Phú Quý
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Phú Quý | |||
Khung cảnh đảo Phú Quý nhìn từ chân tượng Quan Âm ở chùa Linh Sơn | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Duyên hải Nam Trung Bộ (Biển Đông) | ||
Tỉnh | Bình Thuận | ||
Huyện lỵ | xã Ngũ Phụng | ||
Trụ sở UBND | Số 237, đường Hùng Vương, thôn Quý Thạnh, xã Ngũ Phụng | ||
Phân chia hành chính | 3 xã | ||
Thành lập | 1977 | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Lê Quang Vinh | ||
Chủ tịch HĐND | Lê Hồng Lợi | ||
Bí thư Huyện ủy | Lê Quang Vinh | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: | |||
| |||
Diện tích | 17,4 km² | ||
Dân số (2023) | |||
Tổng cộng | 28.258 người (Tam Thanh: 10.029, Ngũ Phụng: 7.881, Long Hải: 10.348) | ||
Mật độ | 1.624 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh, Chơ Ro, Cơ Ho, Hoa | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 602 | ||
Biển số xe | 86-B9 xxx.xx | ||
Số điện thoại | 0252.3.768.191 | ||
Số fax | 0252.3.769.217 | ||
Website | phuquy | ||
Phú Quý là một huyện đảo thuộc tỉnh Bình Thuận, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam và là một quần đảo gồm 12 đảo lớn nhỏ, là hệ thống đảo ở cực Nam Trung Bộ.
Địa lý
Đảo Phú Quý nằm từ kinh độ 108°55' đến 108°58' Đông và từ vĩ độ 10°29' đến 10°33' Bắc, cách các vùng lân cận như sau:
- Cách thành phố Phan Thiết 56 hải lý (khoảng 104 km) về phía đông nam.
- Cách quần đảo Trường Sa 540 km về hướng Tây Nam.
- Cách thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa 150 km về phía nam.
- Cách Côn Đảo 330 km về phía đông bắc.
- Cách thành phố Vũng Tàu 200 km về phía đông.
Khí hậu và Thủy văn
Chế độ khí hậu gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa gió Nam, từ tháng 5 đến tháng 8 và mùa gió Bắc từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng từ 1.000 đến 1.100mm. Nhiệt độ không khí trung bình từ 22°C đến 28°C. Độ ẩm không khí từ 72% đến 88%. Khí hậu tương đối ôn hòa, mát mẻ quanh năm. Tốc độ gió trung bình ở Phú Quý là 6 m/giây (cấp 4). Vùng đảo ít bị ảnh hưởng bởi bão, tần suất khoảng 0,66 lần/năm, nhưng thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các đợt áp thấp nhiệt đới gây mưa lớn, gió mạnh, biển động mạnh. Trên đảo chỉ có những dòng chảy tạm thời vào mùa mưa. Thủy triều ở vùng này thuộc loại thủy triều hỗn hợp, với chiều cao trung bình là 1,6 m, cao nhất là 2,2 m, thấp nhất là 0,3 m. Độ mặn của nước biển dao động từ 34 đến 34,2‰.
Địa hình và Địa chất
Địa hình trên đảo khá bằng phẳng, thuộc dạng gò đồi, độ phân cắt yếu, nhưng vẫn thể hiện tính phân bố cao thấp khá rõ rệt. Ngoài 3 ngọn đồi cao lần lượt là 108m, 86m và 46m, ở trung tâm đảo có nhiều dãy đồi cao khoảng 20 - 30m, 15 - 20m, còn ven đảo thường có độ cao từ 5m đến 7 - 8m, thấp nhất khoảng 2m. Thềm biển phổ biến có độ cao từ 4m đến 2m, cũng có nhiều bãi cát, đồi cát, tạo thành các bãi tắm đẹp. Nhiều suối, mũi đá nhô ra biển tạo nên bờ biển đảo đa dạng về hình thái.
Trên đảo và trong vùng lân cận, vẫn còn những dấu vết của 4 miệng núi lửa dưới nước và 2 ngọn núi lửa trên đảo là núi Cấm và núi Ông Đụn. Núi Cao Cát, là phần còn lại của hệ núi lửa, được bảo tồn tốt, với dạng vách đứng phía Đông tạo nên một hình ảnh hùng vĩ. Trên đỉnh núi có những khối đá trầm tích và phun trào của núi lửa, với những hình thù kỳ diệu mà ít nơi có được.
- Đảo Phú Quý được hình thành chủ yếu bởi khối đá basalt olivin và tuf basalt có tuổi N2-Q1 (từ 2,5 đến 5,5 triệu năm trước), được phủ bởi các trầm tích cát biển Q1. Tiếp theo là sự xen kẽ giữa các đợt phun trào basalt và trầm tích biển: basalt olivin, basalt pyroxen và tuf tuổi Q1 cùng các trầm tích biển (cát thạch anh chứa carbonat) tuổi Q1, sau đó là đợt phun nổ vào đầu thế Holocen (Q2) và các trầm tích biển và do gió thế Holocen sớm-giữa (Q2) tạo nên thềm cao 15m; trẻ nhất là các trầm tích biển và gió thế Holocen muộn (Q2).
Hành chính
Huyện đảo Phú Quý bao gồm 3 đơn vị hành chính cấp xã: Ngũ Phụng (trung tâm hành chính), Tam Thanh và Long Hải.
Hiện nay, trung tâm hành chính Ngũ Phụng của huyện Phú Quý đã đạt chuẩn đô thị loại V.
Lịch sử
Đã từ lâu, đảo Phú Quý đã trở nên quen thuộc với nhiều người qua các sử sách xưa dưới nhiều tên gọi khác nhau như Cổ Long, Thuận Tịnh, Cù Lao Khoai Xứ, Cù Lao Thu... Các thủy thủ phương Tây thường gọi đảo Phú Quý là Poulo-Cécir-de-Mer.
Từ năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), với tiềm năng kinh tế dồi dào và lượng đặc sản đáng kể cung cấp cho Triều đình Huế, đảo được đổi tên từ Tổng Hạ sang Tổng Phú Quý, thuộc huyện Tuy Phong, phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận.
Mặc dù là một hòn đảo cách ly giữa biển cả nhưng các dấu vết khai phá cho thấy đời sống đã tồn tại từ rất sớm trên đảo. Trong quá trình khai thác đá bazan, người dân phát hiện ra các mộ cổ lớn. Trong những mộ này có chứa các dụng cụ lao động như rìu, búa và cả những chiếc vòng tay làm từ đá với kỹ thuật chế tác rất tinh xảo. Điều này phù hợp với câu chuyện được truyền miệng rằng trước khi những người từ lục địa đến khai phá thiên nhiên, đã có một loài người Thượng sinh sống bằng nghề hái lượm và đánh bắt cá ven biển tại đây. Qua nhiều biến cố lịch sử, Phú Quý trở thành nơi hội tụ của nhiều dòng dân cư từ lục địa, với sự đa dạng về dân tộc. Trong đó, người Kinh đóng vai trò chủ thể.
Khi kỹ thuật đóng thuyền buồm phát triển, với những chiếc thuyền có thể ra khơi xa, cũng là lúc nhiều người từ lục địa đến định cư trên đảo. Cùng với những mộ cổ còn tồn tại trên đảo, sự thật về công chúa Bàn Tranh chứng tỏ người Chăm đã từng đến với đảo này. Sử ký kể rằng: Bàn Tranh là một công chúa xinh đẹp, vì chống lại lệnh của vua cha nên bị kết án và bị đày ra đảo.
Bên cạnh đó, vì không thích ứng được với chế độ nông nô nghiêm khắc và không hài lòng với triều đình phong kiến, nhiều người đã tìm đường đến đây lập nghiệp. Người Kinh đã có mặt trên đảo từ lâu. Trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn (1627-1672), nhiều ngư dân từ các tỉnh ven biển miền Trung, hoặc chạy trốn khỏi chiến tranh, hoặc đi tìm nguồn cá, thuyền của họ đã vượt sóng biển khắc nghiệt và đến với đảo Phú Quý.
Cùng với người Kinh, một số người Hoa cũng đã hòa nhập vào cộng đồng sinh sống tại Phú Quý. Vào thế kỷ 17, sau khi thất bại trong cuộc chống lại nhà Thanh, một số quan nhà Minh đã phải trốn ra nước ngoài. Một số thuyền vượt biển hướng về phía Nam, trong đó có hàng chục thuyền quyết định dừng chân và lập nghiệp tại Phú Quý. Người Hoa đến đây sống chủ yếu bằng nghề dệt lụa và kinh doanh. Sau này, những người thành đạt đã chuyển sang sinh sống ở các thành phố lớn trên đất liền, chỉ một số ít tiếp tục ở lại đảo.
Khi dân số đảo ngày càng tăng, các hình thức tổ chức xã hội cũng dần được hình thành. Thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), chính quyền Đàng Trong đã tổ chức đảo thành từng hộ bạch bố, từ đội bạch bố đến từng ấp và làng. Mặc dù số dân lúc đó chưa đông đúc, Phú Quý đã có đến 14 làng và 1 ấp. Mỗi làng được lập trên cơ sở một nhóm nhỏ ngư dân, đôi khi chỉ có từ 10 đến 12 hộ, thường mang tên gọi cũ của địa phương trước khi đến đây lập nghiệp như Thoại Hải, Thế Hanh, Thế An, Hội Thiên, Hội Hưng, Hương Lăng, Mỹ Xuyên, Phú Ninh, An Hòa, Hải Châu, Thương Hải, Triều Dương, Hội An, Mỹ Khê và ấp Quý Thạnh. Từ niên hiệu Đồng Khánh - Đồng Khánh năm thứ 1 (1886), toàn đảo được tổ chức thành 11 làng và đến năm 1930 do sáp nhập ba làng Phú Ninh vào Phú Mỹ và Hương Lăng vào Quý Thạnh, nên chỉ còn lại 9 làng: Long Hải, Phú Mỹ, An Hòa, Hải Châu, Thương Hải, Quý Thạnh, Triều Dương, Mỹ Khê và Hội An. Hiện nay, đảo được chia thành 3 xã: Long Hải, Ngũ Phụng, Tam Thanh.
Phú Quý trong một thời gian dài đã sống trong điều kiện tự cung tự cấp với hoạt động kinh tế chủ yếu là trồng trọt, đánh bắt hải sản và các ngành thủ công như dệt vải, đan võng, ép dầu... Trong đó, ngư nghiệp đóng vai trò quan trọng.
Ngày 27 tháng 4 năm 1977, huyện đảo Phú Quý chính thức được thành lập theo Quyết định số 329-CP của Hội đồng Chính phủ, trên cơ sở đảo Phú Quý, khi đó thuộc tỉnh Thuận Hải, bao gồm 3 xã: Long Hải, Ngũ Phụng và Tam Thanh.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Thuận Hải đã chia thành hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận, huyện đảo Phú Quý trực thuộc tỉnh Bình Thuận như hiện nay.
Giáo dục
Các cơ sở giáo dục mầm non: Trước năm 2019: Mẫu giáo Tam Thanh, Mầm non Ban Mai (xã Tam Thanh); Mẫu giáo Ngũ Phụng, Mầm non Hoa Biển (xã Ngũ Phụng); Mẫu giáo Long Hải, Mầm non Hải Âu (xã Long Hải). Từ ngày 01/01/2019: Đã sáp nhập lại thành 3 trường: Mầm non Tam Thanh, Mầm non Long Hải và Mầm non Ngũ Phụng.
Các cơ sở giáo dục tiểu học: Trước năm 2019: Phú An, Quý Thạnh (xã Ngũ Phụng); Quý Hải, Đông Hải (xã Long Hải); Mỹ Khê, Triều Dương (xã Tam Thanh). Từ ngày 01/01/2019: Đã sáp nhập lại thành 3 trường: Tiểu học Ngũ Phụng, Tiểu học Long Hải và Tiểu học Tam Thanh.
Các cơ sở giáo dục trung học cơ sở: Tam Thanh, Ngũ Phụng, Long Hải.
Một trường trung học phổ thông: Trường THPT Ngô Quyền.
Các đảo lân cận
Hòn Tranh: Cách cảng Phú Quý 600 m về phía đông nam. Hòn Tranh có chiều rộng lớn nhất là 650 m về phía bắc, đoạn hẹp nhất 290 m, chiều dài 1.176 m, diện tích 55 ha. Ngày trước là hoang đảo chủ yếu mọc cỏ tranh, người dân đã phá trồng hoa màu; hiện nay được trồng rừng phục hồi môi trường. Không có dân cư sinh sống, hiện nay là địa điểm đặt trạm ra đảo quan sát biển của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Hòn Trứng: Diện tích rộng 3.600 m², nằm phía tây bắc của đảo, là cửa ngõ ra vào, là nơi neo đậu nhiều loại ghe thuyền. Trong mùa gió Nam, có thể neo đậu ở phía bắc; mùa gió Bắc, có thể neo đậu ở phía nam.
Hòn Trứng nhỏ: Diện tích rộng 2.000 m², cách Hòn Tranh 100 m về phía đông nam.
Hòn Đen, Hòn Nghiên hay Hòn Mực, đều là các hòn đảo toàn đá màu đen. Nằm về phía đông bắc của đảo Phú Quý, cách bờ biển 100 mét, diện tích 23.000 m². Khi nước ròng thấp, có thể bội bước tới Hòn Đen.
Hòn Giữa: một dãy đá sừng sỏ nằm kế bên Hòn Đen, tạo thành một chiếc cầu nối giữa Hòn Đen và Hòn Đỏ thuộc xã Long Hải. Diện tích 2.900 m².
Hòn Đỏ, Hòn Bút, Hòn Son hay Hòn Bút Nghiên: Nằm về phía đông bắc của đảo Phú Quý, cách bờ biển khoảng 200 - 300 mét. Tên gọi Hòn Đỏ bắt nguồn từ màu sắc của những tảng đá ở đây. Diện tích hơn 28.000 m².
Hòn Hải hay Hòn Khám, Hòn Hài: nằm cách đảo Phú Quý khoảng 65 km về phía nam, là điểm A6 trên bản đồ lãnh hải Việt Nam. Hình dạng của Hòn Hải giống như một khối đá vuông, có chiều dài khoảng 130 m, bề ngang lớn nhất 60 m, điểm cao nhất 113 m tính từ mặt biển. Diện tích rộng 46.000 m², là một trong những điểm cơ sở trên đường lãnh hải của Việt Nam. Hòn Hải và hai hòn đảo nhỏ gần đó tạo thành cụm đảo The Catwicks trên các bản đồ hàng hải phương Tây. Hòn Hải còn được biết đến với các tên gọi Pulo Sapata, Poulo Sapate, hoặc Shoe Island. Hải đăng trên Hòn Hải được xây dựng vào năm 2004.
Hòn Đồ Lớn hay Hòn Bố: Nằm về phía đông nam và cách Phú Quý gần 60 km, hòn đảo này có thể hình thành từ năm 1923 do hoạt động núi lửa dưới biển Đông. Ban đầu hình dạng của nó là hình tròn với đường kính 40 m, có mặt cát trắng và xung quanh là những bậc đá thoải. Hiện nay, nó đã hình thành thành một bãi đá ngầm dài 700 m và rộng gần 500 m. Hòn Đồ Lớn còn được biết đến với các tên gọi Round Island hoặc Great Catwick trên các bản đồ hàng hải phương Tây.
Hòn Đồ Nhỏ hay Hòn Trào, nằm cách Hòn Bố 2 hải lý về phía đông, có diện tích chỉ 50 m². Hòn Đồ Nhỏ còn được gọi là Little Catwick hoặc Pyramid trong các bản đồ hàng hải phương Tây. Little Catwick cách Pulo Sapata (hòn Hải) 2 dặm về hướng tây bắc.
Hòn Đá Tý, Hòn Tý, Hòn Vung hay Hòn Tiền, nằm cách đảo Phú Quý 80-100 m.
Di tích lịch sử quan trọng
- Chùa Linh Quang là một di tích lịch sử quan trọng cấp quốc gia, nằm trên một ngọn đồi cao tại thôn Mỹ Khê xã Tam Thanh. Chùa được xây dựng từ thời Cảnh Hưng thứ 8 và đã có hơn 250 năm tuổi. Chùa lưu giữ các sắc phong của triều Nguyễn.
Di tích Quốc gia:
- Di tích lịch sử Thắng cảnh - Chùa Linh Quang (Tam Thanh)
Di tích lịch sử văn hóa – Vạn An Thạnh (Tam Thanh)
Di tích lịch sử – Đền thờ Công chúa Bàn Tranh (Long Hải)
Di tích Tỉnh:
- Di tích lịch sử văn hóa - Đình làng Triều Dương (Tam Thanh)
Di tích lịch sử văn hóa – Đình và Vạn Hội An (Tam Thanh)
Di tích lịch sử văn hóa – Vạn Mỹ Khê (Tam Thanh)
Di tích lịch sử văn hóa – Đền thờ Thầy Sài Nại (Ngũ Phụng)
Di tích lịch sử văn hóa – Đền thờ Bà Chúa Ngọc- Vạn Thương Hải (Ngũ Phụng)
Di tích lịch sử văn hóa – Đình làng Long Hải (còn gọi là Nhà Vuông)
Di tích lịch sử văn hóa – Đền thờ Bà Chúa Ngọc-Miếu Cây Da (Long Hải)
Di tích kiến trúc nghệ thuật – Đền thờ Bạch Mã Thái Giám làng Phú Mỹ (Ngũ Phụng)
Ẩm thực - đặc sản
- Hải sản phổ biến và được ưa chuộng nhất là hải sâm, thường được sử dụng trong các bữa tiệc và là mặt hàng xuất khẩu quan trọng.
Giao thông nối liền Phú Quý và đất liền chủ yếu qua đường thủy nội địa. Hiện nay có tàu trung tốc Hưng Phát, cao tốc SuperDong và Express Phú Quý. Thời gian di chuyển giảm từ 6 giờ xuống còn 2 giờ 30 phút. Giao thông đường bộ trên đảo rất thuận tiện, có dịch vụ cho thuê xe máy để di chuyển.
Giao thông đảo Phú Quý chủ yếu dựa vào đường thủy nội địa, hiện có các tàu trung tốc như Hưng Phát, cao tốc SuperDong và Express Phú Quý, giảm thời gian di chuyển từ 6 giờ xuống còn 2 giờ 30 phút. Giao thông đường bộ trên đảo thuận lợi, có dịch vụ cho thuê xe máy.
Điện gió Phú Quý được lắp đặt tại khu vực đất xã Long Hải và Ngũ Phụng phía bắc đảo. Dự án có công suất lắp máy 6 MW với 3 tua bin, cung cấp hàng năm khoảng 25,4 triệu kWh điện, hoạt động liên kết với nhà máy điện diesel 3 MW. Dự án được khởi công ngày 26/11/2010 và hoàn thành vào tháng 8/2012.
Điện gió Phú Quý được đặt tại khu vực đất xã Long Hải và Ngũ Phụng phía bắc đảo. Điện gió này có công suất lắp máy 6 MW với 3 tuabin, cung cấp khoảng 25,4 triệu kWh hàng năm, hoạt động kết hợp với nhà máy điện diesel 3 MW. Dự án được khởi công vào ngày 26/11/2010 và khánh thành vào tháng 8/2012.