngủ của Bác.
Tình yêu thương Bác càng sâu sắc, nhà thơ càng đau lòng khi phải tiễn biệt. Tâm trạng xúc động của nhà thơ được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ của “trời xanh”. “Trời xanh” là biểu tượng của vĩ đại, không biến mất. Đồng thời, “trời xanh” cũng là niềm tin rằng Bác vẫn ở bên non sông, vẫn sống mãi trong lòng dân tộc.
Dù tin rằng, triệu triệu con tim Việt vẫn rơi vào nỗi đau mất mát: “nhưng lòng nghe đau xót mãi”. “Đau xót” thể hiện trực tiếp nỗi đau sâu sắc, nghẹn ngào trong lòng. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau, mất mát nằm sâu trong tâm hồn, không thể diễn tả thành lời. Đây không chỉ là nỗi đau riêng của tác giả mà còn là của hàng triệu trái tim Việt.
Cuộc viếng thăm ngắn ngủi không đủ để xoa dịu nỗi nhớ, vì vậy, nhà thơ luôn lưu luyến, đau xót, thổn thức với ý nghĩ về sự rời xa: “Mai về miền Nam”.
Bốn chữ “mai về miền Nam” vang lên tràn ngập cảm xúc, nồng nàn như lời chia tay. “Thương trào nước mắt” là biểu hiện của tình yêu thương vô tận dành cho vị lãnh tụ kính yêu. Điều này không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn của hàng triệu trái tim trên khắp đất nước. Được gần Bác dù chỉ trong chốc lát nhưng chẳng bao giờ muốn rời xa Bác bởi Người quá ấm áp, quá to lớn.
Sử dụng phép liệt kê và ẩn dụ với “con chim, đóa hoa, cây tre” kết hợp với điều ngữ “muốn làm” thể hiện mong muốn, khao khát được sống mãi bên Bác của nhà thơ.
Hình ảnh cây tre được lặp lại để tạo cấu trúc đầu cuối tương ứng. “Cây tre trung hiếu” cũng là biểu tượng của lòng trung thành, sắt son của nhà thơ đối với dân tộc, là lời hứa với Bác, sẵn sàng hiến dâng sức mạnh và tính mạng để bảo vệ hòa bình của dân tộc như Bác đã khuyên bảo. Chủ thể “con” từ đầu bài đến đây không được đề cập lại, cho thấy ước nguyện này không chỉ của riêng tác giả mà của toàn dân, của dân tộc chúng ta đối với Bác.
Liên kết:
Trước khi Bác ra đi, nhà thơ Tố Hữu cũng đã viết những câu thơ xúc động:
“Bác đã rời xa, Bác ơi!
Mùa thu trên trời, nắng vàng óng ả
Miền Nam đang hân hoan, mơ mộng về ngày hội
Dẫn Bác vào viếng thăm, thấy Bác mỉm cười!”
(Bác ơi!)
Kết bài:
Với lối viết phản ánh chân thành và sâu lắng, thể hiện bằng thể thơ tám chữ và những câu thơ có độ dài linh hoạt từ bảy đến chín chữ, bài thơ 'Viếng lăng Bác' khắc họa một cách sâu sắc tình cảm chân thành của nhà thơ dành cho Bác trong chuyến viếng thăm hiếm hoi.
Phân tích khổ 3, 4 của bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu 5
Phân tích khổ 3, 4 của bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu 6
Viễn Phương, một nhà thơ liên quan chặt chẽ đến cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thể hiện sự gắn bó sâu sắc thông qua tác phẩm 'Viếng lăng Bác'. Bài thơ này thể hiện tình cảm chân thành của tác giả khi đến viếng lăng Bác. Ở khổ thơ thứ ba và thứ tư, tác giả diễn tả rõ nét tâm trạng xúc động khi nhìn thấy Bác và diễn đạt lời ước nguyện chân thành đối với Người.
Khi gặp Bác lần đầu, tác giả không thể kìm được nước mắt:
'Bác nằm trong giấc ngủ an lành
Giữa vầng trăng nhẹ nhàng chiếu sáng'
Hai dòng thơ đầu tiên thể hiện cảm xúc sâu sắc của nhà thơ khi đối mặt với linh cữu của Bác. Viễn Phương sử dụng phép nói giảm để diễn đạt: 'nằm trong giấc ngủ an lành'. Điều này không chỉ giảm bớt nỗi đau mất mát mà còn khẳng định rằng Bác sẽ mãi sống trong lòng của nhân dân Việt Nam. Ở câu thơ thứ hai, tác giả tái hiện không khí trong lăng. Ánh sáng từ trong lăng như là ánh trăng bạc tỏa ra. Lúc này, Bác không chỉ giống như mặt trời sáng chói mang lại sự tự do và độc lập, mà còn giống như vầng trăng dịu dàng, lan tỏa tình thương đến với mọi người. Đây là cách tác giả nhắc đến hình ảnh của ánh trăng, người bạn tri âm của Bác, luôn đồng hành với Người suốt cuộc đời.
Hai dòng thơ sau diễn tả nỗi đau xót của nhà thơ khi phải đối mặt với sự thật:
'Dù biết trời xanh sẽ mãi mãi
Nhưng lòng lại cảm thấy nhói đau'
Khổ thơ thứ tư thể hiện tâm trạng của nhà thơ khi phải rời xa:
'Ngày mai về miền Nam, lòng đầy nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương khắp nơi
Muốn làm cây tre trung hiếu ở đây'
Lúc này, nhà thơ vẫn đang ở bên Bác nhưng cảm thấy buồn khi nghĩ đến việc phải rời xa. Cụm từ 'thương trào nước mắt' đã thể hiện tình cảm mãnh liệt, không muốn chia xa Người. Tại thời điểm đó, tác giả ước ao được biến thành những vật thể xung quanh lăng để gần gũi với Bác. Nhà thơ muốn trở thành con chim hót để mang lại tiếng hót trong trẻo mỗi ngày. Không chỉ thế, Viễn Phương muốn trở thành đóa hoa để tỏa hương thơm khắp nơi, tô điểm thêm vẻ đẹp cho lăng. Cuối cùng, ông ước ao được trở thành cây tre trung hiếu ở đây để canh gác cho giấc ngủ bình yên của Bác. Sử dụng điệp ngữ 'muốn làm' nhiều lần nhấn mạnh khao khát trong lòng nhà thơ, thể hiện tình yêu kính trọng dành cho Bác. Tình cảm này không chỉ là của nhà thơ mà còn của toàn bộ người dân Việt Nam khi nhớ về người cha già yêu dấu.
Hai khổ thơ cuối kết thúc bài thơ bằng những cảm xúc chân thành của tác giả. Với những biện pháp tu từ tinh tế và ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc, Viễn Phương đã thể hiện tình yêu tha thiết dành cho cha già của dân tộc.
Phân tích khổ 3, 4 bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu 7
Không quá phức tạp, Viễn Phương thể hiện cảm xúc một cách tự nhiên và chân thành. Bài thơ theo trình tự của một cuộc viếng lăng Bác, từ khi đứng ngoài lăng đến khi bước vào và rời đi. Mở đầu là cảm xúc về cảnh ngoại ô lăng, tập trung vào hình ảnh đậm về hàng tre bên lăng, gợi lên hình ảnh quê hương đất nước.
Tiếp theo là cảm xúc trước hình ảnh dòng người không ngừng vào lăng viếng Bác. Xúc động và suy ngẫm về Bác được kích thích từ những hình ảnh biểu tượng: 'mặt trời', 'vầng trăng', 'bầu trời xanh':
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Nhưng lòng lại cảm thấy nhói đau.
Với cảm xúc tràn đầy, nhà thơ Viễn Phương đã viết ra hai đoạn thơ đầy tình cảm tiếc nuối và lòng thành kính không chỉ của mình mà còn của nhiều người con miền Nam khác. Theo dòng người vào lăng viếng Bác, tác giả đã nhận ra hình bóng quen thuộc của Người.
Bác đang nằm yên đó, nghỉ ngơi sau cuộc đời dày công, vất vả vì sự giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Giờ đây, Người thong thả thưởng thức khoảnh khắc bình yên. Với phép ẩn dụ đầy biểu cảm, Viễn Phương đã tạo ra hình ảnh đẹp đẽ của vị lãnh tụ nằm nghỉ giữa dải ánh sáng của “vầng trăng sáng dịu hiền”.
Vũ trụ vẫn mãi mãi còn, nhưng cuộc đời con người ngắn ngủi. Trăng vẫn chiếu sáng trên cao nhưng Bác đã ra đi. Tình nghĩa và trung thành vẫn luôn bên Bác, trăng không bao giờ xa rời.
Bác đã trở về với dải sáng rộng lớn của vũ trụ, trở thành một phần của tự nhiên nhưng hình ảnh của Người mãi mãi được khắc sâu trong lòng mọi người, tình cảm của Người vẫn ấm áp trong trái tim người Việt, tư tưởng của Người vẫn là nguồn sáng soi đường cho dân tộc. Mặc dù tin tưởng, nhưng trong tâm trí đó, nhà thơ vẫn cảm thấy một nỗi đau nhói khôn cùng:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Nhưng lòng lại cảm thấy nhói đau ở trong tim”
Bác đã ra đi, để lại nỗi buồn, đau xót không thể tả nổi cho dân tộc. Nghĩ về điều đó, nghĩ về việc không còn gặp lại người Cha già kính yêu, ai cũng đau lòng “nhói đau trong tim”. Một từ “nhói” thôi, nhà thơ đã tóm gọn mọi nỗi đau của người Việt Nam.
Cảm xúc này là cao trào của nỗi nhớ thương, của đau xót. Nó là nguyên nhân dẫn đến những ước ao trong khổ cuối bài thơ:
Mai về miền Nam, nước mắt lưu trào
Muốn trở thành con chim hót quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa toả hương khắp nơi
Muốn trở thành cây tre trung hiếu ở đây…
Nhịp thơ cũng chính là nhịp cảm xúc, tâm trạng của tác giả khi sắp phải rời xa Bác, không gặp lại Người. Nghĩ về điều đó, nhà thơ thấy 'thương trào nước mắt'. Một từ 'trào' đủ mạnh mẽ, sôi động, nhà thơ ghi lại tấm lòng mình, viết nên nguyện ước của bao con người Việt Nam. Đó không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn của hàng triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong chốc lát nhưng chẳng ai muốn xa Người, vì Bác ấm áp quá, rộng lớn quá.
Bằng cách sử dụng phép lặp, qua điệp ngữ 'muốn làm', Viễn Phương đã truyền đạt trọn vẹn nguyện ước chân thành của mình. Rất khiêm tốn, ông chỉ mong trở thành 'con chim' hót vui mỗi sáng mỗi chiều quanh lăng, muốn làm đóa hoa tỏa hương quanh lăng, muốn làm cây tre trung hiếu đứng canh cho giấc ngủ của Người. Hình ảnh hàng tre tái xuất, tự nhiên, để khép lại bài thơ.
Có bao ước ao với Bác, nhưng chỉ mong làm những điều nhỏ nhặt ấy. Như Phan Thị Thanh Nhàn đã viết trong bài 'Bác ơi!':
“Giếng đầy còn có lúc tràn
Lòng con nhớ Bác mãi không phai”.
Phân tích khổ 3, 4 bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu 8
Viễn Phương là một trong những người viết sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm của ông thường viết về vị lãnh tụ vĩ đại. Bài thơ 'Viếng lăng Bác' được viết năm 1976 khi đất nước thống nhất, lăng Bác được khánh thành và tác giả được vào thăm. Hai khổ thơ 3 và 4 trong bài thơ là cảm xúc của nhà thơ khi vào lăng Bác và những cảm xúc dâng trào cùng những ước nguyện khi rời đi.
Có thể nói, việc gặp gỡ người cha kính yêu là một ước ao của miền Nam, và giờ đây ước ao đã trở thành hiện thực. Trong khổ thơ thứ 3, khi bước vào lăng, cảm xúc nhà thơ trào dâng khi thấy:
Bác nằm trong giấc ngủ yên bình
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Biết rằng trời xanh mãi mãi
Nhưng lòng nghe nhói đau thấu xót.
Không khí trong lăng vô cùng yên tĩnh, với hình ảnh Bác nằm nghỉ một cách thanh thản, trong giấc ngủ bình yên. Cách diễn đạt nhẹ nhàng trong tâm trí nhà thơ, Bác vẫn sống mãi. Ngắm nhìn Bác, nhà thơ lại bị xúc động khi nhớ về những năm tháng chiến tranh, Bác còn đêm không ngủ vì lo nỗi nước nhà. Bây giờ, khi đất nước thống nhất, Bác mới có giấc ngủ yên bình.
Người nằm ấy, với ánh sáng trong trẻo của vầng trăng. Vầng trăng cao kia soi sáng nơi Bác yên nghỉ, tạo ra sự giao hòa đẹp đẽ giữa người và thiên nhiên. Trăng trở thành đề tài trong thơ Bác và trở thành người bạn tri kỷ. Hay vầng trăng kia chỉ là Bác, người có tâm hồn trong sáng thanh cao.
Việc sử dụng nghệ thuật ẩn dụ 'trời xanh' so sánh Bác như bầu trời cao rộng, muốn tôn vinh sự vĩ đại và vĩnh cửu của Người như một phần của quốc gia sống mãi trong lòng người. Cặp từ 'vẫn biết - nhưng lòng nghe' luôn khẳng định Bác vẫn còn sống nhưng cũng nhấn mạnh việc Người đã ra đi, gây ra một tổn thất lớn cho dân tộc. Bác mãi mãi sẽ khiến trái tim người đau nhói, nỗi đau không thể diễn tả bằng lời.
Do đó, khi chân còn chạm đất, nhớ đến ngày mai phải rời xa, nhà thơ cảm thấy buồn, xúc động, không muốn rời xa Bác. Cảm xúc tự nhiên này trào dâng thành giọt nước mắt, và nhà thơ bày tỏ ước nguyện:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Viễn Phương muốn trở thành con chim để hát vang tiếng hót tốt nhất tại lăng Bác, muốn trở thành bông hoa để tỏa hương làm đẹp nơi Bác yên nghỉ, muốn trở thành cây tre để đứng canh cho giấc ngủ của Người. Nghệ thuật ẩn dụ 'con chim, đóa hoa, cây tre' chỉ rõ ý định của nhà thơ Viễn Phương muốn gần gũi với Bác trong những điều tinh tế, nhỏ nhặt nhưng đẹp đẽ.
Điệp ngữ “muốn làm” làm cho những ước nguyện của tác giả trở nên chân thành tha thiết hơn. Hình ảnh cây tre trung hiếu cũng là lời thề trung thành với lý tưởng của Người. Hình ảnh cây tre kết thúc bài thơ tạo ra sự kết nối từ đầu đến cuối.
Bài thơ có cấu trúc tám chữ, từ ngữ sâu sắc, giàu cảm xúc, với những hình ảnh đẹp như “mặt trời, vầng trăng…” và sử dụng nghệ thuật ẩn dụ cùng với giọng điệu trang nghiêm để diễn tả cảm xúc khi đứng trước lăng Bác, bước vào và ra về. Đó là tâm trạng của mọi người khi đến nơi này.
Phân tích khổ 3, 4 của bài thơ 'Viếng lăng Bác - mẫu 9'.
Trong khổ thứ ba, nhà thơ diễn đạt cảm xúc khi đi vào lăng và đứng trước di hài của Bác, tình cảm nhớ thương đã bao lâu nay bỗng trào dâng. Hình ảnh Bác nằm yên trong lăng được diễn tả một cách xúc động qua những dòng thơ ở khổ này:
“Bác nằm trong giấc ngủ yên bình
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao lòng cảm thấy nhói đau”
Dù đã biết thế nhưng lòng vẫn cảm thấy nhói đau khi nhận ra rằng Bác đã ra đi. Khổ thơ thứ hai và thứ ba mô tả về thiên nhiên vũ trụ như mặt trời, trời xanh, vầng trăng để ca ngợi tầm vóc lớn lao của Người và thể hiện lòng kính yêu của tác giả và toàn thể nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.
“Mai về miền Nam, lòng trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương khắp nơi
Muốn làm cây tre trung hiếu ở đây”
Tình yêu thương của tác giả đã khiến nhiều ước muốn nảy sinh: làm con chim hót, làm đóa hoa tỏa hương, làm cây tre canh giấc ngủ yên của Bác. Từ 'muốn làm' lặp lại ba lần trong câu thơ, thể hiện sự khát khao mãnh liệt của nhà thơ muốn gần gũi với Bác mãi mãi.
Với tình cảm chân thành, bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương trở thành một tình ca sâu lắng, ghi lại nhiều cảm xúc và ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Bài thơ không chỉ có ý nghĩa hiện tại mà còn để lại dấu ấn vĩnh cửu.
Phân tích khổ thơ 3 và 4 của bài 'Viếng lăng Bác - mẫu 10'.
'Viếng lăng Bác' là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ của Viễn Phương. Bài thơ được đăng trong tập 'Như mây mùa xuân' năm 1976, gây ấn tượng bởi sự chân thành và lòng biết ơn của nhà thơ cũng như của đồng bào miền Nam và cả nước dành cho Bác.
Trong khổ thơ thứ ba, khi đứng trước di hài của Bác, trái tim nhà thơ trào dâng cảm xúc nghẹn ngào không thể kìm nén, rung động trái tim của hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Viễn Phương tiếp tục sử dụng phép nói giảm, nói tránh 'giấc ngủ bình yên', như muốn giảm bớt sự đau đớn về sự ra đi của Bác. Nhà thơ tái hiện khung cảnh cảm động: Bác nằm trong lăng, gương mặt thân thương của Bác trở nên hồng hào, dịu hiền như vầng trăng dưới ánh đèn hồng mờ ảo.
Hình ảnh “trời xanh” và “ánh trăng” thể hiện sự trường tồn vĩnh cửu của thiên nhiên và ẩn dụ tình cảm của nhân dân với Bác. Cặp từ “vẫn biết – mà sao” diễn tả cảm xúc nghẹn ngào. Biết rằng Người sẽ luôn sống trong lòng dân tộc, nhưng sự ra đi của Bác vẫn khiến nhà thơ “nghe nhói ở trong tim”.
Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói” nhấn mạnh niềm đau tột cùng khi Bác không còn nữa. Khi nghĩ đến ngày mai phải trở về, xa Bác, nỗi xúc động của tác giả và những người con miền Nam bùng lên:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Những giọt nước mắt tiếc thương, nhung nhớ Bác không ngừng chảy. Lời thơ nức nở, nghẹn ngào. Niềm khát khao chân thành muốn ở gần Bác được thể hiện rõ ràng qua động từ “muốn làm”.
Viễn Phương muốn làm con chim để hát lên lăng Bác, làm cây tre như lính canh giữ giấc ngủ yên bình cho Người. Đó đều là ẩn dụ về những điều tốt đẹp của thiên nhiên, thể hiện ước nguyện xúc động của nhà thơ và dân tộc: Muốn ở gần, canh giữ giấc ngủ bình yên của Người.
Bài thơ vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Được viết theo thể tám chữ sáng tạo, kết hợp chất tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ, với hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều tưởng tượng.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là đóng góp quan trọng trong thi ca về Bác. Dù đã qua bao năm, bài thơ vẫn là tác phẩm đầy xúc cảm, gửi gắm giá trị vĩnh cửu mà nhà thơ và dân tộc dành cho Bác.
Phân tích khổ 3, 4 bài thơ Viếng lăng Bác - mẫu 11
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng diệu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Khi Bác qua đời, nhà thơ Tố Hữu đã viết bài thơ cảm động:
Suốt mấy hôm đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa!
Phân tích 2 khổ cuối bài viếng lăng Bác – Khi Bác ra đi, không chỉ dân tộc khóc, mà cả “Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”. Bài thơ xúc động và giàu cảm xúc, diễn tả đúng tâm trạng của dân tộc. Và bây giờ, khi Bác nằm trong Lăng, Viễn Phương thăm Bác vẫn đau đớn không thôi, dù Bác yên giấc trong đó, trái tim nhà thơ vẫn nhói đau.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng diệu hiền
Trái tim của một con người luôn đau đớn vì dân tộc, hết lòng vì dân, không nghĩ đến lợi ích cá nhân. Và bây giờ, Bác nằm trong lăng, yên bình, nhẹ nhàng, như giải thoát mọi gánh nặng cuộc đời. Cuộc chiến chống Mỹ thành công, Miền Nam Miền Bắc sum họp anh em như mong ước của Bác.
Có lẽ, vì vậy mà giấc ngủ của Bác thật bình yên, nhẹ nhàng. Tác giả sử dụng “vầng trăng sáng dịu hiền” để mô tả hình ảnh Bác ngủ nhẹ nhàng, đẹp tựa vầng trăng sáng dịu dàng, như ánh sáng ấm áp của trái tim Bác sưởi ấm cho toàn dân tộc Việt Nam.
Tố Hữu từng viết:
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người.
Có lẽ vì vậy mà bây giờ, khi đất nước đã giải phóng, Viễn Phương cảm nhận được sự bình yên trong giấc ngủ của Bác. Khi còn sống, Bác dành mọi thời gian, tình yêu, tâm trí cho đất nước. Và giờ đây, khi hòa bình đã trở lại, giấc ngủ của Bác yên bình, thanh thản.
Tuy nhiên, cảm xúc của Viễn Phương vẫn rất xúc động, thấy Bác trong lăng mà trái tim vẫn đau đớn:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Dù Bác đã ra đi, nhưng hình ảnh của Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước như trời xanh còn mãi mãi. Trong lời thơ của Viễn Phương, Bác đã hóa thành non sông, thành đất nước, thiên nhiên và dân tộc, Bác vẫn sống mãi trong lòng dân tộc vĩnh hằng như trời xanh không bao giờ mất đi. Nhưng dù đã biết là như vậy, trái tim của Viễn Phương vẫn thấy đau nhói, vẫn thương yêu Bác vô cùng.
“Ngày mai về miền Nam, lòng đầy nước mắt
Muốn hóa thành con chim, hót quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa, tỏa hương đâu đó
Muốn làm cây tre, trung hiếu chốn này”
Trong niềm xúc động và nhớ thương, tác giả viết: “Ngày mai về Miền Nam, lòng đầy nước mắt” để thể hiện sự lưu luyến khó dứt. Cho thấy tấm lòng của tác giả đối với Bác, một người đã dành cả cuộc đời cho dân tộc. Khổ thơ cuối cùng miêu tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ, muốn ở bên Bác mãi mãi nhưng biết rằng, đã đến lúc phải trở về Miền Nam. Vì vậy, tác giả gửi lòng mình vào thiên nhiên, ở bên Bác mãi mãi.
Tác giả mong muốn mình có thể trở thành con chim hót quanh lăng Bác hàng ngày, mang niềm vui cho Bác, như đóa hoa kia nở hương thơm ngát và như cây tre bên Bác mỗi ngày. Mỗi câu thơ tác giả viết là tâm tình yêu thương dành cho Bác, với động từ “muốn làm” thể hiện ước muốn và sự tự nguyện của tác giả. Hình ảnh cây tre kết thúc bài thơ thể hiện sự trung hiếu của tác giả dành cho Bác và dân tộc.
Suốt một đời, Bác hi sinh cho dân tộc, không nghĩ đến lợi ích cá nhân. Nếu không có Bác, dân tộc Việt Nam có lẽ không đạt được như ngày hôm nay, Miền Nam và Miền Bắc có lẽ không thể sum vầy. Tấm lòng của Viễn Phương trong bài thơ cũng là tấm lòng của cả dân tộc, mãi nhớ thương Bác, hình bóng Bác không bao giờ phai trong trái tim người Việt.