Tuệ Tĩnh 慧靜 | |
---|---|
Tên húy | Nguyễn Bá Tĩnh |
Tên chữ | Linh Đàm |
Tên hiệu | Tráng Tử Vô Dật; Hồng Nghĩa |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên húy | Nguyễn Bá Tĩnh |
Ngày sinh | 1330 |
Nơi sinh | Hải Dương |
Mất | |
Ngày mất | 1400 |
Nơi mất | Giang Nam |
Giới tính | nam |
Học vấn | |
Trường học | Chùa Giao Thủy - Hộ Xá - Viên Quang (tỉnh Nam Định) |
Nghề nghiệp | tì-kheo, bác sĩ, nhà văn |
Tôn giáo | Phật giáo |
Quốc tịch | Đại Việt |
Thời kỳ | nhà Trần |
Truy phong | |
Nơi thờ tự | |
Đền thờ Tuệ Tĩnh ở xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương;
Chùa Hải Triều (chùa Giám) ở xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương; Chùa Hộ Xá (chùa Viên Quang) ở xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. | |
[sửa trên Wikidata] |
Đông y |
---|
Các cơ sở học thuyết lý luận[hiện] |
Văn bản[hiện] |
Các danh y[hiện] |
Thực hành[hiện] |
Các phương pháp chẩn đoán[hiện] |
Các phương pháp bào chế[hiện] |
Các dạng thuốc[hiện] |
Các thành phần trong đơn thuốc[hiện] |
Các danh sách[hiện] |
Các khái niệm[hiện] |
Chủ đề Y học cổ truyền |
Thiền sư Tuệ Tĩnh (chữ Hán: 慧靜禪師, 1330 - 1400) là một lương y nổi tiếng vào cuối thời Trần, được phong tặng là vị thánh của thuốc Nam.
Thông tin về cuộc đời
Tên thật của Tuệ Tĩnh là Nguyễn Bá Tĩnh (阮伯靜), tự Linh Đàm (靈潭), hiệu Tráng Tử Vô Dật (壯子無逸) và Hồng Nghĩa (紅義). Ông sinh ra ở hương Xưa, tổng Văn Thai, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay thuộc thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương).
Mồ côi từ nhỏ, Nguyễn Bá Tĩnh được các nhà sư nuôi dưỡng và cho học tập tại chùa Hải Triều và chùa Giao Thủy (Nam Định) từ khi mới 6 tuổi.
Khi 22 tuổi, ông đạt danh hiệu Thái học sinh dưới triều vua Trần Dụ Tông. Thay vì ra làm quan, ông quyết định ở lại chùa, lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh và dành thời gian học và thực hành y dược, chữa bệnh cứu người.
Sau khi du ngoạn khắp nơi để nghiên cứu y học, ông trở về trụ trì chùa Hộ Xá (năm Đinh Hợi – Chính Long Bảo Ứng thứ năm (1167), vua Lý Anh Tông ra chiếu sửa chữa và đổi tên chùa Diên Phúc thành Viên Quang tự. Chùa Hộ Xá trước thuộc làng Giao Thủy, giờ là Nghĩa Xá, xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định).
Ông không chỉ viết sách và in ấn, mà còn tu sửa chùa Hộ Xá cùng nhiều chùa khác ở Sơn Nam và quê hương, giảng dạy y học cho các tăng ni và mở rộng công việc chữa bệnh làm phúc.
Năm 55 tuổi (1385), với kiến thức uyên bác về y thuật, Tuệ Tĩnh bị đưa sang triều đình nhà Minh. Tại Trung Quốc, ông tiếp tục chữa bệnh và được phong tặng danh hiệu Đại y Thiền sư. Ông qua đời tại Giang Nam, Trung Quốc.
Tuệ Tĩnh luôn day dứt vì không được trở về quê hương. Ông đã rơi nước mắt trong lễ nhậm chức tại triều Minh và trên bia mộ của ông vẫn còn dòng chữ 'Ai về nước Nam cho tôi về với'.
Năm 1690, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho trong chuyến đi sứ đến Trung Hoa đã tình cờ phát hiện mộ của Tuệ Tĩnh và nhận ra ông là người cùng quê. Xúc động trước lời nhắn gửi chân thành của vị danh y, ông đã sao chép và tạc bia mộ đá, mang về quê Hải Dương.
Các công trình y học
Trong những năm sống ở quê hương, Tuệ Tĩnh tập trung vào nghề thuốc: trồng cây thuốc, thu thập kinh nghiệm chữa bệnh từ dân gian, và dạy y học cho các tăng ni. Ông đã biên soạn bộ sách quý Nam dược thần hiệu, chia thành 10 khoa, được khắc in vào năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717) và lưu giữ tại chùa Hộ Xá – Giao Thủy (hiện nay là chùa Viên Quang, xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định).
Ông còn soạn bộ Hồng Nghĩa giác tư y thư (2 quyển) bằng quốc âm, bao gồm 500 vị thuốc nam viết bằng thơ Nôm Đường luật, và bài 'Phú thuốc Nam' với 630 vị cũng bằng chữ Nôm. Nếu đúng là tác phẩm của Tuệ Tĩnh, đây là các tác phẩm quý giá không chỉ về y học mà còn trong lịch sử văn học, vì chúng là những tác phẩm sớm nhất của văn học chữ Nôm.
Giới y học và nhân dân Việt Nam đều công nhận công lao vĩ đại của Tuệ Tĩnh trong việc xây dựng một quan điểm y học độc lập, phù hợp với thực tế Việt Nam. Câu nói của ông: 'Nam dược trị Nam nhân' thể hiện quan điểm về mối liên hệ chặt chẽ giữa con người và môi trường sống. Quan điểm này đã giúp ông đạt vị trí cao nhất trong y học cổ truyền Việt Nam: Ông Thánh thuốc Nam! Trong các tác phẩm của mình, ông không tuân theo các sách vở cũ mà đặt cây cỏ lên hàng đầu. Ông cũng chỉ trích những người chỉ tin vào phù chú mà không tin vào thuốc, đồng thời đưa ra nhiều phương pháp chữa bệnh như châm, chích, chườm, bóp, xoa, ăn, uống, hơ, xông, và nhiều phương pháp khác.
Tuệ Tĩnh không chỉ dừng lại ở vai trò một thầy thuốc chữa bệnh, mà ông còn chủ động phổ biến các phương pháp vệ sinh, thiết lập các cơ sở chữa bệnh ngay trong chùa và cộng đồng. Theo tài liệu, trong suốt 30 năm hoạt động ở nông thôn, ông đã xây dựng 24 ngôi chùa, biến chúng thành các cơ sở y tế. Ông đã tổng hợp nhiều phương pháp điều trị: 182 loại bệnh được chữa bằng 3.873 phương thuốc. Tuệ Tĩnh luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phòng bệnh và nguyên nhân gây bệnh, đồng thời khuyến khích rèn luyện thân thể và sinh hoạt điều độ. Ông đã tổng hợp phương pháp dưỡng sinh trong 14 chữ:
- Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần
- Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình
Tuệ Tĩnh cũng biên soạn các bài thuốc chữa bệnh cho gia súc, đóng góp quan trọng vào việc hình thành ngành thú y dân tộc Việt Nam.
Vinh danh
Tại Hải Dương, đền thờ Tuệ Tĩnh nằm ở xã Cẩm Văn và Cẩm Vũ; chùa Hải Triều, làng Yên Trung hiện nay là chùa Giám, xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng.
Câu đối thờ Tuệ Tĩnh tại đền Bia có nội dung và ý nghĩa như sau:
- Phương pháp mở rộng, công lao cao vời như Thái lĩnh
- Sống nhờ phúc đức của Phật, ơn cứu người rộng lớn như sông Cẩm
Tại Nam Định, chùa Viên Quang (trước đây là chùa Giao Thủy, Hộ Xá) ở làng Nghĩa Xá, xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, thờ Tuệ Tĩnh với đại tự và câu đối như sau:
THẦN Y DIỆU DƯỢC
Hoàn thành sứ mệnh, danh vang khắp phương Bắc
Danh tiến sĩ lừng lẫy, thánh y vĩ đại làm rạng danh miền Nam.
Tại Hải Phòng, đền Yên Lư thuộc huyện Thủy Nguyên thờ Tuệ Tĩnh cùng với Trần Hưng Đạo.
Tại khu B của Trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương, Khoa Dược Bệnh viện 103 Hà Nội, và sân của Học viện Y – Dược học cổ truyền Việt Nam đều có tượng của Tuệ Tĩnh.
Tên của ông được đặt cho một bệnh viện thuộc Học viện Y – Dược học cổ truyền Việt Nam.
Tên đường Tuệ Tĩnh được đặt cho nhiều con phố ở quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; và thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
Câu danh ngôn
- Thuốc Nam chữa người Nam
- Người về nước Nam xin đưa tôi về với