Hàn Mạc Tử, một nhà thơ tài năng, có một phong cách thơ bí ẩn, phức tạp nhất trong văn học Việt Nam. Thơ của ông không chỉ trong sáng, tinh khiết mà còn mang một sự huyền bí, bí ẩn, là những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn trong thơ của Hàn Mạc Tử. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác vào năm 1938, ban đầu mang tựa đề “Ở đây thôn Vĩ Dạ”, sau đó được đổi tên. Tác phẩm này được xuất bản trong tập “Thơ điên” (sau đổi thành “Đau thương”). “Đây thôn Vĩ Dạ” lấy cảm hứng từ một câu chuyện tình đơn phương của nhà thơ với một cô gái xứ Huế, là Kim Cúc. Cô là con gái của một quan viên cao cấp, mang vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng của miền quê. Hàn Mạc Tử yêu cô gái ấy trong im lặng, chỉ dám nhìn từ xa. Tình cảm ấy đã được nhà thơ gửi gắm vào tập “Gái quê”. Sau này, khi Hoàng Cúc, em gái của cô, về quê ở thôn Vĩ Dạ ở Huế, ông đã cảm thấy đau buồn, đau đớn hơn, và cuối cùng ông mắc phải căn bệnh phong, khiến cho nỗi đau ấy trở nên khốc liệt hơn. Bạn của Hàn Mạc Tử, Hoàng Tùng Ngâm (anh họ của Hoàng Cúc), khi biết được tâm trạng của ông đã viết một lá thư gửi về Huế, khuyến khích cô ấy viết thư, động viên tinh thần cho một tâm hồn bất hạnh. “Thay vì viết thư, tôi đã gửi một bức ảnh với cảnh quan bằng một tờ danh thiếp. Trong bức ảnh có mây, có nước, có một cô gái đang chèo thuyền qua, có một số bụi tre, và ánh sáng trắng hoặc ánh sáng mặt trời chiếu xuống nước. Tôi đã viết một số lời trên tờ ảnh đó, sau đó nhờ Ngâm gửi đi. Sau một thời gian, tôi nhận được bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” và một bài thơ khác mà Ngâm gửi về.” Chính tấm ảnh đã kích thích cảm xúc và tình yêu thầm lặng của Hàn Mạc Tử đã tạo ra một tác phẩm thơ phong phú, giàu cảm xúc và đầy nỗi buồn trong tâm hồn của một nhà thơ.
Bài thơ này có ba phần, mỗi phần được mô tả như một bức tranh, và nhà thơ Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc đó là một bài thơ tứ tuyệt.
Mở đầu là câu: “Tại sao anh không trở về thôn Vĩ”. Đây có thể là Hàn Mạc Tử nhớ lại lời mời của Hoàng Cúc ghi trong bức ảnh hoặc bức ảnh gợi nhớ về những kỷ niệm về thôn Vĩ. Bốn câu thơ (khổ đầu) có tính chất tạo hình như một bức tranh có ba chiều: chiều rộng, chiều cao, lẫn chiều sâu. Đó là nỗi nhớ giúp tác giả hình dung ra trước mắt mình một cảnh tượng sống động.
Bức tranh về thôn Vĩ được vẽ nên bằng những nét đẹp tinh tế. Ánh nắng ban mai chiếu xuống những hàng cây cau, “nắng mới lên” mang lại cảm giác trong lành, yên bình; những hàng cây cau đứng thẳng tắp, hình ảnh rất quen thuộc, là nét đặc trưng của thôn Vĩ:
“Vườn cây ai mà mướt quá xanh như ngọc’’
Những vườn cây trái sum sê, tươi tốt của thôn Vĩ {mướt quá), một màu xanh mà nhà thơ so sánh: “xanh như ngọc”. Trong hồi tưởng của nhà thơ giữa cảnh vật và con người hòa quyện với nhau mang đến cảm xúc trìu mến, dịu ngọt. Thấp thoáng đằng sau những khóm trúc có hình bóng mặt người dịu dàng, phúc hậu khi ẩn khi hiện:
“Lá trúc che ánh mặt nước đầy ruộng”.
Bốn câu tiếp theo trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đưa ta về kỷ niệm về Huế, nơi mà con sông Hương thơ mộng, êm đềm, luôn gắn bó. Con sông với gió, với mây, với dòng nước, với những chiếc thuyền và ánh trăng. Sông Hương như một biểu tượng của sự hiền lành, nước chảy êm đềm giữa hai bờ sương khói, nhưng mang theo một nỗi buồn thầm kín.
“Gió đi theo lối gió, mây theo dòng mây
Dòng nước trôi êm đềm, hoa bắp rung nhẹ
Thuyền nào đậu bên bờ sông dưới ánh trăng kia
Có chở trăng trở về kịp cho đêm nay không?...
Nhịp điệu của bài thơ nhẹ nhàng chậm rãi, cảnh vật từ khổ thơ trước tươi sáng, nhưng từ khổ thơ này trở đi trở nên buồn bã: gió và mây không cùng hướng, mà gió đi một lối, mây đi một đường, gợi lên nỗi buồn về sự xa cách. Dòng nước trôi êm đềm, hình ảnh “buồn thiu” hiện rõ, hai bên bờ sông Hương chảy qua thôn Vĩ với những vườn bắp, hoa bắp nhẹ nhàng lay động dưới cơn gió, một khung cảnh lặng lẽ và gợi lên nỗi buồn. Đây là hình ảnh thấm đượm tâm hồn xao xuyến của nhà thơ.
Hình ảnh của “sông trăng” là một ý tưởng mới lạ. Trăng soi sáng trên dòng Hương Giang thật mơ mộng, “sông trăng”, thuyền “chở trăng” làm cho cảnh trở nên huyền ảo lung linh. Có thể nói chưa có nhà thơ nào tả dòng Hương Giang với vẻ đẹp mơ hồ như Hàn Mạc Tử. Trong nỗi nhớ nhung mơ màng của nhà thơ, thuyền và trăng đã trở thành những vật thể có linh hồn.
Khổ thơ ba tiếp tục nhắc lại những kỷ niệm về Huế:
Mơ về du khách xa xứ, du khách xa xứ
Áo em trắng quá, nhìn không nhận ra
Ở đây sương khói mờ phủ bóng hình
Chắc ai hiểu tình ai thấm đậm đà?...
Trong những kỷ niệm về Huế, hình ảnh của người con gái Huế và cũng là thôn Vĩ - trở nên rõ nét hơn, trở thành điểm nhấn của bài thơ. Cô gái Huế của Hàn Mạc Tử có vẻ đẹp huyền bí, thực tế, cô và nhà thơ có khoảng cách về không gian, thời gian, hơn nữa giữa họ chưa có những hứa hẹn, gắn bó nên chỉ là “khách đường xa”. Hình ảnh của người con gái trở nên mờ nhạt. Câu thơ trở nên đa nghĩa, phủ lên kí ức một lớp sương mờ khi “Áo em trắng quá nhìn không ra”, nhưng trong lòng nhà thơ dù chỉ là ký ức của một thời, “em” vẫn là hình bóng thân thương.
Hình ảnh của người thân xa cách lạc lõng trong “sương khói” của Huế, bài thơ kết thúc với một câu hỏi:
“Ai hiểu được tình yêu có đậm đà?....”
Câu thơ thứ hai đong đầy tâm trạng. “Ai”, “ai” là anh hay là em, đúng hơn là cả hai, nhà thơ tự hỏi lòng mình và cũng hỏi “em” về mối tình đơn phương chưa thốt lời. Giữa họ, màn “sương khói” của không gian và thời gian che lấp, khó biết mối tình này có sâu đậm hay phai nhạt. Đây có thể hiểu là bài thơ hướng nội, ẩn chứa sâu xa tâm hồn thi sĩ là tình đời; ta cảm nhận thấu tình yêu dang dở giữa nhà thơ và người con gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình này qua thời gian vẫn chưa phai mờ. Vì vậy, khi chỉ còn lại tấm bưu thiếp và một vài lời hỏi thăm từ xứ Huế gửi đến, đã đủ để đánh thức trong lòng nhà thơ bao nỗi nhớ mong. Có người nói rằng mỗi khổ thơ có hai giọng nói. Hai câu trên thuộc về một người, hai câu dưới thuộc về một người khác. Thực ra việc phân biệt khó khăn. Ví dụ, câu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?’’. Đây có phải là lời trách móc hay lời mời mọc của “thi sĩ” hay của “bạn xưa” ? Nhưng có một điều có thể khẳng định, đó chính là lời hỏi thăm kia (trong bức thiếp) đã được Hàn Mạc Tử tiếp nhận một cách đầy ấm áp. Vì vậy, có thể nói đây là bức tranh tình cảm. Một mối tình đã in sâu vào lòng nhà thơ bao nỗi nhớ khôn nguôi.
Về mặt nghệ thuật, đây là bài thơ có những đặc điểm nghệ thuật độc đáo trong miêu tả, biểu cảm và thể hiện một tâm trạng sâu sắc.
Bài thơ có thể coi là những bức tranh đẹp. Bức tranh về vườn cây thôn Vĩ, bức tranh về dòng nước sông Hương hiền hòa, êm đềm, bức tranh tâm trạng với hình bóng của cô gái Huế. Về thời gian, khổ thơ một là buổi sáng, khổ thơ hai là cảnh ban đêm, còn khổ thơ ba thì không rõ ràng. Về không gian, khổ thơ một là vườn cây thôn Vĩ, khổ thơ hai là bến sông Hương, có hai bờ, có thuyền và trăng, nhưng khổ thơ ba thì hầu như không có không gian hoặc khó xác định. Tuy nhiên, ở đây có thể thấy rằng nhà thơ muốn nói thêm về mối tình không hoàn hảo với người thôn Vĩ. Đối tượng “khách đường xa' có thể là “em”. Đây không phải là một bức tranh mô tả cảnh vật nên nhà thơ không tuân theo trật tự cụ thể nào. Vì nó là “bức tranh tâm trạng”, việc sắp xếp đó là cảm xúc của tác giả, cách sắp xếp này làm tăng hiệu quả biểu hiện tâm trạng thơ mộng.
Trong bài thơ, tác giả sử dụng phương pháp lặp lại một số từ để biểu đạt: Nắng hàng cau, nắng mới lên.../Gió theo lối gió, mây đường mây.../ Mơ khách đường xa, khách đường xa.../ Chắc ai hiểu tình ai có đậm đà?. Đây là phương pháp lặp lại từ, cách diễn đạt chúng ta thường gặp trong thơ. Tuy nhiên, trong bài thơ này, Hàn Mạc Tử đã sử dụng phương pháp này một cách rất tinh tế và thẩm mỹ, vì những từ này gây ấn tượng mạnh mẽ. Đặc biệt là lặp từ “ai” khiến ta nhớ về những khoảnh khắc ấm áp trong những câu hò xứ Huế.
Cuộc đời của Hàn Mạc Tử là một bi kịch đau buồn nhưng nhà thơ đã sáng tạo ra những tác phẩm văn chương làm cho lòng người xao xuyến. Bài thơ này có một cấu trúc độc đáo, lấy cảnh vật để biểu đạt tâm trạng, trải lòng buồn bâng khuâng.