Vì bệnh này thường gặp ở trẻ nhỏ nên trong lĩnh vực y học, nó còn được gọi là viêm khớp tự phát ở trẻ em. Mặc dù vậy, một số trường hợp có thể mắc bệnh này ở tuổi 2 - 3.
Bệnh viêm khớp ở trẻ em có các dạng chính sau đây:
1. Dạng đa khớp
Thường xuất hiện ở trẻ từ 6 tuần đến dưới 16 tuổi. Các dấu hiệu lâm sàng phát triển một cách tà tứ, đôi khi có thể bắt đầu một cách đột ngột. Thông thường, các dấu hiệu không giống nhau, phụ thuộc vào cơ địa và tình trạng sức khỏe của từng người.
Tỷ lệ nữ mắc bệnh trong nhóm này cao gấp 3 lần so với nam giới
Nguyên nhân gây ra bệnh này vẫn chưa được xác định rõ. Bởi bệnh không chỉ do một nguyên nhân duy nhất, mà bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như di truyền, tác nhân nhiễm khuẩn, tác động từ môi trường, và một số biến đổi ở hệ miễn dịch,…
Các dấu hiệu lâm sàng thường biểu hiện như sau:
-
Viêm nhiều khớp: viêm từ 5 khớp trở lên, không đối xứng, có thể ảnh hưởng đến cả khớp lớn và nhỏ, tỷ lệ nữ có dấu hiệu này thường nhiều hơn nam giới.
-
Viêm màng hoạt dịch đối xứng: xuất phát bệnh thường muộn, từ 7 - 9 tuổi, vị trí tổn thương có đặc điểm đối xứng. Có thể gây ra biến chứng viêm màng bồ đào (một vấn đề về mắt), nhưng ít phổ biến.
-
Viêm túi hoạt dịch khô: thường gặp ở trẻ từ 7 tuổi trở lên và khó chữa trị.
2. Thể viêm cột sống kết hợp khớp
Dạng này còn được gọi là thể viêm đỉnh gân, có dấu hiệu tổn thương đặc trưng bởi viêm khớp và viêm đỉnh gân. Tỷ lệ nam mắc bệnh cao gấp 9 lần so với nữ. Bắt đầu bệnh thường là trên 6 tuổi và trong độ tuổi thiếu niên.
Đây cũng là một loại bệnh không rõ nguyên nhân. Chỉ có một số yếu tố nghi ngờ về các tác nhân nhiễm khuẩn như: Chlamydia, Salmonella, Shigella,… Ngoài ra, cơ địa và giới tính cũng có thể là một trong những điểm thuận lợi khiến trẻ dễ mắc bệnh, với các dấu hiệu như:
-
Viêm đỉnh gân: thường tổn thương ở bàn chân hoặc gối.
-
Viêm khớp: biểu hiện cứng khớp vào buổi sáng, có thể đau vào ban đêm. Đau thường ở khớp lớn của cánh tay dưới, hiếm khi ở cánh tay trên, có thể đau một hoặc nhiều khớp, đối xứng hoặc không đối xứng tùy thuộc vào tình trạng bệnh của từng người.
Trong giai đoạn nặng hơn của bệnh, tổn thương có thể xuất hiện ở vùng chậu và cột sống cổ.
-
Các biểu hiện kèm theo có thể bao gồm: sốt nhẹ, mất cân nặng, mệt mỏi, rối loạn tiêu hóa (nôn, buồn nôn, tiêu chảy,…).
Cần đưa trẻ đi kiểm tra và theo dõi đều đặn vì bệnh này có thể tái phát
3. Thể hệ thống
Tỷ lệ ca mắc bệnh trong nhóm này chỉ chiếm 5 - 15% trong tổng số trường hợp viêm khớp ở trẻ em (hoặc viêm khớp tự phát ở thiếu niên). Tuy nhiên, căn bệnh này có thể gây ra tới 1/3 số bệnh nhân trở nên tàn phế và không thể hồi phục do sự phát triển phức tạp của bệnh. Đặc biệt là trẻ em dưới 6 tuổi.
Yếu tố dẫn đến loại bệnh này không có liên quan đến di truyền và thời tiết, thậm chí cả vi khuẩn trong khi các triệu chứng ban đầu rất giống với các dấu hiệu của nhiễm trùng, như
-
Đau: thường xảy ra ở khớp cổ tay/chân, vùng gối, hiếm khi ở tay, mắt cá chân, cột sống và mặt.
-
Sốt: thường xuất hiện trong giai đoạn bắt đầu, nhưng cũng có thể xảy ra sau cơn viêm khớp. Sốt kéo dài hơn 2 tuần hoặc đến vài tháng. Cơn sốt thường xảy ra 1 - 2 lần/ngày, vào buổi tối, nhiệt độ tăng dần và giảm nhanh vào buổi sáng sớm.
-
Ban phát ban: các đốm ban thường hình tròn, màu hồng, lề nhạt, dễ phai và thường nổi lên khi trẻ sốt, kích thước từ 2 - 10mm, xuất hiện riêng lẻ. Ban thường xuất hiện ở vùng ngực, nách, mông hoặc toàn thân.
-
Viêm màng tim: tỷ lệ xảy ra khoảng 33%, có thể gây ra tràn dịch màng ngoài tim mà không có triệu chứng. Ngoài ra, viêm cơ tim cũng có thể xảy ra nhưng rất hiếm.
-
Tổn thương hệ thống võng nội mô: bao gồm bệnh lý hạch toàn thân (50 - 70%) với dấu hiệu chạm vào hạch mềm, di động, không đau; gan phình to, có kèm men gan tăng; tụy to (30 - 50%), có thể kèm theo cường tụy.
Các biểu hiện kèm theo sốt có thể là cảm giác rét, mất hứng thú với đồ ăn, mệt mỏi,…
4. Thể viêm khớp vảy nến
Đây là một bệnh lý kết hợp tổn thương ở da, móng tay và viêm khớp, có thể đi kèm với tổn thương ở cột sống. Viêm khớp thể vảy nến ở trẻ em chỉ xảy ra trong 8 - 20% trường hợp ở độ tuổi này, đặc biệt là từ 9 - 12 tuổi. Bệnh thường bắt đầu ở bé gái 4 - 5 tuổi và bé trai 10 tuổi.
Yếu tố gây bệnh có mối liên hệ với yếu tố di truyền trong gia đình nếu có người mắc bệnh, điều này rất quan trọng trong việc chẩn đoán bệnh, đặc biệt là khi các dấu hiệu về khớp xuất hiện trước.
Triệu chứng về khớp có thể xuất hiện trước hoặc cùng lúc với các biểu hiện ở da, với các dấu hiệu như sau:
Ở khớp
-
Viêm khớp: thường xuất hiện ở các khớp nhỏ của bàn tay hoặc khớp gối. Viêm khớp không đối xứng, việc viêm nhiều khớp đối xứng rất hiếm. Tình trạng này có thể dẫn đến di chứng tàn phế nếu khớp bị hủy hoại.
-
Sưng nề: một hoặc nhiều ngón tay hoặc chân có dáng như khúc dồi do vùng tổn thương lan rộng.
-
Biểu hiện ở cột sống: đau, hạn chế vận động, đặc biệt là ở vùng thắt lưng (thường gặp ở bé trai).
Ngoài da
-
Da: có mảng viêm đỏ, có lớp vảy màu trắng đục, dễ bong tróc. Kích thước nhỏ vài mm hoặc lan rộng thành mảng. Triệu chứng này thường xuất hiện ở chân, tay, đầu, vùng kẽ (nách, khớp tay/chân, rốn,…) hoặc vùng tì đè (mông, gót chân, vai, lưng,…).
-
Móng: có lớp móng dày, mất màu, có lỗ, hoặc thậm chí bong móng.
Hầu hết trẻ mắc bệnh thường gặp ở thể nhẹ, nhưng một số trường hợp có thể phát triển nặng, cần điều trị kéo dài