Alaba tập luyện cùng Bayern München năm 2019 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | David Olatukunbo Alaba | ||
Ngày sinh | 24 tháng 6, 1992 (32 tuổi) | ||
Nơi sinh | Viên, Áo | ||
Chiều cao | 1,80 m (5 ft 11 in) | ||
Vị trí |
Hậu vệ trái Trung vệ Tiền vệ phòng ngự | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Real Madrid | ||
Số áo | 4 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
2001–2002 | SV Aspern | ||
2002–2008 | Austria Wien | ||
2008–2009 | Bayern München | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2007–2008 | Austria Wien II | 5 | (0) |
2009–2010 | Bayern München II | 33 | (1) |
2010–2021 | Bayern München | 281 | (22) |
2011 | → 1899 Hoffenheim (mượn) | 17 | (2) |
2021– | Real Madrid | 23 | (1) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2007–2009 | U-17 Áo | 20 | (5) |
2010 | U-19 Áo | 5 | (1) |
2009–2010 | U-21 Áo | 5 | (0) |
2009– | Áo | 98 | (15) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 19 tháng 2 năm 2022 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 20 tháng 11 năm 2022 |
David Olatukunbo Alaba (sinh ngày 24 tháng 6 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Áo hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ La Liga Real Madrid và là đội trưởng của đội tuyển bóng đá quốc gia Áo. Anh có thể thi đấu ở nhiều vị trí khác nhau, nhưng vị trí sở trường của anh là hậu vệ trái và trung vệ. Anh hiện được xem là một trong những hậu vệ xuất sắc nhất thế giới hiện nay.
Anh bắt đầu sự nghiệp thi đấu cho đội trẻ của Bayern Munich, trước khi được đôn lên đội dự bị cho mùa giải 2009–10. Tháng 1 năm 2011, Alaba gia nhập TSG 1899 Hoffenheim dưới dạng cho mượn cho đến cuối mùa giải 2010–11. Anh trở lại Bayern vào đầu mùa giải 2011–12, nơi anh trở thành thành viên chính thức của đội một. Alaba đã có hơn 400 lần ra sân cho Bayern Munich, giành được 27 danh hiệu, trong đó có 10 chức vô địch Bundesliga và 2 chức vô địch UEFA Champions League vào năm 2013 và 2020, cả hai đều là một phần của những cú ăn ba danh hiệu của đội bóng. Trong suốt sự nghiệp của mình ở Bayern, anh đã ba lần lọt vào Đội hình tiêu biểu của UEFA. Năm 2021, Alaba ký hợp đồng với Real Madrid, nơi anh đã giành được chức vô địch La Liga, Supercopa và UEFA Champions League 2021–22 ngay trong mùa giải đầu tiên của mình.
Ở cấp độ đội tuyển, Alaba là cầu thủ trẻ thứ hai của Áo chơi cho đội tuyển quốc gia cấp cao của họ, ra mắt vào năm 2009 khi mới 17 tuổi. Anh đã có hơn 90 lần khoác áo và đại diện cho đất nước của mình tại UEFA Euro 2016 và UEFA Euro 2020. Anh đã được bầu chọn là cầu thủ bóng đá Áo của năm trong tám lần (bao gồm sáu lần liên tiếp từ năm 2011 đến năm 2016).
Sự nghiệp câu lạc bộ
Bắt đầu sự nghiệp
Alaba sinh ra tại Vienna và bắt đầu sự nghiệp của mình tại SV Aspern, một câu lạc bộ địa phương ở Aspern, trước khi chuyển đến đội trẻ của FK Austria Wien khi anh 10 tuổi. Tháng 4 năm 2008, anh xuất hiện trên ghế dự bị của đội hình một tại Giải vô địch bóng đá Áo. Anh đã thi đấu trong năm trận cho đội dự bị của Austria Wien trước khi chuyển sang Bayern München vào mùa hè năm 2008.
Bayern München
Anh bắt đầu thi đấu cho các đội U-17 và U-19 của Bayern München trước khi lên chơi cho đội dự bị của câu lạc bộ trong mùa giải 2009–10. Anh ra sân lần đầu tiên tại 3. Liga vào tháng 8 năm 2009 và ghi bàn đầu tiên trong sự nghiệp chuyên nghiệp cho FC Bayern München II vào ngày 29 tháng 8 năm 2009. Trong mùa giải 2009-10, Alaba có tên trong danh sách câu lạc bộ Bayern München tham gia UEFA Champions League. Vào tháng 1 năm 2010, anh được phép tập luyện cùng đội hình một của Bayern trong giai đoạn còn lại của mùa giải 2009–10 cùng với Diego Contento và Mehmet Ekici.
Ngày 10 tháng 2 năm 2010, anh ra sân ở phút thứ 59 thay cho Christian Lell trong trận đấu với SpVgg Greuther Fürth tại Cúp quốc gia Đức (DFB-Pokal), trở thành cầu thủ trẻ nhất của Bayern ra sân tại một giải đấu khi mới 17 tuổi và 232 ngày. Trong trận này, anh đã kiến tạo để Franck Ribéry ghi bàn, giúp Bayern thắng chung cuộc 6–2. Chỉ sau 1 tháng, khi mới 17 tuổi, 8 tháng và 13 ngày, anh đã ra sân lần đầu tiên tại UEFA Champions League với ACF Fiorentina.
Tháng 1 năm 2011, Alaba chuyển đến TSG 1899 Hoffenheim theo hợp đồng cho mượn đến hết mùa giải 2010-11. Tại đây anh ghi bàn đầu tiên tại Bundesliga trong trận hòa 2-2 với FC St. Pauli.
2012-15
Alaba trở về Bayern vào đầu mùa giải 2011–12 và bắt đầu có vị trí chính thức. Ngày 23 tháng 10 năm 2011, anh ghi bàn đầu tiên tại Bundesliga cho Bayern trong trận thua 1–2 trước Hannover 96. Anh có mặt trong trận bán kết UEFA Champions League với Real Madrid ngày 25 tháng 4 năm 2012 và là người sút thành công quả phạt đền đầu tiên trong loạt sút luân lưu, giúp Bayern giành chiến thắng chung cuộc.
Ngày 2 tháng 4 năm 2013, Alaba ghi bàn thắng nhanh thứ bảy trong lịch sử Champions League (25,02 giây) trong chiến thắng 2-0 trước Juventus. Ngày 25 tháng 5 năm 2013, anh thi đấu đủ 90 phút trong trận chung kết UEFA Champions League 2013 với Borussia Dortmund để trở thành cầu thủ Áo đầu tiên thi đấu trận chung kết của giải đấu này. Bayern giành thắng lợi 2–1. Ngày 2 tháng 12 năm 2013, Alaba ký hợp đồng mới với Bayern München có thời hạn đến năm 2018.
Trận đầu tiên của Bundesliga 2013-14, Alaba ghi bàn quyết định chiến thắng 3-1 cho Bayern trước Borussia Mönchengladbach. Alaba là người ghi bàn đầu tiên cho Bayern München tại UEFA Champions League 2013-14 với quả đá phạt thành bàn vào lưới CSKA Moskva. Vào ngày 19 tháng 2 năm 2014, trong trận đấu vòng loại trực tiếp với Arsenal, anh đã đá hỏng một quả phạt đền.
Tháng 1 năm 2015, Alaba được cổ động viên bầu chọn vào Đội hình tiêu biểu năm 2014 trên trang web UEFA.com ở vị trí hậu vệ trái. Đây là lần thứ hai liên tiếp anh nhận được giải thưởng này. Tại vòng 20 Bundesliga 2014-15, Alaba ghi bàn thắng từ quả đá phạt thành bàn, ấn định chiến thắng 2-0 cho Bayern trước VfB Stuttgart. Ngày 4 tháng 3 năm 2015, Alaba mở tỉ số cho Bayern trong chiến thắng 2-0 trước Eintracht Braunschweig tại Cúp quốc gia Đức 2014-15. Đó là bàn thắng thứ ba của anh trong ba trận liên tiếp tại giải này. Vào ngày 14 tháng 3, anh ghi bàn thắng từ quả đá phạt thành bàn thứ ba trong chín trận gần nhất cho Bayern, trong chiến thắng 4-0 trước Werder Bremen tại Bundesliga.
Ngày 22 tháng 8 năm 2015, một đường chuyền sai lầm của Alaba trong trận đấu với đội cũ Hoffenheim khiến Bayern phải chịu bàn thua chỉ sau 9 giây. Đây cũng là bàn thắng nhanh nhất trong lịch sử Bundesliga. Tuy nhiên, Bayern đã lội ngược dòng thành công để giành chiến thắng 2-1. Ngày 17 tháng 12 năm 2015, Alaba nhận danh hiệu Cầu thủ Áo xuất sắc nhất năm lần thứ năm liên tiếp.
2016 - 2021
Ngày 8 tháng 1 năm 2016, Alaba lần thứ ba liên tiếp được chọn vào Đội hình tiêu biểu của UEFA.com ở vị trí hậu vệ trái. Anh gia hạn hợp đồng với Bayern München đến năm 2021 vào tháng 3 năm 2016. Ngày 9 tháng 4 năm 2016, anh ghi bàn duy nhất của mình trong chiến thắng 3-1 của Bayern trước VfB Stuttgart tại Bundesliga 2015-16 và sau đó kết thúc mùa giải với cú đúp danh hiệu trong nước.
Ngày 10 tháng 2 năm 2018, Alaba ra sân lần thứ 200 tại Bundesliga trong chiến thắng 2-1 trước Schalke và trở thành cầu thủ không phải người Đức trẻ nhất đạt cột mốc này. Ngày 15 tháng 12, trong trận đấu với Hannover 96, anh ghi bàn đẹp mắt với cú vô-lê từ ngoài vòng cấm sau tình huống phạt góc.
Ngày 15 tháng 2 năm 2019, Alaba ấn định chiến thắng 3-2 trước FC Augsburg tại Bundesliga dù Bayern đã bị dẫn trước đến hai lần. Ngày 18 tháng 5, Bayern München giành chức vô địch Bundesliga lần thứ 7 liên tiếp sau trận thắng 5-1 trước Eintracht Frankfurt ở vòng đấu cuối cùng, và Alaba ghi 1 bàn và có 1 đường chuyền thành bàn trong trận này.
Alaba lại ghi bàn từ quả đá phạt vào ngày 30 tháng 8 năm 2019 trong chiến thắng 6-1 trước Mainz 05.
Dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Niko Kovač, Alaba chuyển sang đá ở vị trí trung vệ khi Niklas Süle và Lucas Hernandez đều chấn thương dài hạn. Sau đó, huấn luyện viên Hans-Dieter Flick cũng tiếp tục sử dụng anh ở vị trí này.
Trận tranh Siêu cúp châu Âu 2020 với Sevilla, Alaba phạm lỗi dẫn đến bàn thua sớm của Lucas Ocampos ở phút thứ 13. Tuy nhiên, ở phút 104, anh ghi bàn từ cú vô-lê, khiến thủ môn Yassine Bounou không thể cản phá, đem về chiến thắng 2-1 và danh hiệu Siêu cúp châu Âu lần thứ hai cho Bayern.
Alaba quyết định rời Bayern München khi hợp đồng của anh kết thúc vào ngày 30 tháng 6 năm 2021 và Real Madrid của Tây Ban Nha đã nhanh chóng đạt được thỏa thuận với anh. Sau 13 năm thi đấu cho Hùm xám xứ Bavaria, Alaba đã ra sân 430 trận, ghi được 33 bàn và giành 27 danh hiệu, trong đó có tới 10 chức vô địch Bundesliga và hai UEFA Champions League.
Real Madrid
Ngày 28 tháng 5 năm 2021, Real Madrid của Tây Ban Nha thông báo đã ký hợp đồng năm năm với Alaba và anh sẽ chính thức gia nhập sau Euro 2020. Theo truyền thông Tây Ban Nha, Alaba sẽ nhận lương 13,5 triệu USD mỗi năm tại Bernabéu.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Alaba từng thi đấu cho các đội U-17, U-19 và U-21 của Áo. Tháng 10 năm 2009, anh được triệu tập vào đội tuyển Áo để đối đầu với đội tuyển Pháp. Việc ra sân trong trận đấu này giúp anh trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử khoác áo đội tuyển Áo. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển Áo vào ngày 16 tháng 10 năm 2012 trong chiến thắng 4-0 trước Kazakhstan tại vòng loại World Cup 2014.
Tháng 12 năm 2011, Alaba lần đầu giành danh hiệu Cầu thủ Áo xuất sắc nhất năm, vượt qua Nacer Barazite của Austria Wien và Martin Harnik của VfB Stuttgart. Đây cũng là lần đầu anh giành được danh hiệu này. Một năm sau, anh tiếp tục lặp lại thành công này. Ngày 26 tháng 3 năm 2013, Alaba ghi bàn thắng ở phút bù giờ mang về trận hòa 2-2 cho Áo trước Ireland với cú sút xa đẹp mắt từ ngoài vòng cấm. Gần 6 tháng sau, anh ghi bàn duy nhất ở trận lượt về với Ireland vào phút 84, giúp Áo tiếp tục cơ hội lần đầu tham dự World Cup từ năm 1998. Kết thúc vòng loại World Cup 2014, anh là chân sút dẫn đầu đội tuyển Áo với 6 bàn.
Anh ghi bàn từ chấm phạt đền theo phong cách Panenka trong chiến thắng 4-1 trước Thụy Điển tại sân Friends Arena. Chiến thắng này đưa Áo lần đầu tiên kể từ năm 2008 vượt qua vòng loại Euro để lọt vào Euro 2016. Tuy nhiên, Áo đã rời giải sau vòng bảng với chỉ 1 điểm, xếp cuối bảng F với 1 trận hòa và 2 trận thua, ghi được 1 bàn và để lọt lưới 4 bàn.
Sau khi thất bại ở vòng loại World Cup 2018, Áo giành quyền tham dự Euro thứ hai liên tiếp sau khi đánh bại Bắc Macedonia 2-1 ngày 16 tháng 11 năm 2019, với Alaba ghi bàn mở tỉ số.
Alaba là đội trưởng của đội tuyển Áo tham dự Euro 2020 với 26 cầu thủ. Trong trận đấu mở màn bảng C với Bắc Macedonia, khi tỉ số đang là 1-1, anh đã kiến tạo cho Michael Gregoritsch ghi bàn nâng tỉ số lên 2-1 cho Áo. Chung cuộc, Áo thắng 3-1, đây là chiến thắng đầu tiên của Áo tại Euro sau ba lần tham dự giải.
Phong cách thi đấu
Alaba được biết đến với khả năng đa năng xuất sắc. Ban đầu anh chơi ở vị trí tiền vệ (tại Bayern München II), nhưng sau đó được huấn luyện viên Louis van Gaal kéo xuống chơi hậu vệ trái và thành danh ở vị trí này. Tại đội tuyển Áo, anh vẫn đảm nhận vai trò tiền vệ một cách thành công. Dưới thời Pep Guardiola tại Bayern, Alaba thậm chí được sử dụng làm trung vệ lệch bên trái trong sơ đồ ba hậu vệ. Anh luôn sử dụng phong cách xử lý đơn giản nhưng hiệu quả và an toàn. Alaba cũng có khả năng hỗ trợ tấn công tốt. Mặc dù là hậu vệ trái, anh thường xuyên tham gia tấn công biên và di chuyển vào trung lộ để giúp Bayern kiểm soát bóng. Việc di chuyển vào trung lộ giúp anh kết nối tốt hơn với các tiền vệ trung tâm và tạo ra những pha kết hợp tấn công hiệu quả. Alaba cũng nổi bật ở kỹ năng sút phạt trực tiếp và sút phạt đền.
Cựu danh thủ Matthias Sammer nhận xét rằng dù còn trẻ, Alaba đã là một trong những hậu vệ trái xuất sắc nhất trên thế giới. Stefan Effenberg cũng so sánh anh với những huyền thoại như Roberto Carlos, Paolo Maldini và Andreas Brehme trong cuộc phỏng vấn với SportWiche.
Cuộc sống cá nhân
Alaba sinh ra trong một gia đình đa văn hóa, với mẹ Gina là người Philippines và cha George Alaba là người Nigeria. Cha anh từng là ca sĩ rap và sau đó là DJ, là người da đen đầu tiên phục vụ trong Quân đội Áo, trong khi mẹ anh là cựu hoa hậu và y tá. Alaba tuân theo đạo Cơ Đốc Phục Lâm.
Thống kê sự nghiệp
Hoạt động ở câu lạc bộ
- Tính đến ngày 22 tháng 5 năm 2021.
Câu lạc bộ | Mùa giải | Cúp | châu Âu | Khác | Tổng cộng | Ref. | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Câu lạc bộ | Giải đấu
|
Mùa giải | Số lần ra sân | Số bàn thắng | Số lần ra sân | Số bàn thắng | Số lần ra sân | Số bàn thắng | Số lần ra sân | Số bàn thắng | Số lần ra sân | Số bàn thắng | |
Đức | Giải đấu | DFB-Pokal | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | ||||||||
Bayern München | Bundesliga | 2009–10 | 3 | 0 | 1 | 0 | 2 | 0 | — | 6 | 0 | ||
2010–11 | 2 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 3 | 0 | |||
2011–12 | 30 | 2 | 6 | 1 | 11 | 0 | — | 47 | 3 | ||||
2012–13 | 23 | 3 | 4 | 0 | 11 | 2 | 0 | 0 | 38 | 5 | |||
2013–14 | 28 | 2 | 5 | 0 | 12 | 2 | 4 | 0 | 49 | 4 | |||
2014–15 | 19 | 2 | 3 | 3 | 6 | 0 | 1 | 0 | 29 | 5 | |||
2015–16 | 30 | 1 | 5 | 0 | 10 | 1 | 1 | 0 | 46 | 2 | |||
2016–17 | 32 | 4 | 5 | 1 | 9 | 0 | 1 | 0 | 47 | 5 | |||
2017–18 | 23 | 2 | 7 | 0 | 6 | 0 | 0 | 0 | 36 | 2 | |||
2018–19 | 31 | 3 | 4 | 0 | 7 | 0 | 1 | 0 | 43 | 3 | |||
2019–20 | 28 | 1 | 5 | 1 | 8 | 0 | 1 | 0 | 42 | 2 | |||
2020–21 | 33 | 2 | 1 | 0 | 8 | 0 | 3 | 0 | 45 | 2 | |||
Tổng cộng | 281 | 22 | 46 | 6 | 92 | 5 | 12 | 0 | 431 | 33 | — | ||
Bayern München II | 3. Liga | 2009–10 | 23 | 1 | — | 23 | 1 | ||||||
2010–11 | 10 | 0 | 10 | 0 | |||||||||
Tổng cộng | 33 | 1 | — | 33 | 1 | — | |||||||
1899 Hoffenheim | Bundesliga | 2010–11 | 17 | 2 | 1 | 0 | — | 18 | 2 | ||||
Tổng cộng sự nghiệp | 331 | 25 | 48 | 7 | 92 | 5 | 12 | 0 | 482 | 36 | — |
- 1.^ IDFL-Supercup, UEFA Siêu cúp, và Giải câu lạc bộ Thế giới.
Bàn thắng cho đội tuyển quốc gia
- Bàn thắng và kết quả của đội tuyển Áo được liệt kê trước.
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | 16 tháng 10 năm 2012 | Sân vận động Ernst Happel, Vienna, Áo | Kazakhstan | 3–0 | 4–0 | Vòng loại World Cup 2014 |
2 | 22 tháng 3 năm 2013 | Quần đảo Faroe | 5–0 | 6–0 | ||
3 | 26 tháng 3 năm 2013 | Sân vận động Aviva, Dublin, Ireland | Cộng hòa Ireland | 2–2 | 2–2 | |
4 | 7 tháng 6 năm 2013 | Sân vận động Ernst Happel, Vienna, Áo | Thụy Điển | 1–0 | 2–1 | |
5 | 10 tháng 9 năm 2013 | Cộng hòa Ireland | 1–0 | |||
6 | 15 tháng 10 năm 2013 | Sân vận động Tórsvøllur, Tórshavn, Quần đảo Faroe | Quần đảo Faroe | 3–0 | 3–0 | |
7 | 8 tháng 9 năm 2014 | Sân vận động Ernst Happel, Vienna, Áo | Thụy Điển | 1–0 | 1–1 | Vòng loại Euro 2016 |
8 | 9 tháng 10 năm 2014 | Sân vận động Zimbru, Chişinău, Moldova | Moldova | 2–1 | ||
9. | 27 tháng 3 năm 2015 | Sân vận động Rheinpark, Vaduz, Liechtenstein | Liechtenstein | 3–0 | 5–0 | |
10. | 8 tháng 9 năm 2015 | Friends Arena, Solna, Thụy Điển | Thụy Điển | 1–0 | 4–1 | |
11. | 17 tháng 11 năm 2015 | Sân vận động Ernst Happel, Vienna, Áo | Thụy Sĩ | 1–1 | 1–2 | Giao hữu |
12. | 23 tháng 3 năm 2017 | Sân vận động Wörthersee, Klagenfurt, Áo | Slovenia | 1–0 | 3–0 | |
13. | 6 tháng 9 năm 2018 | Generali Arena, Vienna, Áo | Thụy Điển | 2–0 | 2–0 | |
14. | 15 tháng 11 năm 2019 | Sân vận động Ernst Happel, Vienna, Áo | Bắc Macedonia | 1–0 | 2–1 | Vòng loại Euro 2020 |
15. | 20 tháng 11 năm 2022 | Ý | 2–0 | 2–0 | Giao hữu |
Các danh hiệu
Hoạt động ở câu lạc bộ
Bayern Munich
- Bundesliga: 2009–10, 2012–13, 2013–14, 2014–15, 2015–16, 2016–17, 2017–18, 2018–19, 2019–20, 2020–21
- Cúp quốc gia Đức: 2009–10, 2012–13, 2013–14, 2015–16, 2018–19, 2019–20
- Siêu cúp Đức: 2016, 2017, 2018, 2020
- UEFA Champions League: 2012–13, 2019–20
- Siêu cúp châu Âu UEFA: 2013, 2020
- Cúp thế giới các câu lạc bộ FIFA: 2013, 2020
Real Madrid
- La Liga: 2021–22, 2023–24
- Cúp Nhà vua Tây Ban Nha: 2022–23
- Siêu cúp Tây Ban Nha: 2021–22, 2023–24
- UEFA Champions League: 2021–22, 2023–24
- Siêu cúp châu Âu UEFA: 2022
- Cúp thế giới các câu lạc bộ FIFA: 2022
Thành tích cá nhân
- Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Áo (6 lần): 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016
- Vận động viên xuất sắc nhất năm của Áo (2 lần): 2013, 2014
- Đội hình tiêu biểu của UEFA trong năm (3 lần): 2013, 2014, 2015